Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh ở bậc THCS

 Đoạn văn là một khái niệm cho đến nay đã và đang tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau. Những cách hiểu này tập trung vào hai hướng chính:

+ Hướng thứ nhất xem đoạn văn là sự phân đoạn hoàn toàn mang tính chất hình thức.

+ Hướng thứ hai quan niệm đoạn văn là sự phân đoạn nội dung, phân đoạn ý.

 Tuy nhiên, cách hiểu đúng nhất cần kết hợp hai quan niệm trên làm một, tức là xem đoạn văn vừa là sự phân đoạn về nội dung, vừa là sự phân đoạn về hình thức. Ở nhà trường, với mục đích rèn luyện cho học sinh biết cách chia bài văn ra các ý rõ ràng, minh bạch, vì thế chúng ta chỉ nghiên cứu đoạn văn trong một lần xuống dòng và đoạn văn gồm hai câu trở lên, diễn đạt một ý tương đối hoàn chỉnh.

Như vậy, cần hiểu khái niệm về đoạn văn như sau:

+ Hình thức: Đoạn văn là một phần của văn bản được tính từ chỗ viết hoa lùi đầu dòng đến chỗ chấm xuống dòng. Hay nói cách khác đoạn văn là phần của văn bản nằm giữa hai chỗ chấm xuống dòng.

+ Nội dung: Đoạn văn diễn đạt một nội dung hoặc một ý trọn vẹn của một vấn đề.

+ Từ ngữ và câu trong đoạn văn:

 * Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề.

 Từ ngữ chủ đề là các từ ngữ được dùng làm đề mục hoặc các từ ngữ được lặp lại nhiều lần thường là chỉ từ, đại từ, các từ đồng nghĩa nhằm duy trì đối tượng được biểu đạt.

 Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính và đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.

 Các câu trong đoạn văn có nhiệm vụ triển khai và làm sáng tỏ chủ đề của đoạn văn.

+ Cách trình bày nội dung trong đoạn văn:Thông thường theo các cách diễn dịch, quy nạp, song hành, tổng - phân - hợp, móc xích.

 

doc30 trang | Chia sẻ: haitina33 | Lượt xem: 2561 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh ở bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định thời gian quý như vàng, bạc; mà hơn thế nữa: thời gian chính là vàng, bạc đấy. Nếu bàn kĩ hơn thì thời gian còn quý hơn cả vàng, bạc, vì vàng, bạc có thể làm ra được, còn thời gian "hôm nay" đã qua, không thể làm lại thời gian "hôm nay" đã qua ấy. Không bao giờ cái đã qua trở lại được nữa.
	- Hãy viết câu chủ đề của đoạn văn: 
	+ Câu chủ đề đứng ở đầu đoạn
	+ Câu chủ đề đứng ở cuối đoạn
	- Nêu trình tự sắp xếp các luận cứ trong đoạn văn trên.
	* Gợi ý:
	- Luận điểm của đoạn văn trên: Thời gian quý hơn vàng, bạc.
	- Học sinh viết câu chủ đề: "Thời gian quý hơn vàng, bạc" ở hai vị trí khác nhau trong đoạn văn. 
	+ Nếu câu chủ đề đứng ở đầu đoạn văn thì đó là đoạn văn diễn dịch.
	+ Nếu câu chủ đề đứng ở cuối đoạn văn thì đó là đoạn văn quy nạp. Đối với đoạn quy nạp, câu chủ để như là một kết luận cho nên có thể thêm vào các từ ngữ chỉ ý khái quát, tổng hợp, thâu tóm vấn đề như: vì vậy, tóm lại, cho nên, ...
	- Trình tự sắp xếp các luận cứ trong đoạn văn trên:
	+ Khái niệm về thời gian.	
	+ Vàng, bạc tại sao lại quý?
	+ Tác dụng của nghệ thuật so sánh "Thời gian là vàng"
	+ Nâng cao hơn: Thời gian còn quý hơn vàng, bạc.
	3.4.3. Bài tập rèn kĩ năng xây dựng hệ thống luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm
(Thường sử dụng trong giờ luyện tập làm văn nghị luận, giờ trả bài)
- Bước 1: Giáo viên nêu vấn đề nghị luận (đề bài)
- Bước 2: Yêu cầu học sinh xác định luận điểm
- Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng hệ thống luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm.
+ Liệt kê các luận cứ
	+ Chọn lọc, sắp xếp luận cứ theo một trình tự hợp lí
	Giáo viên tham khảo bài tập sau:
	Để giải thích và chứng minh cho luận điểm: "Thiên tài từ cần mẫn", một bạn đã chuẩn bị các luận cứ sau:
	a. Go-rơ-ki nói: "Thiên tài là lao động. Thiên phú giống như đốm lửa, nó có thể lụi tắt, cũng có thể bùng cháy. Và cách làm cho nó trở thành rừng lửa thì chỉ có một, đó là lao động và lao động".
	b. Lê-ô-na đơ Vanh-xi là một họa sĩ tài danh nước Ý thời Phục hưng. Lúc nhỏ, ông theo học Phlô-ki-ô. Thầy giáo thoạt đầu không dạy ông sáng tác bất cứ một tác phẩm nào mà chỉ bắt ông vẽ quả trứng. Ông đã vẽ hết quả này đến quả khác, nhưng thầy vẫn bắt ông phải vẽ nữa.Vẽ liền một lúc mười mấy ngày để luyện tay, luyện mắt. Nhờ vậy, sau này ông đã trở thành một bậc thầy.
	c.Vương Miện thuở nhỏ nhà nghèo, phải đi ở chăn bò, không có tiền đi học. Nhưng ông quyết tâm tự học. Những khi lùa bò đi chăn, ông buộc quyển sách mượn được lên sừng bò, quyết chí học. Khi bò no cỏ thì ông vừa quan sát phong cảnh, vừa tập vẽ. Ông rất cố gắng suy xét, thể nghiệm, không hề ngơi nghỉ. Và cuối cùng đã trở thành một họa sĩ tài danh.
	d. Frank-lin nói: "Bạn có yêu cuộc sống không? Vậy thì đừng lãng phí thời gian. Vì thời gian là tài liệu tạo nên cuộc sống".
	e. Trai-côp-xki nói: "Dù một người có địa vị cao nhưng không lao động gian khổ thì không những không làm nên sự nghiệp lớn mà ngay cả thành tích bình thường cũng không đạt được".
	f. Phạm Ngũ Lão vốn là người đan sọt ở làng Phù Ủng. Một hôm, ông vừa ngồi đan sọt vừa mải nghĩ đến việc nước đến nỗi mà đoàn quân của Hưng Đạo Vương đi đến mà ông vẫn không hay biết; bị lính đâm giáo vào đùi, ông vẫn thản nhiên. Hưng Đạo Vương hay chuyện, thu nhận ông làm bộ tướng. Về sau, Phạm Ngũ Lão đã trở thành danh tướng của đời Trần.
	- Theo em, luận cứ nào không có tác dụng phục vụ cho luận điểm? Vì sao?
	- Sắp xếp lại các luận cứ đúng và viết thành đoạn văn hoàn chỉnh.
	* Gợi ý: 
- Luận điểm cần giải thích và làm sáng tỏ: "Thiên tài từ cần mẫn". Luận điểm được hiểu là lao động cần mẫn là yếu tố quan trọng để tạo nên thiên tài. Bởi vậy các luận cứ: d, f không có tác dụng phục vụ cho luận điểm. 
- Sắp xếp lại các luận cứ theo trình tự: a. e, b, c.
	- Trên cơ sở đã xác định được luận cứ cần thiết và hợp lí, HS viết đoạn văn trình bày luận điểm.
	3.4.4. Bài tập rèn kĩ năng viết đoạn văn nghị luận
 	(Thường sử dụng trong giờ luyện tập làm văn nghị luận, giờ kiểm tra, trả bài)
Giáo viên cho vấn đề nghị luận (đề bài)
- Bước 1: Yêu cầu học sinh xác định luận điểm
- Bước 2: Yêu cầu học sinh viết câu chủ đề (câu nêu luận điểm)
- Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng hệ thống luận cứ để làm sáng tỏ luận điểm
	+ Liệt kê các luận cứ
 	+ Chọn lọc, sắp xếp luận cứ theo một trình tự hợp lí
- Bước 4: Học sinh lựa chọn cách trình bày luận điểm hoặc theo yêu cầu của giáo viên. 
- Bước 5: Học sinh thực hành viết đoạn văn trên cơ sở đã thực hiện các bước 1, 2, 3, 4.
- Bước 6: Đọc, sửa chữa.
	* Lưu ý:
- Khi viết đoạn văn, tùy thuộc vào vấn đề cần nghị luận mà người viết có thể lựa chọn những kiểu kết cấu phù hợp.
- Đoạn văn phải đảm bảo các yêu cầu chung về nội dung và hình thức.
	Giáo viên tham khảo bài tập sau:
	Bài tập 1:
	Cho câu chủ đề: "Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta".
	Em hãy viết một đoạn văn (từ 8đến 10 câu) theo cách diễn dịch hoặc quy nạp để triển khai câu chủ đề trên.
	* Gợi ý: 
	- Trong đoạn văn diễn dịch, câu chủ đề đứng ở đầu đoạn, các câu tiếp theo triển khai vấn đề, làm sáng tỏ cho luận điểm.
	* Đoạn văn tham khảo viết theo cách diễn dịch:
	Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Đất nước ta vốn là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên quý giá bởi vậy luôn bị kẻ thù nhòm ngó rắp tâm xâm lược. Nhưng chưa khi nào dân ta cam chịu cảnh nô lệ lầm than, chưa khi nào chịu bó tay nhìn giặc tràn sang xâm lấn. Từ những năm 40, Hai Bà Trưng với nỗi hận nợ nước thù nhà đã phất cờ nổi dậy đánh đuổi tên Thái thú Tô Định nhà Hán. Sau Hai Bà Trưng còn có Phùng Hưng, Mai Thúc Loan, ...liên tục nổi dậy chống ách đô hộ của phong kiến Trung Quốc. Và đến năm 938, với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử, Ngô Quyền đã khẳng định quyền tự chủ của đất nước, đưa giang san vào kỉ nguyên mới. Sau Ngô Quyền, tinh thần yêu nước của cha ông tiếp tục thể hiện đậm nét trong nhiều chiến thắng lớn. Đó là ba lần đánh đuổi giặc Mông - Nguyên của vua tôi nhà TrầnĐó là đại chiến mùa xuân 1789 đánh tan quân xâm lược nhà Thanh của Nguyễn Huệ...Và gần thời đại chúng ta nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", là đại thắng mùa xuân 1975 đầy hào sáng.
	- Trong đoạn văn quy nạp, câu chủ đề là câu văn đứng cuối cùng, được nêu như một kết luận rút ra từ các câu trình bày cụ thể vấn đề ở trước đó.
	* Đoạn văn tham khảo viết theo cách quy nạp:
