Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy học phần Cơ học của môn Vật lý 6
Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu:
Vật lí học là cơ sở của lý luận phương pháp giảng dạy vật lí, bởi vì trong giảng dạy người giáo viên phải nắm vững đặc điểm của tri thức và phương pháp vật lí. Dựa trên cơ sở bến vững các tư tưởng triết học Duy vật biện chứng trong vật lí học và nắm vững nhận thức luận Mác - Lê Nin thì mới có thể giải quyết tốt nhiệm vụ dạy học vật lí ở THCS, giáo viên cần tìm ra con đường ngắn nhất, hợp lí nhất để trang bị cho học sinh phổ thông kiến thức về những cơ sở khoa học và phương pháp vật lí, đồng thời rèn luyện các em kĩ năng, kỹ xảo ứng dụng sáng tạo những kiến thức ấy vào thực tiễn. Như vậy là góp phần trao dồi cho học sinh phương pháp và năng lực nhận thức thế giới và cải tạo thế giới theo hướng có lợi cho loài người. Nhằm mục đích lấy, không chỉ nội dung mà cả phương pháp giảng dạy vật lí ở trường THCS cũng phải có tác dụng giúp học sinh hiểu rõ: Tính chất biện chứng của hiện tượng vật lí, khái niệm vật chất và tính chất bất diệt của thế giới vật chất vận động.
I – ĐẶT VẤN ĐỀ Để cho việc giảng dạy Vật lý ở trường phổ thông có hiệu quả, người giáo viên Vật lý không những cần nắm vững kiến thức mà cả phương pháp và lịch sử phát triển của môn Vật lý. Như vậy vẫn chưa đủ, người giáo viên Vật lý còn cần phải nắm vững lý thuyết và việc thực hành giảng dạy Vật lý ở trường phổ thông. Do chương trình mới học sinh khối 6 đã được tiếp cận với Vật lý còn nhiều bỡ ngỡ với những khái niệm Vật lý lạ lẫm như Lực, Trọng lực, Lực đàn hồi, Khối lượng riêng, Trọng lượng riêng... trong khi đó kiến thức toán học của các em vẫn còn hạn chế gây ảnh hưởng không ít đến việc dạy học Vật lý. Phần "Cơ học" là chương đầu tiên của môn Vật lý giành cho khối 6, phần này chỉ gồm những kiến thức liên quan đến những hiện tượng Vật lý đơn giản nhất, nó cũng cần sự tư duy, phân tích hiện tượng một cách nhanh nhạy và tính toán chính xác trong một số trường hợp cụ thể. Ví dụ như: cần xác định chính xác khối lượng riêng của sỏi, sao cho kết quả nó phải phù hợp (có phần tương đối) như trong bảng khối lượng riêng của một số chất (cụ thể ở đây là đá). Vì vậy tôi nghiên cứu “Phương pháp dạy học phần Cơ học của môn Vật lý 6” để tìm ra những giải pháp để học sinh có thể tiếp thu tốt kiến thức Vật lý phần "Cơ học" khi học sinh mới làm quen với môn Vật lý ngay từ lớp 6 mà trước đây học sinh khối 7 mới được học. II - Phần nội dung. 1. Lịch sử của việc nghiờn cứu: Từ khi loài người xuất hiện trên trái đất thì đồng thời cũng xuất hiện, hiện tượng giáo dục, trong quá trình tìm kiếm các phương tiện để sinh sống, con người đã sớm nhận thức sự cần thiết phải truyền thụ kinh nghiệm cho lớp người sau. Từ thời nguyên thuỷ người ta đã biết đập hai hòn đá vào nhau để lấy lửa, biết ăn chín, uống sôi, biết thăm dò hiện tượng tự nhiên để đáp ứng cho cuộc sống tốt đẹp hơn, càng ngày loài người càng có trình độ cao đã tìm tòi, sáng tạo, khám phá thiên nhiên, có ước