Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp phụ đạo học sinh yếu Toán lớp 3
Cơ sở lý luận :
Khi thực hiện bất kỳ công việc gì, cũng nên xác định rõ đích cần đạt tới, trong dạy học cần xác định rõ ràng mục đích của nó, tức là xác định kết quả việc học tập của học sinh.
Đây là vấn đề then chốt, cơ bản trong việc dạy học của giáo viên. Nhiệm vụ tổng quát của môn Toán là xác định các cơ sở khoa học cho việc thực hiện nhiệm vụ dạy – học Toán ở Tiểu học, trên cơ sở đó tìm ra các con đường, các hình thức, tổ chức, các phương thức và cách thức làm việc thích hợp và quy định các phương tiện cần thiết để quá trình dạy – học Toán đạt mục đích và hiệu quả cao.
Quá trình dạy học phải coi trọng họat động là bản chất của mình, có nghĩa là dạy học chính là quá trình tổ chức các họat động khác nhau để học sinh được họat động và lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của việc dạy và học Toán ở tiểu học là làm sao cho học sinh nắm được một hệ thống kiến thức và kỹ năng Toán học. Vì vậy cần phải nắm vững kiến thức Toán học cơ bản, cần thiết, liên quan đến các kiến thức cần dạy, lựa chọn, sắp xếp hệ thống kiến thức, xác định rõ yêu cầu dạy – học và việc vận dụng các phương pháp đặc thù của Toán học một cách phù hợp với trình độ phát triển tư duy của học sinh. Từ đó bám sát mục tiêu trên tôi muốn nghiên cứu về đặc điểm tiết học, việc chuẩn bị bài dạy và về hình thức, tổ chức PPDH trong giờ học, PĐHSY Toán lớp 3C do tôi phụ trách ở Trường Tiểu học Thái Thủy.
2. Cơ sở thực tiễn:
- Xuất phát từ sự phát triển sự nghiệp CNH – HĐH đất nước đòi hỏi những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Hơn nữa thế giới đã chuyển sang thời kỳ kinh tế tri thức cho nên đầu tư vào chất xám sẽ là cách đầu tư có hiệu quả nhất. Vì vậy mà chất lượng học tập cần được chú trọng.
- Học xong Toán lớp 3 các em phải có kỹ năng đọc, viết các số đến 100.000
- Thực hiện được phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia trong phạm vi 100.000
Học sinh phải năm được yếu tố thống kê, đại lượng và đại lượng đo lường.
- Yếu tố hình học các em nắm được góc vuông, góc không vuông, điểm giữa, trung điểm của đoạn thẳng, hình tròn,
- Giải toán có lời văn dạng vận dụng về phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia có hai bước tính.
- Xuất phát từ thực trạng của việc dạy học ở trường Tiểu học Thái Thủy.
- Xuất phát từ thực trạng học sinh của lớp 3C và mục tiêu dạy học môn Toán trong giờ, PĐHSY Toán lớp 3.
A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Năm học 2011 – 2012 là năm học tiếp tục thực hiện, quán triệt sâu sắc cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung: - Chống bệnh thành tích trong giáo dục - Chống tiêu cực trong thi cử - Chống học sinh ngồi nhầm lớp - Chống vi phạm phẩm chất đạo đức nhà giáo Song song với vấn đề trên, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học được đặt lên vị trí quan trọng. Với PPDH mới chú trọng việc học của học sinh. Để thực hiện tốt 4 nội dung đó, đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải suy nghĩ, tìm tòi ra phương pháp , PĐHSY rất quan trọng. Tiểu học là bậc học nền tảng của nền giáo dục quốc dân góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam. Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí quan trọng vì các kiến thức. Kỹ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng rất cần thiết trong lao động, học tập các môn khác và học tiếp môn Toán ở các lớp trên. Phải nói rằng: Toán học là “Môn thể thao trí tuệ” giúp ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phương pháp suy luận đồng thời rèn trí thông minh và sáng tạo. Học sinh được lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kỹ năng Toán thông qua các tiết học Toán ở buổi sáng và tiết ôn luyện toán buổi chiều. Vấn đề mới lại nảy sinh là: Bồi dưỡng, Phụ đạo cho ai? Bồi dưỡng, Phụ đạo cái gì? Bồi dưỡng, Phụ đạo như thế nào? Làm sao đây để đảm bảo chất lượng, học sinh giỏi học tốt học sinh yếu vươn lên. Được trực tiếp giảng dạy một lớp tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở về vấn đề này làm thế nào để trong cùng tiết dạy các em được học tập, củng cố, bồi dưỡng, phụ đạo kiến thức trong khi đối tượng học sinh không đồng đều. Với suy nghĩ đó, tôi chọn “Việc dạy học tiết, PĐHSY Toán ở lớp 3” để nghiên cứu nhằm đề ra một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học các tiết, PĐHSY nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Toán nói chung. Qua đó phát hiện, bồi dưỡng những học sinh có năng khiếu thực sự để giúp các em phát triển tư duy Toán học tạo nguồn cho các lớp trên. Phụ đạo những học sinh yếu vươn lên trong học tập và nắm được các kiến thức, kỹ năng cơ bản của môn Toán mà các em đang học tập. “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Chúng ta luôn phải đào tạo được những lớp người kế tục xã hội có trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến. Do đó, con người phải có cơ sở kiến thức là Toán học. Toán học là chìa khoá mở đường cho con người đi vào tất cả các lĩnh vực khoa học khác. Toán học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Là một giáo viên Tiểu học nói chung, giáo viên lớp 3 nói riêng được phân công giảng dạy ở vùng đặc biệt khó khăn, đối tượng học sinh không đồng đều, các em tiếp thu kĩ năng toán còn nhiều hạn chế nên khi dạy tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở về điều này: Làm thế nào để học sinh nắm được kiến thức một cách hiệu quả nhất? Làm thế nào để đại bộ phận học sinh học tiếp lên bậc học cao hơn mà không bỡ ngỡ, lúng túng với môn toán. Từ những căn cứ đó, tôi chọn đề tài “Phương pháp,PĐHSY toán lớp 3” để nghiên cứu. II. MỤC ĐÍCH Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong quá trình dạy các dạng bài tập. Từ đó vận dụng linh hoạt vào việc hướng dẫn rèn kỹ năng làm các dạng bài tập, cho học sinh một cách hiệu quả nhất. III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận. - Đọc các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu. 2. Phương pháp quan sát: Thông qua dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp. 3. Phương pháp điều tra: Tìm hiểu thực trạng việc dạy học toán của khối 3 trường Tiểu học Thái Thuỷ. 4. Phương pháp thực nghiệm Thông qua các tiết toán đang dạy ở lớp 3C trường Tiểu học Thái Thuỷ. IV.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Tập thể học sinh lớp 3C trường Tiểu học tháI Thủy. B: PHẦN NỘI DUNG I.NHỮNG CƠ SỞ THỰC TIỄN, CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP,PĐHSY TOÁN LỚP 3. 1. Cơ sở lý luận : Khi thực hiện bất kỳ công việc gì, cũng nên xác định rõ đích cần đạt tới, trong dạy học cần xác định rõ ràng mục đích của nó, tức là xác định kết quả việc học tập của học sinh. Đây là vấn đề then chốt, cơ bản trong việc dạy học của giáo viên. Nhiệm vụ tổng quát của môn Toán là xác định các cơ sở khoa học cho việc thực hiện nhiệm vụ dạy – học Toán ở Tiểu học, trên cơ sở đó tìm ra các con đường, các hình thức, tổ chức, các phương thức và cách thức làm việc thích hợp và quy định các phương tiện cần thiết để quá trình dạy – học Toán đạt mục đích và hiệu quả cao. Quá trình dạy học phải coi trọng họat động là bản chất của mình, có nghĩa là dạy học chính là quá trình tổ chức các họat động khác nhau để học sinh được họat động và lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Nhiệm vụ cơ bản hàng đầu của việc dạy và học Toán ở tiểu học là làm sao cho học sinh nắm được một hệ thống kiến thức và kỹ năng Toán học. Vì vậy cần phải nắm vững kiến thức Toán học cơ bản, cần thiết, liên quan đến các kiến thức cần dạy, lựa chọn, sắp xếp hệ thống kiến thức, xác định rõ yêu cầu dạy – học và việc vận dụng các phương pháp đặc thù của Toán học một cách phù hợp với