	Cứ mỗi lần đất nước bị xâm lăng thì nhân dân cả nước triệu người như một lại vùng đứng lên bảo vệ Tổ quốc. Mãi mãi còn âm vang trong lịch sử những chiến công oai hùng chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của các vị anh hùng dân tộc: Lí Thường Kiệt phá tan quân Tống, Trần Hưng Đạo ba lần đại phá quân Mông – Nguyên, Nguyễn Trãi và Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đuổi giặc Minh làm cho chúng phải kinh hồn bạt vía. Và gần thời đại chúng ta nhất là chín năm kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ (1946 – 1954) và hai mươi năm chống Mĩ hào hùng đã làm vẻ vang truyền thống yêu nước của dân tộc. Thật vậy, lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của nhân dân ta. 
Bài tập 2:
	Hãy viết một đoạn văn (từ 7đến 10 câu ) trình bày những tác dụng to lớn của nước sạch đối với đời sống con người.
	* Gợi ý: 
	- Xác định luận điểm cần triển khai: Những tác dụng to lớn của nước sạch đối với đời sống con người.
- Viết câu chủ đề: Nước sạch là một tài nguyên có vai trò to lớn đối với đời sống của con người.
	- Đặt câu chủ đề ở vị trí đầu tiên (đối với đoạn diễn dịch) hoặc cuối cùng (đối với đoạn quy nạp). 	
* Đoạn văn tham khảo:
	Nước sạch dùng cho sinh hoạt hàng ngày, nước để uống, để rửa thực phẩm, chế biến thức ăn, nước để tắm rửa,...Cơ thể con người có đến 70% là nước. Như vậy, nước chiếm một vai trò rất lớn đối với sự sống con người: nước chiếm một lượng lớn trong tế bào, nước vận chuyển, đưa máu đi khắp cơ thể, nước thanh lọc thận,...Người ta có thể nhịn ăn vài ngày nhưng không thể nhịn uống, không có nước, con người chết rất nhanh. Không có nước sạch, rau củ quả, thịt cá cũng không được rửa sạch, khi đó con người cũng không thể dùng chúng một cách đảm bảo vệ sinh an toàn. Không có nước sạch, thực phẩm rất khó được chế biến, lúc đó biết đâu ta sẽ phải ăn toàn đồ sống? Có ai đó nói rằng: nước là thứ duy nhất trên cõi đời này trong sạch. Nước trong sạch bởi chính bản thân chúng trong sạch và còn bởi nước làm trong sạch nhiều thứ. Hãy thử tưởng tượng, nước bao trùm lên mọi thứ, nếu nước vấy bẩn thì mọi thứ theo đó cũng vấy bẩn, ô nhiễm, tanh hôi...Nước sạch còn là yếu tố không thể thiếu trong sản xuất. Nước để tưới tiêu trong nông nghiệp. Nước dùng làm sạch nguyên liệu, giảm nhiệt máy trong sản xuất công nghiệp...Bởi vậy, nước sạch là một tài nguyên có vai trò to lớn đối với đời sống của con người.
Bài tập 3:
Viết một đoạn văn khoảng 10 câu chứng minh rằng: “Nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao là một người cha rất mực yêu thương con”. 
- Câu chủ đề: Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao là người cha rất mực yêu thương con.
- Tìm luận cứ:
+ Con trai lão Hạc vì không đủ tiền cưới vợ đã phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Đồng cảm với con, lão chấp nhận để con ra đi, ngậm ngùi chịu cảnh già cô quạnh không người chăm sóc.
+ Lão dành rất nhiều tình yêu thương cho con Vàng - kỉ vật duy nhất người con trai để lại cho lão trước khi đi.
+ Lão chủ động tìm đến một cái chết vô cùng đau đớn về thể xác để giữ trọn mảnh vườn cho con, đặng khi con về có vườn có đất mà làm ăn sinh sống.
	* Đoạn văn tham khảo:
Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao là người cha rất mực yêu thương con. Con trai lão Hạc vì không đủ tiền cưới vợ đã phẫn chí bỏ làng đi đồn điền cao su. Đồng cảm với nỗi đau khổ của con, lão chấp nhận để con ra đi, ngậm ngùi chịu cảnh già cô quạnh không người chăm sóc. Ở một mình trong căn nhà trống vắng, lão dành rất nhiều tình yêu thương cho con Vàng - kỉ vật duy nhất người con trai để lại cho lão trước khi đi. Thế rồi, cuộc sống của lão ngày một khó khăn, lão phải bán con Vàng. Lão đã vô cùng đau khổ, dằn vặt khi phải bán nó. Cuối cùng, lão Hạc đã chủ động tìm đến cái chết, một cái chết vô cùng đau đớn về thể xác để giữ trọn mảnh vườn cho con, đặng khi con trai lão về còn có vườn, có đất mà làm ăn sinh sống. Tình phụ tử của lão Hạc thật khiến ta cảm động.