mơ và hoài bão, có ý trí và nghị lực để đạt được ước mơ đó, ví dụ: Thấy con chim bay được và loài người cũng ước mơ mình cũng bay được, họ đã tìm tòi, nghiên cứu kỹ về loài chim và đã chế tạo ra máy bay, ra khinh khí cầu, khi từ trên độ cao rất lớn khi họ muốn xuống thấp họ biết nhảy dù để đảm bảo an toàn cho tính mạng mình. Môn vật lý là môn khoa học nghiên cứu bản chất của các hiện tượng tự nhiên, tránh người dân mê tín dị đoan, để truyền thụ lại những kiến thức vật lý cho lớp người sau không phải là một điều đơn giản vì vậy mà có rất nhiều giáo viên đã nghiên cứu phương pháp giảng dạy vật lý nói chung và phương pháp giảng dạy phần "Cơ học" nói riêng. Trước đây học sinh được học vật lý từ lớp 7 nhưng bây giờ học sinh được học vật lý từ lớp 6 với nội dung SGK theo chương trình mới để đáp ứng với sự phát triển của đất nước trong thế kỷ 21. Vì vậy hòi hỏi giáo viên dạy vật lý cần có một kiến thức chuyên môn vững, luôn luôn học hỏi và luôn cập nhật với những tin tức và sự kiện liên quan đến hiện tượng vật lý mà con người đã tìm ra. 2. Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu: Vật lí học là cơ sở của lý luận phương pháp giảng dạy vật lí, bởi vì trong giảng dạy người giáo viên phải nắm vững đặc điểm của tri thức và phương pháp vật lí. Dựa trên cơ sở bến vững các tư tưởng triết học Duy vật biện chứng trong vật lí học và nắm vững nhận thức luận Mác - Lê Nin thì mới có thể giải quyết tốt nhiệm vụ dạy học vật lí ở THCS, giáo viên cần tìm ra con đường ngắn nhất, hợp lí nhất để trang bị cho học sinh phổ thông kiến thức về những cơ sở khoa học và phương pháp vật lí, đồng thời rèn luyện các em kĩ năng, kỹ xảo ứng dụng sáng tạo những kiến thức ấy vào thực tiễn. Như vậy là góp phần trao dồi cho học sinh phương pháp và năng lực nhận thức thế giới và cải tạo thế giới theo hướng có lợi cho loài người. Nhằm mục đích lấy, không chỉ nội dung mà cả phương pháp giảng dạy vật lí ở trường THCS cũng phải có tác dụng giúp học sinh hiểu rõ: Tính chất biện chứng của hiện tượng vật lí, khái niệm vật chất và tính chất bất diệt của thế giới vật chất vận động. 3. Thực trạng vấn đề nghiên cứu thu thập xử lý các tài liệu thực tiễn và đề ra biện pháp giáo dục. Chương trình Vật lý THCS được cấu tạo thành 2 giai đoạn: Giai đoạn 1: Lớp 6 và lớp 7. Giai đoạn 2: Lớp 8 và lớp 9. + ở giai đoạn 1: Tuỳ khả năng tư duy của học sinh còn hạn chế, vốn kiến thức toán học chưa nhiều, nên chương trình chỉ đề cập đến những hiện tượng vật lý quen thuộc, thường gặp hàng ngày thuộc các lĩnh vực cơ, nhiệt, điện, quang, âm học. Việc trình bày những hiện tượng này chủ yếu theo quan điểm hiện tượng thiên về mặt định tính hơn là định lượng. + ở giai đoạn 2: Tuỳ khả năng tư duy của học sinh đã phát triển, học sinh đã có một số hiểu biết ban đầu về các hiện tượng vật lý ở xung quanh, ít nhiều có thói quen hoạt động theo những yêu cầu chặt chẽ của việc học tập vật lý, vốn kiến thức toán học cũng đã được nâng cao thêm một bước, do đó việc học tập môn vật lý ở giai đoạn này phải có những mục tiêu cao hơn ở giai đoạn 1. - Chương trình vật lý 6 là phần mở đầu của giai đoạn 1, nên những yêu cầu về khả năng tư duy trừu tượng, khái quát cũng như những yêu cầu về mặt định lượng trong việc hình thành các khái niệm và định luật Vật lý đều ở mức thấp. Học sinh lớp 6 được làm quen với phần đầu tiên của môn vật lý là phần "Cơ học" ở đây tôi chỉ đề cập tới phương pháp dạy học phần "Cơ học" (mục tiêu của chương I) "Cơ học" ở lớp 6 là: 1. - Biết đo chiều dài (l) trong một số tình huống thường gặp. - Biết đo thể tích (V) theo phương pháp hình tròn 2. - Nhận dạng tác dụng lực (F) như là đẩy hoặc kéo của vật. - Mô tả kết quả tac dụng của lực như làm vật biến dạng hoặc làm biến đổi chuyển động của vật. - Chỉ ra được 2 lực cân bằng khi chúng cùng tác dụng cùng 1 vật đang đứng yên. 3. - Nhận biết của lực đàn hồi như là lực do lực bị biến dạng đàn hồi tác dụng lên vật gây ra biến dạng. - So sánh lực mạnh, lực yếu dưa vào tác dụng của lực làm biến dạng nhiều hay ít. - Biết sử dụng lực kế để đo lực trong một số trường hợp thông thường và biết đơn vị lực là Niu tơn (N). 4. - Phân biệt khối lượng (m) và trọng lượng (P). - Khối lượng là lượng vật chất chứa trong vật, còn trọng lực là lực hút của trái đất tác dụng lên vật. Trọng lượng là độ lớn của trọng lực. - Khối lượng đo bằng cân đơn vị là Kg. Còn trọng lượng đo bằng lực kế, đơn vị là Niu tơn (N). - Trong điều kiện thông thường khối lượng của vật không thay đổi nhưng trọng lượng thì có thể thay đổi chút ít tùy theo vị trí của vật đối với trái đất. - ở trái đất một vật có khối lượng là 1Kg thì có trọng lượng được tính tròn là 10 N. - Biết đo khối lựng của vật bằng cân đòn. - Biết cách xác định khối lượng riêng (D) của vật, đơn vị là Kg /m3 và trọng lượng riêng (d) của vật, đơn vị là N/m3. 5. - Biết sử dụng ròng rọc, đòn bẩy, mặt phẳng nghiêng để đổi hướng của lực hoặc để dùng lục nhỏ thắng được lực lớn. 4. Phương phỏp giảng dạy từng bài. Bài 1, 2: Đo độ dài. Cần cho học sinh phân biệt được thế nào là giới hạn đo và đọ chia nhỏ nhất, giáo viên lấy một số loại thức như thước kẻ, thước mét để học sinh phân biệt (Học sinh hoạt động cá nhân hay theo nhóm). ở bài 1, 2 này cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng: "Biết ước lượng gần đúng một số đọ dài cần đo và đo độ dài trong một số tình huống thông thường, biết tính giá trị trung bình các kết quả đó". Một số học sinh kiến thức bị rỗng ở Tiểu học nên giáo viên phải dạy lại kiến thức cũ. + Dạy lại cách đổi đơn vị đo độ dài, học thuộc dãy sau: Km; hm; dam; m; dm; cm; mm. 1 Km = 1000 m 1 Km = 10000 dm 1 m = 10 dm. 1 Km =10 hm 1 Km = 100.000 cm 1 m = 100 cm. 1 Km = 10 dam 1 Km = 1000.000 mm 1 m = 1000 mm. + Hướng dẫn học sinh các tính giá trị trung bình. Ví dụ: Đo lần 1: l1 = 9 cm. Đo lần 2: l2 = 7 cm. Đo lần 3 l3 = 8 cm Độ dài trung bình của 3 lần đo là: l1 + l2 + l3 9 + 7 + 8 24 ltb = ––––––––– = –––––––––– = –––––– = 8 (cm) 3 3 3 Bài 3: Đo thể tích chất lỏng. Cho học sinh thấy được một số dụng cụ thường dùng để đo thể tích chất lỏng. Hướng dẫn học sinh biết xác định thể tích của chất lỏng bằng dụng cụ đo thích hợp, bình chia độ (chai, bình, ca đã biết sẵn dung tích), giáo viên ôn lại cho học sinh về đơn vị đo thể tích. Yêu cầu học sinh học thuộc dãy sau. m3 dm3 cm3 mm3. và cách đổi đơn vị: 1m3 = 1.000 dm3 1 l = 1 dm3 1m3 = 1.000.000 cm3 1 ml = 1 cm3 (1cc) 1m3 = 1.000.000.000 mm3. Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đo thể tích tính chính xác, cách đọc kết qủa khi đo. Bài 4: Đo thể tích vật rắn không thấm nước. Cho học sinh biết sử dụng các dụng cụ đo (bình chia độ, bình tràn) để xác định thể tích của vật rắn có hình dạng bút chì không thấm nước. Giáo viên cho học sinh thực hành theo các nhóm và uốn nắn cách đo thể tích và cách đọc kết quả trong khi thực hành. Bài 5: Khối lượng, đo khối lượng. Giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách đo khối lượng, nắm được đơn vị khối lượng là Kilôgam: kg. Biết sử dụng cân Rôbéc van, nắm được giới hạn đo và độ chia nhỏ nhất của cân Rôbét van. Giáo viên hướng dẫn lại cách đổi đơn vị đo khối lượng, yêu cầu học sinh học thuộc dãy sau: 1 tấn = 10 tạ = 100 yến = 1.000 kg = 10.000 hg = 100.000 dag = 1.000.000 g 1 kg = 10 hg = 100 dag = 1.000 g v.v... 1 1 mg = –––––– g ; 1 g = 1.000 mg 1.000 Lưu ý học sinh 1 héc tô gam còn gọi là 1 lạng 1 hg (1lạng) = 100g - Giáo viên hướng dẫn học sinh giải thích được ý nghĩa của biển báo giao thông (5t - trên thực tế biển báo giao thông ký hiệu là 5T). Bài 6: Lực - Hai lực cân bằng. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm các ví dụ về lực đẩy, lực kéo, lực hút và chỉ ra được ra phương và chiều của các lực đó. Giáo viên cho học sinh hiểu về hai lực cân bằng. Hướng dẫn học sinh sử dụng đúng các thuật ngữ: Lực đẩy, lực kéo, phương, chiều, lực cân bằng. ở bài này giáo viên nên lấy nhiều ví dụ thực tế gần gũi với học sinh. Ví dụ 1: Em bé kéo con trâu, nhưng con trâu không đi. Vậy là em bé đã tác dụng một lực vào con trâu thông qua sợi dây và con trâu cũng tác dụng một lực kéo vào em bé thông qua sợi dây. Khi em bé không kéo được con trâu đi, em bé và con trâu vẫn đứng ở hai vị trí ban đầu. Vậy hai lực kéo đó có cường độ bằng nhau gọi là hai lực cân bằng, hai lực kéo có phương ngang, có chiều ngược nhau. Ví dụ 2: Thuyền buồm chạy trên biển, gió đã tác dụng vào buồm một lực kéo. Ví dụ 3: Đầu tàu tác dụng vào toa tàu một lực kéo. Bài 7: Tìm hiểu kết quả tác đụng của lực. Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu được một số thí dụ về lực tác dụng lên một vật làm biến đổi chuyển động của vật đó. Hướng dẫn học sinh nêu được một số thí dụ về lực tác dụng lên một vật làm biến dạng vật đó. Nêu được thí dụ về vật vừa biến đổi chuyển động và vừa biến dạng, yêu cầu học sinh phân tích câu: "Vật chuyển động nhanh lên", "Vật chuyển động chậm lại". Học sinh nêu được thí dụ khi tăng ga cho xe máy chạy nhanh lên, giảm ga thì xe máy chạy chậm lại hay hãm phanh, thì xe máy chạy chậm lại hoạc dừng lại hẳn là được, giáo viên nêu nhiều ví dụ thực tế gần gũi với học sinh như nén lò xo thì lò xo ngắn lại, chứng tỏ lò xo bị biến dạng, ô tô bắt đầu khởi hành (từ đúng yên đến chuyển động) đây là biến đỏi chuyển động. Thí dụ: học sinh đá quả bóng cao su lăn trên sân cỏ, thì quả bóng vừ a biến đổi chuyển động (từ đứng yên đến chuyển động) và vừa biến dạng (biến dạng khi chân chạm vào quả bóng) đó là vị trí tiếp xúc giữa chân và quả bóng cao su. Bài 8: Trọng lực, đơn vị lực. - Giáo viên cho học sinh hiểu thế nào là là trọng lực hay trọng lượng của vật. - Hướng dẫn học sinh nêu được phương, chiều của trọng lực. - Học sinh biết được đo cường độ lực là gì ?. - Sử dụng dây dọi để xác định phương thẳng đứng. Ví dụ: Người thợ xây dùng dây dọi để xác định phương đúng của bức tường đang xây. - Giáo viên liên hệ thực tế, phân tích từng hiện tượng để học sinh hiểu rõ hơn về trọng lực hay trọng lượng, ví dụ: khi thả viên phấn rơi từ trên cao xuống thì đây là biến đổi chuyển động [Từ đứng yên (trên tay) đến chuyển động (rơi xuống đất)], viên phấn rơi xuống đất chứng tỏ có một lực hút đã hút viên phấn xuốngđất, lực này do trái đất tác dụng lên viên phấn, lực hút tác dụng lên vật gọi là trọng lực hay trọng lực của vật. - Lực hút tác dụng lên viên phấn có những phương thẳng đứng và có chiều từ trên xuống dưới. Đơn vị đo lực là Niu tơn (N). Bài 9: Lực đàn hồi. - ở bài giáo viên cho học sinh nhận biết thế nào là biến dạng đàn hồi của một lò xo. nêu được đặc của lực đàn hồi, nêu được sự phụ thuộc của lực đàn hồi vào độ biến dạng của lò xo. Giáo viên dùng mồ hình trực quan: lò xo thật, cho học sinh quan sát và làm thí nghiệm với lò xo theo SGK, phân tích rõ về lực đàn hồi, trong lực của vật thì hướng về trái đất còn lực đàn hồi lò xo có xu hướng kéo lò xo về trạng thái ban đầu, hai lực này cùng phương nhưng ngược chiều. Bài 10: Lực kế, phép đo lực, trọng lượng và khối lượng. ở bài này giáo viên cho học sinh nhận biết được cấu tạo của một lực kế, sử dụng được công thức liên hệ giữa trọng lượng và khối lượng của cùng một vật để tính trọng lượng của vật (biết khối lượng của nó), sử dụng được lực kế để đo lực. - Giáo viên cho học sinh quan sát lực kế theo nhóm để tự tìm ra cấu tạo lực kế, giáo viên hướng dẫn học sinh cách xác định GHĐ và ĐCNN của từng lực kế, giáo viên hướng dẫn học sinh cách áp dụng công thức P = 10 m. Trong đó P là trọng lượng có đơn vị là (N). m là khối lượng có đơn vị là (kg). Giáo viên hướng dẫn học sinh dùng lực kế (cần thẳng đứng), đọc kết quả chính xác (đặt mắt vuông góc với vạch chia trên lực kế). Giáo viên cho học sinh đo lực theo nhóm hay cá nhân (đo trọng lượng của quyển sách giáo khoa vật lí 6... hay quả nặn bằng sắt). Bài 11: Khối lượng riêng - trọng lượng riêng. Giáo viên hướng dẫn để học sinh trả lời được câu hỏi: khối lượng riêng và trọng lượng riêng của một chất là gì ?. Học sinh sử dụng được công thức: m = D. V và P = d. V để tính khối lượng và trọng lượng của một vật, giáo viên hướng dẫn học sinh cách sử dụng bảng số liệu để tra cứu khối lượng riêng và trọng lượng riêng của các chất, học sinh thực hành đo được trọng lượng riêng của chất làm quả cân, giáo viên có thể mở rộng kiến thức hỏi học sinh "Tại sao quả bưởi thả vào nước là nổi còn quả táo thả vào nước lại chìm ?", dùng kiến thức về trọng lượng riêng để giải thích, để gây hứng thú cho học sinh, học sinh sẽ yêu thích môn vật lý và tìm hiểu các hiện tượng tự nhiên để dùng kiến thức vật lý đã học để giải thích, giáo viên cần yêu cầu học sinh khi thực hành phải đo chính xác, đưa ra kết quả trung thực, số liệu phải gần sát với giữ liệu đã cho Ví dụ: Qủa cân bằng sắt thì cần tính được d = 78.000 (N/m3). ị D = 7.800 kg/m3 (khối lượng riêng của sắt là 7.800kg/m3. Bài 12: Thực hành: Xác định khối lượng riêng của sỏi. - Giáo viên hướng dẫn học sinh biết cách xác định khối lượng riêng của một vật rắn, biết cách tiến hành 1 bài thực hành vật lý. - Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành theo nhóm theo các bước sau: Bước 1: Đo khối lượng của các phần sỏi Bước 1: Đo thể tích của các phần sỏi. m Bước 3: Tính khối lượng riêng của sỏi theo công thức D = –––– V đơn vị kg/m3. Trước mỗi lần đo thể tích của sỏi cần lau khô các hòn sỏi. - Giáo viên yêu cầu học sinh làm báo cáo thực hành theo nhóm hay cá nhân để nộp chấm điểm. (mẫu cáo báo thực hành trong SGK). - Giáo viên uốn nắn trong khi thực hành. + Uốn nắn cách làm, cách viết báo cáo. + Uốn nắn ý thức thực hành. Bài 13: Máy cơ đơn giản. - Giáo viên hướng dẫn học sinh biết làm thí nghiệm để so sánh trọng lượng của vật và lực dùng để kéo vật trực tiếp lên theo phương thẳng đứng. - Giáo viên yêu cầu học sinh kể tên được một số máy cơ đơn giản thường dùng (ròng rọc, mặt phẳng nghiêng, đòn bẩy). Bài 14: Mặt phẳng nghiêng. - Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu được 2 thí dụ sử dụng mặt phẳng nghiêng trong cuộc sống và chỉ số lợi ích của chúng. - Giáo viên hướng dẫn học sinh biết sử dụng mặt phẳng nghiêng hợp lý trong từng trường. - Giáo viên tạo hình ảnh trực quan minh hoạ thế nào là mặt phẳng nghiêng ít, thế nào là mặt phẳng nghiêng nhiều, bằng cách tăng hay giảm chiều dài mặt phẳng và độ cao h, càng tăng chiều dài mặt phẳng nghiêng thì độ nghiêng mặt phẳng nghiêng càng giảm (với chiều cao là cố định). Càng giảm độ cao h thì độ nghiêng mặt phẳng nghiêng càng giảm. (với chiều dài mặt phẳng nghiêng cố định). - Học sinh nêu được ứng dụng của mặt phẳng nghiêng. VD: để đưa vật nặng lên ô tô hay lên một độ cao nào đó... - Mặt phẳng càng nghiêng ít thì lực nâng vật lên mặt phẳng nghiêng có độ lớn càng nhỏ. Ví dụ như đi bộ trên đường dốc ít đỡ mệt hơn là đi leo lên đường dốc cao... Giáo viên mở rộng kiến thức: Cái nêm, đinh ốc, đinh vít đều dựa trên nguyên lí của mặt phẳng nghiêng. Bài 15: Đòn bẩy. Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu được 2 thí dụ về sử dụng đòn bẩy trong cuộc sống xác định được điểm tựa (O) các lực tác dụng lên đòn bẩy đó (điểm O1, O2, và lực F2 ; F2), biết sử dụng đoàn bẩy trong những công việc thích hợp (biết thay đổi vị trí của các điểm O, O1, O2 cho phù hợp với yêu cầu sử dụng) , trong cuộc sống có rất nhiều dụng cụ làm việc dựa trên nguyên tắc đòn bẩy. VD như: cái bập bênh, mái chèo, búa nhổ đinh, kìm, xe cút kít, bàn dập ghim giấy, cái bật nắp chai, cái kẹp gắp bánh, cần câu, chổi lau sàn, xẻng, đòn gánh... - Có thể phân thành 2 loại đòn bẩy. + Loại 1: là đòn bẩy F1 và F2 ở hai phía của điểm tựa O. + Loại 2: là đòn bẩy với F1, F2 ở cùng một phía đối với điểm tựa O: Nếu OO2 > OO1 thì F2 < F1 Bài 16: Ròng rọc Giáo viên hướng dẫn học sinh nêu được 2 thí dụ về sử dụng ròng rọc trong cuộc sống và chỉ rõ được lợi ích của chúng, biết sử dụng ròng rọc trong những công việc thích hợp. - Giáo viên phân tích cho học sinh thấy thế nào là ròng rọc cố định (được gắn cố định trên giá), thế nào là ròng rọc động (không gắn cố định trên giá) lợi ích của ròng rọc động và ròng rọc cố định. + Ròng rọc cố định ta lợi về hướng, không được lợi về lực. + Ròng rọc động cho ta lợi về lực. Hệ thống gồm 1 ròng rọc động thì được lợi 2 lần về lực, dùng 2 ròng rọc động thì được lợi 4 lần về lực. + Hệ thống gồm ròng rọc động và ròng rọc cố định là Pa lăng. - Dùng ròng rọc để kéo vật lên cao. Ví dụ: Kéo nước giếng dùng ròng rọc cố định. Kéo xô vữa lên cao dùng ròng rọc cố định. Đưa cây lên ô tô dùng ròng rọc động và ròng rọc cố định... III - Kết luận chung. * Khái quát vấn đề và đề xuất: Qua những năm dạy học ở trường THCS tôi đã rút ra được cho mình những kinh nghiệm quý báu và xây dựng được sáng kiến kinh nghiệm này với những khó khăn và thuận lợi cơ bản và thực tế ở Trường phổ thông đó là: * Khó khăn: Phần đa học sinh là con em còn gặp nhiều khó khăn về hoàn cảnh sống và điều kiện học tập, một số gia đình chưa thật sự quan tâm đến vấn đề giáo dục co em mình, một số em nhà xa, cách xa trường đến 3 - 4 cây số mà đường dốc (các em đều đi bộ đến trường) một số học sinh lên cấp II còn chưa biết đọc, biết viết gây khó khăn lớn cho giáo viên dạy bộ môn, một số học sinh học kiến thức cơ bản từ cấp I như không thuộc bảng cửu chương... Mặt khác do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, nên điều kiện học tập của học sinh còn hạn chế. * Thuận lợi: Được sự giúp đỡ của nhà trường về mọi mặt và của anh chị em giáo viên trong trường luôn luôn khuyến khích động viên tôi hoàn thành nhiệm vụ của mình, với chương trình đổi mới SGK của khối 6, 7, 8, 9. Nên đồ dùng dạy học cũng được cung cấp về tương đối đầy đủ phục vụ cho việc dạy học các môn học được tốt hơn, trong đó có môn Vật lí. * ý kiến đề xuất: + Tuyển chọn học sinh vào học THCS phải biết đọc, biết viết, phải thuộc bảng cửu chương. + Nhà trường có kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất đảm bảo điều kiện học tập của học sinh. + Cần phối hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa gia đình - Nhà trường - Xã hội để giáo dục các em có ý thức học tập tốt hơn. + Giáo viên giúp học sinh nhận thức đúng động cơ học tập của mình có ý thức hơn trong học tập đối với tất cả các môn học. Người viết sỏng kiến Huỳnh Vũ Linh
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_hoc_phan_co_hoc_cua_mo.doc