trình độ phát triển tư duy của học sinh. Từ đó bám sát mục tiêu trên tôi muốn nghiên cứu về đặc điểm tiết học, việc chuẩn bị bài dạy và về hình thức, tổ chức PPDH trong giờ học, PĐHSY Toán lớp 3C do tôi phụ trách ở Trường Tiểu học Thái Thủy. 2. Cơ sở thực tiễn: - Xuất phát từ sự phát triển sự nghiệp CNH – HĐH đất nước đòi hỏi những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Hơn nữa thế giới đã chuyển sang thời kỳ kinh tế tri thức cho nên đầu tư vào chất xám sẽ là cách đầu tư có hiệu quả nhất. Vì vậy mà chất lượng học tập cần được chú trọng. - Học xong Toán lớp 3 các em phải có kỹ năng đọc, viết các số đến 100.000 - Thực hiện được phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia trong phạm vi 100.000 Học sinh phải năm được yếu tố thống kê, đại lượng và đại lượng đo lường. - Yếu tố hình học các em nắm được góc vuông, góc không vuông, điểm giữa, trung điểm của đoạn thẳng, hình tròn, - Giải toán có lời văn dạng vận dụng về phép cộng, phép trừ, phép nhân, phép chia có hai bước tính. - Xuất phát từ thực trạng của việc dạy học ở trường Tiểu học Thái Thủy. - Xuất phát từ thực trạng học sinh của lớp 3C và mục tiêu dạy học môn Toán trong giờ, PĐHSY Toán lớp 3. II. THỰC TRẠNG CỦA HỌC SINH LỚP 3 TRƯỜNG TIỂU HỌC THÁI THỦY. 1. Thuận lợi: - Việc dạy các tiết, PĐHSY toán có nhiều điểm thuận lợi. Đó là về mặt kiến thức cơ bản học sinh đã nắm được qua các tiết học chính. - Học sinh biết vận dụng những kiến thức đã học để suy luận, phán đoán, giải quyết những vấn đề mới nảy sinh khi một đơn vị kiến thức được mở rộng. - Giáo viên nắm được những yêu cầu mà học sinh cần đạt, cần mở rộng trong một đơn vị kiến thức. - Giáo viên nắm rõ đối tượng học sinh của lớp mình trực tiếp phụ trách. - Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo trường. 2. Khó khăn: - Học sinh chưa tích cực, tự giác trong khi tự học và làm việc theo nhóm, dễ bị phân tán sự chú ý. - Học toán khó nên đối tượng học sinh yếu thường lơ là trong quá trình học tập. - Tài liệu tham khảo của tiết, PĐHSY cho giáo viên còn hạn chế. Giáo viên phải tự suy nghĩ, thiết kế một bài dạy làm sao đảm bảo chất lượng, cho đối tượng học sinh yếu. III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: + Biện pháp 1: Giáo viên phải nắm được đặc điểm của tiết học, phân loại học sinh theo đúng đối tượng (dạy cho ai?) Nằm trong ''Chương trình dạy học'', tiết học, PĐHSY Toán'' cũng có nhiệm vụ thực hiện mục tiêu môn học như nội dung một tiết học chính. Như tên gọi của nó đã thể hiện: Trong một giờ học, giáo viên phải tìm cách PĐHSY để củng cố kiến thức. Học sinh không có năng khiếu về Toán, tư duy còn chậm. Như vậy là trong từng tiết dạy giáo viên phải nắm vững những yêu cầu cần đạt của những học sinh không có năng khiếu nhưng ở mức cao hơn, sâu hơn, được mở rộng hơn. Từ mục đích, yêu cầu tiết học là cơ sở cho việc giáo viên tổ chức hình thức lớp học, điều chỉnh nội dung và phương pháp dạy học cho phù hợp. Để học sinh hoạt động tích cực, giáo viên dễ làm việc, dễ bao quát lớp cần phân loại học sinh theo đối tượng tiếp nhận tri thức. Trong giờ học, mỗi học sinh phải tiến hành làm việc độc lập với hoạt động dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên. Khi nhóm đối tượng này tiến hành công việc độc lập thì nhóm đối tượng khác lại trực tiếp làm việc với giáo viên và ngược lại. Cứ như thế, hai quá trình đó luân phiên nhau trong suốt tiết học. Trong thời gian dành cho hoạt động độc lập của mỗi học sinh thuộc nhóm đối tượng này phụ thuộc vào thời gian cần thiết để giáo viên trực tiếp với nhóm đối tượng kia. Do đặc thù của tiết học nên để giờ học có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải nắm vững kiến thức, có trình độ sư phạm và khả năng tổ chức cao. + Biện pháp 2: Soạn bài chu đáo, chuẩn bị hệ thống bài tập đầy đủ, câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh. Với mục tiêu và đặc điểm của tiết học. Khi soạn bài giáo viên cần xây dựng nhiệm vụ và bài tập cho học sinh theo đối tượng cả về lý thuyết và thực hành. Trên cơ sở mục tiêu tiết học chính, giáo viên xác định mục tiêu tiết , PĐHSY: Cần bồi dưỡng, phụ đạo cái gì? Từ đó xây dựng hệ thống bài tập và các nhiệm vụ. Bài soạn cần chú trọng các thủ pháp hoạt động tư duy, nâng cao hiệu quả hoạt động trí tuệ của học sinh. Phải bảo đảm những nguyên tắc của lý luận dạy học như nguyên tắc thực hành, nguyên tắc tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh, nguyên tắc vừa sức theo đối tượng. Cụ thể, bài soạn cần phải thoả mãn những điều kiện sau: - Xác định hệ thống những yếu tố kiến thức kỹ năng, kỹ xảo cần đạt trong tiết học. - Thiết lập mối quan hệ giữa mục tiêu tiết, PĐHSY với những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đã học, cho học sinh nhắc lại những phần quan trọng đã học. Chẳng hạn: Khi dạy tiết: PĐHSY bài ''Diện tích hình chữ nhật'', giáo viên yêu cầu học sinh nêu lại cách tính diện tích hình chữ nhật (quy tắc, công thức tính) Các nhiệm vụ và bài tập được trình bày vừa sức với điều kiện tự làm việc của học sinh, kích thích hứng thú của học sinh trong suốt quá trình học tập. Xây dựng được những hoạt động cụ thể và trình tự thực hiện đúng. Đối với những bài tập phát triển tư duy cần có những chỉ dẫn đặc biệt. Ngoài ra giáo viên cần chuẩn bị những tài liệu, thiết bị dạy học, phương tiện dạy học bổ trợ đảm bảo cho việc tự kiểm tra của học sinh. Nội dung bài tập vừa giúp học sinh ôn tập những kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đã học, vừa ứng dụng kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong giải quyết các bài tập mở rộng. Mặt khác, nội dung bài tập dành cho học sinh phải dựa trên cơ sở nội dung bài tập của học sinh không có năng khiếu. Chẳng hạn: Bài tập dành riêng cho học sinh trung bình và yếu: Ví dụ: “Một miếng kính hình chữ nhật có chiều rộng 4cm, chiều dài 14cm. Tính diện tích miếng bìa đó” Khi xây dựng hệ thống bài tập, giáo viên có thể chọn lọc các bài tập trong sách giáo khoa, vở bài tập để có thể sử dụng cho học sinh yếu. Ngoài ra cần điều chỉnh, xây dựng các nhiệm vụ và bài tập cho phù hợp đặc điểm đối tượng học sinh trung bình và yếu. + Biện pháp 3: Hướng dẫn, tổ chức chỉ đạo học sinh hoạt động một cách linh hoạt, khoa học. Chú trọng vai trò của nhóm trưởng. Phát huy vai trò tự học của học sinh. Sử dụng các hình thức, các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng tiết học. Trong một tiết học thường, việc tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập có vai trò rất quan trọng thì trong tiết, PĐHSY vai trò ấy lại càng quan trọng hơn. Nếu giáo viên không khéo léo trong việc tổ chức, hướng dẫn thì tiết học sẽ rời rạc, khập khiễng, học sinh bị phân tán sự chú ý, các hoạt động học tập của học sinh giữa các nhóm bị chồng chéo. Để làm tốt vấn đề này, giáo viên phải nắm chắc mục tiêu tiết học, mục tiêu của từng nhiệm vụ và bài tập, biết giải quyết chúng một cách chính xác và nắm được trình tự, các bước tiến hành để hướng dẫn cho học sinh. Công việc của người giáo viên là giao nhiệm vụ, hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ và kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ. Khi giao nhiệm vụ giáo viên trình bày một cách rõ ràng, ngắn gọn, chính xác, cụ thể. Nhiệm vụ được xây dựng sao cho trình tự thực hiện được trải dài theo trình tự thời gian, chia ra từng thao tác. Khi hướng dẫn thực hiện, giáo viên phải nắm trình tự này để kiểm soát được cả quá trình chứ không phải chỉ kết quả cuối cùng để biết được học sinh gặp khó khăn hoặc sai sót từ khâu nào để sửa chữa kịp thời. Khâu đánh giá kết quả học tập là rất quan trọng, vừa kích thích hứng thú học tập, vừa giúp học sinh củng cố kiến thức. Giáo viên phải dành thời gian thích hợp cho khâu này. Ở tiết, PĐHSY, việc kiểm tra kết quả làm việc của học sinh cũng có đặc tính riêng. Hình thức kiểm tra cũng chuyển từ kiểm tra miệng sang kiểm tra viết. Ví dụ: Khi giao bài tập cho học sinh làm, giáo viên yêu cầu cả lớp làm vào vở nháp và 1 - 2 em làm ở bảng phụ. Khi chữa bài, giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm bài làm của bạn và nhận xét đúng, sai, em nào có cách giải khác thì lên bảng trình bày (viết ở bảng lớp). Giáo viên hướng dẫn những điểm cơ bản, cốt yếu nhất trong nội dung bài tập. Ở tiết BDHSG, PĐHSY, việc học sinh tự học, tự kiểm tra là rất cần thiết (nhất là đối với nhóm đối tượng trung bình, yếu). Để làm tốt việc này, giáo viên có thể chuẩn bị bảng phụ có ghi lời giải đúng (do học sinh làm hoặc giáo viên làm) để học sinh đối chiếu, kiểm tra với bài của mình, của bạn khi đổi chéo vở kiểm tra. Như vậy, hình thức nói miệng trước lớp phải nhường cho hình thức đọc thầm, hình thức viết. Thời gian tiến hành đàm thoại giữa giáo viên và học sinh giảm so với tiết thường nên lời nói của giáo viên trên lớp rất quan trọng. Giáo viên cần nói to vừa đủ, nhẹ nhàng. Khi giao nhiệm vụ phải tế nhị, khuyến khích lòng tự tin của học sinh. Lời nói của giáo viên phải có tính chuẩn mực. Do điều kiện đặc biệt của tiết, PĐHSY tạo nên một số biến đổi phương pháp học liên quan đến hoạt động của thầy và trò như tăng mức độ hoạt động độc lập của học sinh. Về hình thức tổ chức dạy học có thể sử dụng hình thức học theo nhóm, học cá nhân và phát huy vai trò của nhóm trưởng, cán sự bộ môn. Có thể cho học sinh làm bài, trao đổi, thảo luận theo nhóm nhỏ(2 em) Ngoài ra, yêu cầu về thiết bị dạy học, phương tiện dạy học như: vở bài tập, phiếu bài tập, bảng phụ... đóng vai trò quan trọng. Các phương tiện hỗ trợ này có tác dụng tăng cường hoạt động thực hành, cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh, tạo điều kiện cho các em tự làm việc. IV. KẾT QUẢ: Qua thời gian nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm... tôi nhận thấy các tiết học theo đối tượng học sinh yếu đã được thực hiện khá nhịp nhàng, hiệu quả tiết học ngày càng cao, học sinh nắm vững kiến thức và được đi sâu vào từng đơn vị kiến thức.. Đồng thời chất lượng học sinh yếu hạn chế đến mức tối đa. Cụ thể qua khảo sát, kết quả như sau: Đợt Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % Đợt 1 12 36 11 33 7 21 3 9 Đợt 2 12 36 12 36 7 21 2 6 Đợt 3 13 39 12 36 7 21 1 3 Đợt 4 V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Để nâng cao chất lượng dạy học tiết , PĐHSY nói chung có hai nhân tố quan trọng quyết định đó là thầy và trò. - Về phía giáo viên: + Phải nắm được đặc điểm lớp học, đặc điểm tiết học + Chuẩn bị bài dạy chu đáo, hệ thống bài tập phù hợp với đối tượng học sinh. + Có kiến thức, trình độ sư phạm. Hướng dẫn, tổ chức chỉ đạo học sinh hoạt động linh hoạt, khoa học. + Lựa chọn các hình thức dạy học, các phương pháp dạy học phù hợp với đặc trưng tiết học. + Tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. - Về phía học sinh: + Tích cực học tập dưới sự tổ chức, hướng dẫn của cô giáo. + Phát huy tính tự học, năng động, sáng tạo. C. PHẦN KẾT LUẬN Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã vận dụng để hướng dẫn học sinh nhằm ''Nâng cao hiệu quả tiết dạy, PĐHSY Toán ở lớp 3''. Tuy đây chưa phải là biện pháp tốt nhất, song bằng sự cố gắng của bản thân tôi đã mạnh dạn áp dụng và bước đầu đưa lại kết quả tốt. Tôi rất mong sự góp ý bổ sung của hội đồng khoa học, các đồng chí chuyên môn và đồng nghiệp trong quá trình giảng dạy để sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn không ngừng nâng cao chất lượng học tập của học sinh. Xin chân thành cảm ơn! Thái Thủy, ngày 20 tháng 4 năm 2012 XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI VIẾT HĐKH NHÀ TRƯỜNG Lê Thị Anh Đào
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_phu_dao_hoc_sinh_yeu_toan.doc