	3.4.5. Bài tập rèn kĩ năng chữa lỗi trong đoạn văn nghị luận.
 	 (Dạng bài tập này giáo viên có thể sử dụng trong giờ trả bài). 
- Bước 1: Giáo viên chọn đoạn văn nghị luận có mắc lỗi như: Không viết được câu chủ đề hay câu chủ đề không phù hợp; không rõ luận điểm hay luận điểm không được làm sáng tỏ bằng hệ thống luận cứ đầy đủ và hợp lí,...
(Đoạn văn đó có thể là chính đoạn văn trong bài làm của học sinh trong lớp, trong khối; hoặc cũng có thể là đoạn văn cùng viết về nội dung theo yêu cầu của đề bài đã kiểm tra mà có chữa lỗi mà giáo viên tạo ra, sưu tầm để làm ngữ liệu hướng dẫn học sinh phát hiện và sửa lỗi).
 - Bước 2: Tổ chức học sinh phát hiện lỗi trong đoạn văn và hướng chữa lỗi.
 - Bước 3: Yêu cầu học sinh viết lại đoạn văn.
- Bước 4: Giáo viên kiểm tra một số đoạn văn của học sinh, nhận xét, củng cố kiến thức. 
 KẾT QUẢ SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
	Qua một năm thực hiện đề tài, tôi nhận thấy kĩ năng dựng đoạn của học sinh tăng lên rõ rệt. Nhiều em đã có kĩ năng viết đoạn thành thạo, đảm bảo sự liên kết cả về nội dung cũng như hình thức. Cuối năm học tôi đã khảo sát, kiểm chứng kết quả thực hiện đề tài qua việc khảo sát kĩ năng viết đoạn của học sinh hai lớp 8,9 để đối chứng so với kết quả đầu năm khi chưa triển khai thực hiện.
	Đề bài dùng để khảo sát: 
Cho câu chủ đề: "Chị Dậu là người phụ nữ yêu thương chồng con hết mực”
	Em hãy viết một đoạn văn (từ 8 đến 10 câu) theo cách diễn dịch hoặc quy nạp để triển khai câu chủ đề trên. 
BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT CỦA HỌC SINH HAI LỚP TRƯỚC VÀ SAU TRIỂN KHAI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Khối lớp
Tổng số học sinh
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
Đầu năm
8A
32
4
12,5%
10
31,3%
14
43,8%
4
14,2%
9B
24
2
8,3%
7
29,2%
12
28,8%
3
12,5%
Cuối năm
8A
32
12
37,5%
12
37,5%
6
25%
2
6,2%
9B
24
5
20,8%
11
45,8%
6
25%
2
8,3%
 So với kết quả khi chưa thực hiện đề tài, kết quả có thay đổi rõ rệt, tỉ lệ khá giỏi tăng, tỉ lệ trung bình, yếu giảm. Dưới đây là thống kê số liệu tăng giảm cụ thể: 
BẢNG SO SÁNH ĐỐI CHỨNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC VÀ
SAU KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI SKKN
Lớp
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
8A
8
+ 28,1 %
2
+15,6 %
- 8
- 25%
- 2
- 6,3%
9B
2
+8,3
 4
+16,7
- 4
-16,7
- 2
+8,3
( Kí hiệu: + là tăng, - là giảm).
Nhìn vào bảng so sánh đối chứng ta thấy sau khi thực hiện đề tài số học sinh đạt điểm giỏi của lớp 8A tăng 28,1%, lớp 9B tăng 8,3%. Số học sinh đạt điểm khá của 8A tăng 15,6%, 9B tăng 16,7%. Số học sinh đạt điểm trung bình 8A giảm 25%, 9B giảm 16,7%. Số học sinh bị điểm yếu của 8A giảm 18,8%, 9B giảm 8,3%. Kết quả này đã khẳng định một cách khách quan chất lượng giảng dạy phân môn Tập làm văn nói riêng, môn Ngữ văn chung của trường tôi khi áp dụng đề tài này có sự thay đổi rõ rệt.
 Kết quả trên đây cho thấy sự nghiên cứu, đầu tư trong các cách dạy học, ôn luyện, hướng dẫn cho học sinh của người thầy là vô cùng quan trọng. Có đổi mới, sáng tạo phương pháp giảng dạy sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say mê, tích cực trong giờ làm văn. 
