Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm với học sinh Lớp Một
Thứ nhất, chú ý có chủ định (tức chú ý có ý thức, chú ý vào việc học tập) của trẻ còn yếu, khả năng kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú ý không chủ định (chú ý tự do) chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững, dễ bị phân tán bởi những âm thanh, sự kiện khác ngoài nội dung học tập. Trẻ thường quan tâm chú ý đến những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh, trò chơi, Thời gian chú ý có chủ định chỉ kéo dài tối đa từ 25 đến 30 phút. Do đó, ở lớp 1, giáo viên thường sử dụng các dụng cụ học tập trực quan, nhiều màu sắc hấp dẫn, sinh động để thu hút sự chú ý của học sinh.
Thứ hai, tri giác các em mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính không ổn định, tri giác thường gắn với hình ảnh trực quan. Vì vậy, chúng ta cần phải thu hút trẻ bằng các hoạt động mới, mang màu sắc, tích chất đặc biệt, khác lạ so với bình thường, khi đó sẽ kích thích trẻ cảm nhận, tri giác tích cực và chính xác.
Thứ ba, tưởng tượng của học sinh lớp 1 đã phát triển phong phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng nhiều. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn còn đơn giản, chưa bền vững và dễ thay đổi.
Thứ tư, hầu hết học sinh tiểu học có ngôn ngữ nói thành thạo. Khi trẻ vào lớp 1 bắt đầu xuất hiện ngôn ngữ viết. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà trẻ có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của trẻ, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của trẻ phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của trẻ. Thông qua khả năng ngôn ngữ của trẻ ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của trẻ.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng như vậy nên các nhà giáo dục phải trau dồi vốn ngôn ngữ cho trẻ trong giai đoạn này bằng cách hướng hứng thú của trẻ vào các loại sách báo có lời và không lời, có thể là sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi đồng
Thứ năm, trong giai đoạn lớp 1, ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa. Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài để ghi nhớ tài liệu.
Thứ sáu, ở đầu tuổi tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào yêu cầu của người lớn (học để được bố mẹ thưởng, học để được cô giáo khen, quét nhà để được ông cho tiền, ) Khi đó, sự điều chỉnh ý chí đối với việc thực hiện hành vi ở các em còn yếu. Đặc biệt các em chưa đủ ý chí để thực hiện đến cùng mục đích đã đề ra nếu gặp khó khăn.
em có cảm giác thân thiện với cô giáo sẽ không gây cảm giác sợ sệt, các em sẽ thấy thoải mái hơn khi đến trường. Và điều đặc biệt hơn là đối với các em học sinh lớp Một, tôi phải thấm nhuần phương châm "dạy và dỗ". Người giáo viên cần phải dạy các em bằng cách dạy của người thầy và cách dỗ của người mẹ. Ngoài việc tạo mối quan hệ với các em, giáo viên cùng học sinh và nhờ một số phụ huynh hỗ trợ để trang trí lớp học. Ngay khi mới bước vào cửa lớp các em đã được nhìn thấy bức tranh có hình ảnh cô giáo đang chào đón các em đến lớp, trông thật vui và gần gũi, câu khẩu hiệu "Mỗi ngày đến trường là một ngày vui". Có góc cài hoa điểm tốt để khuyến khích các em trong học tập giành nhiều bông hoa điểm tốt, góc về các môn học để giúp các em tham khảo về các kiến thức trong bài học cũng như các nội dung tạo sự tò mò để các em tìm hiều và phát triển trí tưởng tượng, khả năng tư duy,óc sáng tạo của các em. Cùng với đó là gây hứng thú học tập cho các em. Bên cạnh những việc làm để cho các em có một môi trường học tập thân thiện, thì việc giúp cho các em tích cực hơn trong học tập là mục đích quan trọng và cũng là mục đích cuối cùng trong công tác giảng dạy. Môi trường học tập thân thiện là cơ sở, là đòn bẩy để giúp các em tích cực hơn trong học tập. Để giúp các em tích cực hơn trong học tập . Tìm hiểu về tâm sinh lí của học sinh khối lớp một, các em từ tư duy trực quan, từ hình ảnh và các thao tác để các em tìm ra nội dung bài học, nắm bắt nội dung cụ thể hơn và nhớ lâu hơn. Nắm được phương pháp trực quan là chủ đạo để dạy học cho học sinh lớp Một. Vì vậy giáo viên cần nghiên cứu kĩ từng bài học để có kế hoạch làm đồ dùng phù hợp và thiết thực, để giúp các em tiếp thu bài dễ dàng và hứng thú hơn trong học tập, đạt hiệu quả cao trong tiết học. Học sinh lớp một là lớp học đầu cấp, mọi điều các em còn bỡ ngỡ, mới mẻ. Các em đến trường, cô giáo chủ nhiệm cũng như người mẹ của các em, đều phải tìm hiểu xem các em cần gì và muốn gì. Hơn thế nữa các em chưa quen với môi trường học tập hay quên công việc cô giáo giao, quên sách vở, đồ dùng học tập, cũng như mọi thứ các em mang đến trường. Nên thời gian đầu năm học mặc dù một số buổi không phải là buổi dạy của mình, giáo viên thường đến trường vào những phút cuối giờ dạy buổi chiều để nhắc nhở các em, nhằm giúp các em tập thói quen cẩn thận và ghi nhớ những việc cô giáo dặn dò. Đó là công việc của giáo viên chủ nhiệm lớp Một, tuy kiến thức trong bài học không cao đối với giáo viên. Nhưng để giúp được cho các em nắm được những kiến thức đó để cuối năm đạt được những kiến thức và kĩ năng cơ bản quả không phải là dễ. Phải có lòng yêu nghề mến trẻ thì mỗi giáo viên mới hoàn thành được trách nhiệm của mình. Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp, giáo viên biết rằng có những em học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, cũng có em chưa học tốt, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện khách quan. Có những gia đình bố mẹ đang phải lo đi làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ốm đau bệnh hoạn,...nên không quan tâm gì đến việc học của con cái, thậm chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập, có em còn mồ côi cả cha lẫn mẹ, về nhà không có người kèm cặp học hành,... Những sóng gió đó đã tác động đến tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy- trò sau này. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không học bài, làm bài, giáo viên không kết án trừng phạt ngay mà bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, giáo viên phải đến nhà tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em. Hàng ngày, giáo viên cần khích lệ và biểu dương các em kịp thời, khen ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Giáo viên hãy cố tìm ra những ưu điểm dù nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, giáo viên cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. d, Xây dựng mối quan hệ bạn bè: Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học tốt sