Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy thực hành môn Vật lí
Vật lý học là cơ sở của nhiều ngành kỹ thuật quan trọng, sự phát triển của khoa học Vật lý gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại, trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Vì vậy, những hiểu biết và nhận thức Vật lý có giá trị lớn trong đời sống và trong sản xuất, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ngày nay việc nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo Dục và Đào Tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong họat động học tập mà phương pháp dạy học là cách thức họat động của giáo viên trong việc chỉ đạo, tổ chức họat động học tập nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học.
Nhằm đảm bảo tốt việc thực hiện mục tiêu đào tạo môn Vật lý ở trường trung học phổ thông (THPT) cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, có hệ thống và tương đối toàn diện. Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng vận dụng các kiến thức Vật lý để giải thích những hiện tượng Vật lý đơn giản, những ứng dụng trong đời sống, kỹ năng quan sát. Yêu cầu đổi mới PPDH đối với môn Vật lý còn có một sắc thái riêng, phải huớng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa, cho học sinh tập dượt giải quyết một số vấn đề Vật lý trong thực tế. Vì vậy việc tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm trong giờ học Vật lý cũng không kém phần quan trọng trong việc đổi mới PPDH nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT.
SỞ GD&ĐT NAM ĐỊNH TRƯỜNG THPT XUÂN TRƯỜNG CHUYÊN ĐỀ Phương pháp dạy thực hành môn Vật lí A-PHẦN MỞ ĐẦU: I-LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 1/ Lý do khách quan: Vật lý học là cơ sở của nhiều ngành kỹ thuật quan trọng, sự phát triển của khoa học Vật lý gắn bó chặt chẽ và có tác động qua lại, trực tiếp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Vì vậy, những hiểu biết và nhận thức Vật lý có giá trị lớn trong đời sống và trong sản xuất, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày nay việc nâng cao chất lượng giáo dục là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong xã hội. Trong bối cảnh toàn ngành Giáo Dục và Đào Tạo đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong họat động học tập mà phương pháp dạy học là cách thức họat động của giáo viên trong việc chỉ đạo, tổ chức họat động học tập nhằm giúp học sinh chủ động đạt các mục tiêu dạy học. Nhằm đảm bảo tốt việc thực hiện mục tiêu đào tạo môn Vật lý ở trường trung học phổ thông (THPT) cung cấp cho học sinh những kiến thức phổ thông cơ bản, có hệ thống và tương đối toàn diện. Rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng vận dụng các kiến thức Vật lý để giải thích những hiện tượng Vật lý đơn giản, những ứng dụng trong đời sống, kỹ năng quan sát. Yêu cầu đổi mới PPDH đối với môn Vật lý còn có một sắc thái riêng, phải huớng tới việc tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa, cho học sinh tập dượt giải quyết một số vấn đề Vật lý trong thực tế. Vì vậy việc tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm trong giờ học Vật lý cũng không kém phần quan trọng trong việc đổi mới PPDH nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở trường THPT. 2/ Lý do chủ quan : Bản thân là giáo viên dạy môn Vật lý cho nên việc tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm trong giờ học Vật lý là vấn đề cần thiết trong việc tổ chức học nhóm cho HS nhằm để nâng cao chất lượng giáo dục. Trong quá trình công các tại trường tôi thường xuyên được tập huấn về việc đổi mới phương pháp dạy học, bản thân tôi được học về nghiệp vụ phụ trách và sử dụng thiết bị dạy học trong trường THPT. Qua việc nghiên cứu giảng dạy trên lớp cũng như những kinh nghiệm của giáo viên khác nhằm đưa ra những phương pháp thích hợp trong việc tổ chức cho HS làm thí nghiệm trong giờ Vật lý. II- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : Nghiên cứu việc làm thí nghiệm Vật lý - nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức, từ đó học sinh nắm chắc kiến thức hơn, nâng cao chất lượng dạy và học, tạo môi trường giáo dục toàn diện và thân thiện - tích cực. III- NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU : - Việc làm thí nghiệm Vật lý, xây dựng hệ thống thí nghiệm, qua đó làm nổi bật mối liên hệ giữa các kiến thức với nhau, giúp học sinh vận dụng kiến thức nhiều lần để các em nhớ kỹ và hiểu kiến thức vững chắc, sâu sắc hơn. IV- ĐỐI TƯỢNG VÀ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU: - Việc làm thí nghiệm Vật lý Giáo viên giảng dạy môn Vật lý khối lớp 11,12 Học sinh khối 11,12. Thái độ học của học sinh trong khi làm thí nghiệm Vật lý. Chương trình sách giáo khoa lớp 11, 12 . Hệ thống các bài thí nghiệm về điện trong giờ Vật lý. V- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 1. Phương pháp nghiên cứu chương trình nội dung sách giáo khoa Vật lý và tài liệu liên quan . a.Mục đích : Hệ thống các thí nghiêm. Tiến hành xây dựng hệ thống thí nghiệm. b.Tài liệu : Sách giáo khoa vật lý. Bảng phân phối chương trình Vật lý. Sách giáo viên, sách bài tập, sách tham khảo . c. Cách tiến hành : Thu thập các tư liệu có liên quan đến đề tài: sách giáo khoa Vật lý, các bài học có làm thí nghiệm. Cần nghiên cứu kỹ kiến thức khi làm thí nghiệm. 2.Phương pháp trò chuyện phỏng vấn : a.Mục đích : Tìm hiểu tình hình học và làm thí nghiệm Vật lý của học sinh. Những khó khăn và thuận lợi khi xây dựng làm thí nghiệm phần điện học. b.Đối tượng : Giáo viên bộ môn. Học sinh khối 11,12. c.Nội dung : Đặt câu hỏi để tìm hiểu việc làm thí nghiệm của giáo viên và học sinh. d.Cách tiến hành : Xác định mục đích và đối tượng cần trò chuyện . Xây dựng bảng hệ thống câu hỏi phỏng vấn ( xem phần phụ lục ). Thực hiện phỏng vấn – ghi nhận kết quả . 3. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động : a.Mục đích : Nắm được thực trạng việc tổ chức làm thí nghiệm Vật lý của giáo viên và của học sinh b.Đối tượng : Giáo án của giáo viên . Kế hoạch giảng dạy của giáo viên . c.Cách tiến hành : Xác định mục đích yêu cầu . Liệt kê những sản phẩm cần nghiên cứu . Mô tả có phê phán lại quá trình hoạt động đưa đến sản phẩm đó . 4.Phương pháp quan sát : a.Mục đích : Nắm được phương pháp giảng dạy của giáo viên . Nắm được tinh thần thái độ học tập của học sinh . b.Nội dung : Quan sát cách dạy của giáo viên . Quan sát cách làm thí nghiệm của học sinh . Quan sát tất cả các hoạt động trên lớp của giáo viên và học sinh khi làm thí nghiệm. c.Cách tiến hành : Chuẩn bị mục đích, nội dung, cách quan sát và tiêu chuẩn đánh giá . Sau khi quan sát cần ghi chép kết quả và có sự thống nhất của những người cùng quan sát . Tóm lại : Qua việc nghiên cứu bằng các phương pháp nêu trên, ta cần rút ra những kinh nghiệm tiên tiến và tìm ra những biện pháp thực hiện tốt nhiệm vụ của vấn đề . B-PHẦN NỘI DUNG: CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN: - Vật lý học là cơ sở của nhiều ngành kỹ thuật quan trọng. Môn Vật lý có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, qua lại giữa các môn khác. Việc tổ chức dạy học Vật lý THPT cần rèn luyện cho học sinh đạt được: - Kỹ năng quan sát các hiện tượng và quá trình vật lý để thu thập thông tin và các dữ liệu cần thiết. - Kỹ năng sử dụng các dụng cụ đo lường vật lý phổ biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm đơn giản. - Kỹ năng phân tích, xử lý các thông tin và các dữ liệu thu được từ các quan sát hoặc thí nghiệm. - Kỹ năng vận dụng các kiến thức để giải thích các hiện tượng vật lý đơn giản để giải quyết một số vấn đề trong thực tế cuộc sống - Khả năng đề xuất các dự đóan hoặc giả thiết đơn giản về mối quan hệ hay về bản chất của các hiện tượng vật lý. - Khả năng đề xuất phương án thí nghiệm đơn giản để kiểm tra dự đoán hoặc giả thiết đã đề ra. - Kỹ năng diễn đạt rõ ràng, chính xác bằng ngôn ngữ vật lý. - Khối lượng nội dung của tiết học Vật lý được tính toán để có thời gian dành cho các hoạt động tự lực của học sinh và đáp ứng những yêu cầu sau: - Tạo điều kiện để cho học sinh có thể quan sát trực tiếp các hiện tựơng vật lý. - Tạo điều kiện để cho học sinh thu thập và xử lý thông tin, nêu ra được các vấn đề cần tìm hiểu. - Tạo điều kiện để cho học sinh trao đổi nhóm, tìm phương án giải quyết vấn đề, tiến hành thí nghiệm, thảo luận kết quả và rút ra những kết luận cần thiết. - Tạo điều kiện để cho học sinh nắm được nội dung chính của bài học trên lớp. CHƯƠNG II: CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH TRONG LÀM THÍ NGHIỆM: Tổ chức HS làm thí nghiệm Vật lý chủ yếu trong các hoạt động nhóm, nhằm rèn luyện cho HS kĩ năng sử dụng các dụng cụ đo lường Vật lý phổ biến, lắp ráp và tiến hành các thí nghiệm đơn giản, kĩ năng phân tích và xử lí các thông tin, các dữ liệu thu được từ thí nghiệm. Qua thí nghiệm học sinh có thái độ trung thực, tỉ mỉ, cẩn thận, chính xác trong thực hành thí nghiệm. Làm thí nghiệm là một hoạt động không thể thiếu trong nhiều giờ học Vật lý. Khi làm thí nghiệm thành công thì HS cơ bản đã nắm được kiến thức, nội dung của bài học. Muốn làm thí nghiệm thành công cũng không phải chuyện dễ vì môn Vật lý có nhiều thí nghiệm, mỗi bài học có một kiểu thí nghiệm khác nhau. Giáo viên phải suy nghĩ xem mình phải chuẩn bị những gì cho thí nghiệm ở bài học này và những gì cho thí nghiệm ở bài học khác, nhưng tổ chức cho HS làm thí nghiệm ở những bài học khác nhau cũng có những đặc điểm chung: Chuẩn bị: + HS: tổ chức HS làm thí nghiệm chủ yếu trong hoạt động nhóm nên GV có thể chia lớp thành 4 à6 nhóm nhỏ (tùy tình hình cơ sở vật chất trường, lớp), có phân công cụ thể cho từng thành viên trong nhóm như phân công nhận và thu dọn lại dụng cụ thí nghiệm của nhóm. Phân công thư ký để ghi kết quả thí nghiệm, phân công chịu trách nhiệm trình bày kết quả thí nghiệm . Trong nhóm, mỗi thành viên thực hiện một công việc cụ thể. + GV phải chuẩn bị sẵn đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ cần thiết cho từng thí nghiệm ở các nhóm. Vẽ hình sẵn nếu cần thiết. Giới thiệu đồ dùng: GV giới thiệu và cách sử dụng từng đồ dùng có trong thí nghiệm hoặc qua hình vẽ HS nêu được các đồ dùng cần thiết trong thí nghiệm hoặc HS có thể tự đề xuất phương án làm thí nghiệm để giải quyết một vấn đề nào đó. Giáo viên có thể làm mẫu cho HS xem: có những thí nghiệm tương đối khó thực hiện, GV có thể làm trước cho HS xem trước các bước hoặc có những đồ dùng các em chưa từng thực hiện thì GV cũng có thể thao tác cho HS thấy. Tiến hành thí nghiệm: các nhóm HS đồng loạt tiến hành thí nghiệm theo sự hướng dẫn của GV. Từng thành viên trong nhóm thực hiện nhiệm vụ của mình như đã phân công trong nhóm. Các nhóm thảo luận, xử lý, trình bày kết quả: sau khi các nhóm thực hiện thí nghiệm xong (có thể trong quá trình thí nghiệm) các nhóm tự thảo luận, xử lý kết quả của nhóm mình sau đó trình bày kết quả trên bảng phụ của nhóm hoặc phiếu học tập mà GV đã hướng dẫn trước đó. Lớp thảo luận thống nhất: sau khi các nhóm trình bày kết quả thí nghiệm GV cho cả lớp cùng thảo luận kết quả từ đó đi đến thống nhất chung về kết quả thhực hiện được. rong những bài thí nghiệm ở phần Điện học trình tự tiến hành thí nghiệm như trên tuy nhiên nó cũng có những đặc thù riêng của phần Điện học, cụ thể: - Chuẩn bị đầy đủ các linh kiện, đồ dùng (nên soạn riêng từng mâm cho mỗi nhóm) - Vẽ hình mạch điện lên bảng phụ, yêu cầu HS cho biết công dụng và cách mắc từng bộ phận trong sơ đồ mạch điện - Dựa vào mạch điện, hướng dẫn từng bước cho HS mắc mạch điện theo sơ đồ. - Chú ý đặt các dây dẫn điện phải liên tục để dễ quan sát (hạn chế đan chéo nhau) - GV nhắc HS trong khi ráp mạch điện phải để khóa K hở. Sau khi nhóm nào báo ráp xong, GV đến kiểm tra àcho HS đóng khóa K. - Nếu nhóm nào khi đóng khóa K mà thấy kim của các dụng cụ quay ngược lại thì lập tức ngắt khóa k và kiểm tra, đổi cực ở hai chốt của dụng cụ. - HS biết đọc các số chỉ thị trên mặt đồng hồ đo, giá trị một khoảng chia ( đối với những loại vôn kế hoặc ampe kế có 2 thang đo thì phải đọc thang trên hay thang dưới) - GV phải biết cần cho HS mắc vôn kế và ampe kế với thang đo như thế nào để không hỏng dụng cụ. - Nên theo dõi thí nghiệm ở các nhóm để có thể giúp các em thực hành đúng động tác và nhất là đọc đúng số chỉ của các dụng cụ đo. - Cần bố trí thêm một bộ dụng cụ thí nghiệm để phòng có các dụng cụ hỏng của các nhóm . ¯Ví dụ1 : wTrong bài 19 “Khảo sát mạch điện xoay chiều có R,L,C mắc nối tiếp” (Vật lý lớp 12) cho các nhóm đo hiệu điện thế UMQ = U; UMN; UNP; UMP; UPQ. A B M N R L C --> Mục đích thí nghiệm: Tập dùng đồng hồ hiện số đa năng để đo điện áp xoay chiều. Vận dụng phương pháp giản đồ Fre - nen để xác định L, r, C, Z và cosj của đoạn mạch điện xoay chiều có R, L, C mắc nối tiếp. Chuẩn bị : (mỗi nhóm):1 nguồn điện xoay chiều 6V - 12V; 1 điện trở R = 270 W (hay 220 W ); 1 tụ điện có C = 4mF (hay 2mF); một cuộn dây có 1000-2000 vòng; bốn sợi dây dẫn; 1 thước 200mm; một com pa; 1 thước đo góc. + GV: chuẩn bị sẵn sơ đồ mạch điện của hình 19.1. - Cho HS vẽ sơ đồ mạch điện, nếu HS vẽ không được thì GV cho HS xem sơ đồ đã chuẩn bị sẵn. - Ở bài này HS làm quen với ampe kế, vôn kế, nguồn điện xoay chiều cho nên GV phải giới thiệu cách sử dụng dụng cụ này. - Sau khi các nhóm đã nhận dụng cụ, GV yêu cầu HS xác định giới hạn đo (GHĐ) và điều chỉnh các dụng cụ đo và đối chiếu GHĐ đó xem có phù hợp với yêu cầu SGK không? - Cho HS mắc mạch điện, GV lưu ý HS khi mắc ampe, vôn kế đảm bảo chốt (+) của ampe, vôn kế được mắc về phía cực dương của nguồn và khi chưa đóng điện kim của ampe kế chỉ số 0. - Nhóm nào mắc mạch điện xong GV kiểm tra lại và cho đóng điện --> HS đo lần lượt số chỉ vôn kế UMQ = U; UMN; UNP; UMP; UPQ. + j S P x O - Sau đó cho HS tiến hành dùng compa và thước vẽ các vectơ MN, MP, NP, PQ và MQ có độ dài biểu diễn các điện áp UMQ = U; UMN; UNP; UMP; UPQ. - Từ giản đồ đã vẽ, đo độ dài MN, MP, PH. - Tính các gí trị L, r, C, Z và cosj . *Chú ý: - HS mắc đúng chốt + và – của ampe kế. - Không được mắc trực tiếp hai cực của ampe, vôn kế vào nguồn điện để tránh làm hỏng ampe, vôn kế và nguồn điện. ¯Ví dụ2 : wTrong bài “BIẾN TRỞ - ĐIỆN TRỞ DÙNG TRONG KĨ THUẬT” (Vật lý lớp 11) cho các nhóm mắc biến trở vào mạch điện và sử dụng biến trở trong mạch điện. => Mục đích thí nghiệm: Biết cách mắc biến trở vào mạch điện, biết tác dụng của biến trở. - Chuẩn bị : (mỗi nhóm):nguồn điện 3V; 1 biến trở con chạy (20-2A); 1 bóng đèn 2,5V; 1 công tắc; 5 đoạn dây dẫn. - HS cho biết các dụng cụ ở mạch điện hình vẽ, từ đó cho HS vẽ sơ đồ mạch điện. - Sau khi HS vẽ sơ đồ mạch điện GV cho HS nhận dụng cụ và tiến hành lắp mạch điện. - GV lưu ý HS đẩy con chạy về phía N để biến trở có điện trở lớn nhất trước khi cho HS đóng công tắc. Sau đó cho HS di chuyển con chạy về phía A và quan sát độ sáng của bóng đèn. - Sau khi các nhóm thực hiện xong cho đại diện các nhóm trả lời câu hỏi SGK => Rút ra kết luận chung: Biến trở là điện trở có thể thay đổi trị số và có thể sử dụng để điều chỉnh cường độ dòng điện trong mạch. K + - *Chú ý: - Khi mắc biến trở nối tiếp vào mạch điện thì lưu ý HS mắc ở các chốt A và N hoặc B và N. Nếu HS mắc biến trở vào mạch ở hai chốt A và B thì biến trở không có tác dụng thay đổi điện trở vì khi dịch chuyển con chạy sẽ không có tác dụng làm thay đổi chiều dài của phần cuộn dây của biến trở. - Trước khi đóng mạch điện thì dịch chuyển con chạy về phía N (nếu mắc ở chốt A và N) hoặc dịch chuyển con chạy về phía A (nếu mắc ở chốt B và N) vì nếu để con chạy ở vị trí có điện trở thấp nhất khi đóng mạch điện có thể làm hỏng bóng đèn trong mạch. HS thường không chú ý đến điều này, vì vậy nên cho các nhóm dịch chuyển con chạy ở giữa biến trở là an toàn nhất. - Dịch chuyển con chạy phải nhẹ nhàng để tránh làm hỏng chổ tiếp xúc giữa con chạy và cuộn dây của biến trở. - HS sử dụng thành thạo cách mắc biến trở sẽ giúp HS thực hiện tốt các thí nghiệm mắc mạch điện có biến trở ở nhiều bài học ở phần sau. CHƯƠNGIII: NHỮNG ĐIỀU LƯU Ý, NHỮNG KẾT LUẬN THÔNG QUA VIỆC LÀM THÍ NGHIỆM: Việc làm thí nghiệm về mạch điện nếu sử dụng nguồn điện là pin thì khá an tòan cho HS. Tuy nhiên nếu làm thí nghiệm với nguồn điện là biến thế chỉnh lưu cắm vào mạch điện 220V thì trước khi làm thí nghiệm GV cần kiểm tra để bảo đảm cách điện giữa cuộn sơ cấp (cắm vào điện 220V) với cuộn thứ cấp ở mạch điện HS sử dụng. Trên bàn GV cần có cầu dao điều khiển điện cho cả lớp, ở cầu dao này dùng dây chì loại nhỏ để dễ ngắt mạch khi có sự cố. Sau khi kiểm tra việc lắp mạch điện của HS xong GV mới đóng mạch cho sử dụng. Khi có sự cố giáo viên có thể ngắt mạch điện ngay. Việc cho học sinh làm thí nghiệm rất quan trọng, nên giáo viên phải tổ chức cho học sinh làm đều đặn và thường xuyên (từ đó tạo cho các em thói quen an toàn trong khi làm thí nghiệm). Nhất là đối với phần Điện học, nếu các em được thường xuyên làm thí nghiệm thì các em sẽ thành thạo trong cách lắp mạch điện làm cho giáo viên đỡ vất vả nhiều trong khâu hướng dẫn ở những tiết sau, các em có thói quen về an toàn điện và biết cách khắc phục sự cố nếu có. Qua việc giảng dạy, dự giờ ở những tiết Vật lý có tổ chức cho HS làm thí nghiệm thì thấy không khí lớp học rất sôi nổi, giúp cho học sinh tiếp thu bài tốt hơn, các em rất say mê trong những thí nghiệm do chính tay mình làm từ đó các kiến thức được khắc sâu hơn vì những kiến thức vật lý thường xuất phát từ những thí nghiệm chứng minh, thí nghiệm thực hành. Tuy nhiên để việc làm thí nghiệm thành công hơn thì giáo viên phải biết tổ chức hợp lý mới có kết quả tốt, phải chọn những dụng cụ sao cho hạn chế ít nhất những sai số không cần thiết. C-PHẦN KẾT LUẬN: *Kết luận: * Đối với việc làm thí nghiệm Vật lý. Để nâng cao chất lượng của việc dạy và học môn vật lí ở trường THPT, thì việc tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm là rất cần thiết và có vai trò quan trọng, quyết định đến chất lượng dạy và học của môn vật lí. Làm những thí nghiệm từ đơn giản đến phức tạp giúp học sinh nắm vững, đào sâu, mở rộng kiến thức, từ đó nâng cao chất lượng học tập môn vật lí của học sinh. Qua tìm hiểu tình hình thực tế ở các tiết có làm thí nghiệm cho thấy học sinh rất ham thích làm thí nghiệm, nhớ bài học lâu hơn, giúp học sinh kỹ năng làm các bài tập thực tế hiệu quả hơn, cũng chính vì sự ham thích đó mà có một số em hay tò mò sử dụng các dụng cụ thí nghiệm để làm những công việc khác ngoài mục đích yêu cầu của bài thí nghiệm. Do đó cần phải quan tâm đến việc làm thí nghiệm của học sinh ở các nhóm nhất là cho học sinh biết rõ được mục đích thí nghiệm. Giáo viên muốn dạy được tốt, nâng cao chất lượng học tập của học sinh thì trường phải có phòng thí nghiệm, thực hành, giáo viên phải làm thí nghiệm thử đi thử lại nhiều lần, kỹ càng trước khi lên lớp. Muốn vậy giáo viên phải không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức, kĩ năng, thao tác thực hành vững vàng để nâng cao chất lượng giảng dạy của mình. *Ý kiến đề xuất: * Đối với việc làm thí nghiệm Vật lý. Giáo viên muốn tổ chức việc làm thí nghiệm cho học sinh được tốt thì phải có sử chuẩn bị tốt trước khi lên lớp. Muốn vậy giáo viên phải không ngừng học hỏi nâng cao kiến thức, kĩ năng, thao tác thực hành vững vàng để nâng cao chất lượng giảng dạy của mình. Đối với nhà trường cần trang bị đầy đủ phương tiện cũng như những trang thiết bị dạy học đầy đủ hơn, phải có phòng thí nghiệm, thực hành dành riêng cho bộ môn Vật lý để giáo viên đỡ mất thời gian trong việc chuẩn bị trước khi lên lớp từ đó nâng cao chất lượng học tập của học sinh hơn nữa. Trên đây là kinh nghiệm nhỏ được đúc rút từ quá trình làm việc của bản thân. Rất mong được sự tham gia đóng góp của các cấp chỉ đạo và các bạn đồng nghiệp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT (Bộ Giáo Dục và Đào Tạo) Vật lý lớp 12 (nhà xuất bản giáo dục) Vật lý lớp 12– sách giáo viên (nhà xuất bản giáo dục) Vật lý lớp 11 (nhà xuất bản giáo dục) Vật lý lớp 11 – sách giáo viên (nhà xuất bản giáo dục) Luật Giáo Dục Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ Đoàn. Các công văn, chỉ thị, kế hoạch chỉ đạo của cấp trên về phong trào "xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" PHỤ LỤC (Đối với việc làm thí nghiệm Vật lý) Hệ thống câu hỏi trò chuyện phỏng vấn Đối với giáo viên: Thầy (cô) giảng dạy cho học sinh làm thí nghiệm Vật lý bằng cách nào ? Thầy (cô) thấy có những thuận lợi và khó khăn gì khi cho học sinh làm thí nghiệm? Thầy (cô) có cho học sinh làm thí nghiệm thường xuyên không? Thầy (cô) chuẩn bị như thế nào trước khi cho học sinh làm thí nghiệm? Thầy (cô) thường chú ý điều gì khi cho học sinh làm thí nghiệm trong phần Điện học? Thầy (cô) bố trí hệ thống điện như thế nào để an toàn cho cả lớp học ? Các em có dễ dàng thực hiện các bước làm thí nghiệm theo hướng dẫn của thầy(cô) không ? Thầy (cô) cho biết để đạt hiệu quả tốt khi cho học sinh làm thí nghiệm cần những yếu tố cơ bản nào ? Chất lượng học tập của học sinh qua các tiết có làm thí nghiệm như thế nào ? Đối với học sinh: Các em có thích học các tiết Vật lý có làm thí nghiệm không? Thầy cô yêu cầu các em tìm hiểu hoặc giải quyết một vấn đề Vật lý, các em có thích tìm hiểu và giải quyết vấn đề bằng thí nghiệm không? Các em tự suy nghĩ để tiến hành làm thí nghiệm không? Các em cho biết qua việc làm thí nghiệm Vật lý có giúp các em nắm vững sâu sắc các nội dung kiến thức không? Các em có vận dụng hết khả năng của mình để tiến hành làm thí nghiệm thành công không ? Em gặp khó khăn gì khi làm thí nghiệm trong những giờ Vật lý? Xuân Trường ngày 10 tháng 1 năm 2010 Nhóm Vật Lí
File đính kèm:
- sang_kien.doc