 Mặc dù, khi viết bài văn, đoạn văn nghị luận văn học cần phải có kĩ năng phân tích tác phẩm theo từng thể loại (Trong phạm vi đề tài này tôi không đề cập đến). Nhưng các kĩ năng dựng đoạn đã thực hiện trong đề tài cũng đã góp phần nâng cao kĩ năng làm văn nghị luận, nhất là nghị luận văn học cho học sinh từng bước nâng cao, chất lượng học tập của học sinh ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường cũng như khả năng tạo lập văn bản khi bước vào cuộc sống.Tạo cho các em luôn có khả năng lập luận mạch lạc, chặt chẽ, thuyết phục khi trình bày một vấn đề, một tư tưởng.
 Kết quả trên đây cho thấy sự nghiên cứu, đầu tư trong các cách dạy học, ôn luyện, hướng dẫn cho học sinh của người thầy là vô cùng quan trọng. Có đổi mới, sáng tạo phương pháp giảng dạy sẽ tạo cho các em sự hứng thú, say mê, tích cực trong giờ làm văn. 
 Phần thứ III
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
	1. Mục tiêu học tập theo quan điểm dạy học hiện đại luôn coi trọng việc hình thành kỹ năng sống cho học sinh. Nội dung học tập các bộ môn văn hoá trong nhà trường phổ thông hiện nay với yêu cầu phải gắn liền với thực tiễn đời sống, phải góp phần làm cho người học ngày càng sống tốt đẹp hơn, hiểu biết thực tế cuộc sống xã hội ngày càng sâu sắc hơn, thực hiện các công việc ngày càng dễ dàng hơn và đạt hiệu quả cao hơn. Bởi vậy, việc nâng cao nhận thức và rèn luyện kỹ năng là một yêu cầu quan trọng đối với hoạt động dạy học phân môn Làm văn. Mặt khác, trong phân môn Làm văn, văn bản nghị luận là văn bản trọng tâm và chiếm nhiều dung lượng kiến thức so với các kiểu văn bản khác. Hơn nữa, kiểu bài văn nghị luận học sinh được tiếp cận từ THCS và lại được tiếp tục củng cố và nâng cao cho đến các lớp ở THPT. Chính vì thế, việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết đoạn văn nói chung và văn nghị luận nói riêng là một yêu cầu cần thiết trong quá trình tiếp nhận phân môn Làm văn để từ đó vận dụng trong học tập và thực tiễn đời sống.
2. Từ thực tế dạy học làm văn nghị luận cho thấy, xây dựng và trình bày luận điểm là công việc mà phần lớn học sinh thường cảm thấy khó làm. Vì vậy, việc hướng dẫn HS luyện tập viết đoạn văn trình bày luận điểm đòi hỏi ở giáo viên rất nhiều công phu và lòng kiên nhẫn. Việc luyện tập phải tiến hành theo từng bước, chắc chắn, tỉ mỉ, không sơ sài, không vội vã. Giờ luyện tập nên được tổ chức sao cho học sinh không thụ động trông chờ vào thầy cô giáo, mà phải chủ động suy nghĩ và mạnh dạn phát biểu những suy nghĩ của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh cụ thể các bước thực hiện, nhẫn nại sửa lỗi và chú ý khuyến khích những cố gắng, những thành công của các em, cho dù chỉ là những thành công nhỏ bé. 
Một số bài học tôi rút ra được sau khi thực hiện đề tài là:
	- Giáo viên cần cho học sinh nắm vững kiến thức về đoạn văn: Khái niệm, cách trình bày nội dung trong đoạn văn.
	- Giáo viên phải có điều tra khảo sát thực tế, và tùy theo đối tượng học sinh khá, giỏi hay trung bình, yếu mà vận dụng lựa chọn các dạng bài tập phù hợp. Qua đó củng cố hoặc nâng cao kiến thức về đoạn văn, rèn luyện kĩ năng dựng đoạn văn cho học sinh.
- Đặc biệt là phải cho học sinh nắm vững kiến thức về các tác phẩm văn học (qua các giờ học phân môn Văn) để có nội dung thực hành khi viết đoạn. 
II. KHUYẾN NGHỊ
	Trong việc đánh giá, giáo viên cần quan tâm, nhận xét đúng trước năng lực thực hành của mỗi học sinh. Ở đây đòi hỏi sự nhạy cảm của thầy trước yêu cầu thực hành, trước những thao tác và kĩ năng thực hành của học sinh. Yêu cầu giáo viên dày công luyện tập cho các em, kiên trì trong việc đánh giá kết quả không nên nóng vội, có tinh thần trách nhiệm cao.Tùy từng đối tượng ở các khối lớp, tùy từng vùng để có phương pháp vận dụng đúng đắn. Với phương châm là người truyền đạt kiến thức và chủ thể tiếp nhận kiến thức và mục đích cuối cùng là viết được các đoạn văn sáng tạo với đầy đủ các kĩ năng mà các em tiếp thu được.
	Về số lượng tiết học viết đoạn văn còn quá ít, nên tăng cường thêm số lượng cũng như thời gian cần được phân bố cân đối hài hòa để tránh học sinh ngại học căng thẳng mà ngược lại các em ham học hơn.
	 Trong sự phát triển đi lên của đất nước và của văn học nước nhà, văn học nhân loại, trong đó có không ít các nhân tài là giáo viên, là học sinh - chủ nhân tương lai của đất nước. Vì vậy việc dạy chữ, dạy người là rất cần thiết. Đặc biệt trong nhà trường THCS việc hình thành nhân cách, việc tiếp cận với kiến thức nhân loại, phân biệt cái tốt, cái xấu, cái phải cái trái đối với học sinh cũng là vấn đề then chốt. Hơn nữa, giúp các em ham học, thích học môn văn (trong đó có môn Tập làm văn, thực hành các kĩ năng viết đoạn văn) cũng là vấn đề mà giáo viên cần nghiên cứu.
	Vì vậy, chúng ta cần quan tâm hơn nữa để phát huy những tài năng sẵn có còn tiềm ẩn trong mỗi cá nhân học sinh, giúp các em hoàn thiện nhân cách, phát huy vốn tri thức của nhân loại làm giàu cho quê hương đất nước.
 LỜI KẾT
	Trên đây là một số giải pháp giúp học sinh viết tốt đoạn nghị luận trong chương trình Ngữ văn THCS. Đó cũng là những gì tôi tích lũy được trong thời gian giảng dạy đã qua.
	Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp, thông qua số tiết dự giờ, tham khảo tài liệu,...tôi đã tích lũy cho mình một số kinh nghiệm. Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy, sau một thời gian, chất lượng viết bài của học sinh có nâng lên rõ rệt, giảm số bài chưa đạt yêu cầu, tăng số bài viết tốt.
	Những giải pháp trên được tôi rút ra từ thực tế, cũng như thông qua trao đổi với đồng nghiệp có thể vẫn còn hạn chế,Vậy tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của BGH, Hội đồng Khoa học nhà trường và Hội đồng Khoa học Phòng giáo dục, Hội đồng Khoa học Sở giáo dục thành phố Hà Nội để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn Ngữ văn trong nhà trường ở bậc THCS. 
 Ngày 15 tháng 03 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là sáng kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa văn 7 tập 2. Nxb Giáo dục
2. Sách giáo viên văn 7 tập 2. Nxb Giáo dục
3. Sách giáo khoa văn 8 tập 2. Nxb Giáo dục
4. Sách giáo viên văn 8 tập 2. Nxb Giáo dục
5. Các dạng bài Tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 8. Nxb Giáo dục
6. Bồi dưỡng học sinh giỏi Ngữ văn Trung học cơ sở quyển 4 (Dùng cho học sinh lớp 8).Nxb Giáo dục.
7. 199 bài và đoạn văn hay lớp 7. Nxb Đại học Quốc gia.
8. Tuyển tập đề bài làm văn nghị luận xã hội, NXB Giáo dục Việt Nam (2010).
9. Luyện tập cách viết đoạn văn nghị luận của tác giả Nguyễn Quang Minh - Nguyễn Thu Ban - Trần Hữu Phong.
10. Nguyễn Trãi toàn tập Nxb KHXH 1976.
11. Đặng Thai Mai- Tiếng Việt một biểu hiện hung hồn của sức sống dân tộc.
MỤC LỤC

File đính kèm:

  • docSKKN Rèn kỹ năng viết đoạn văn nghị luận cho học sinh ở bậc THCS.doc
Sáng Kiến Liên Quan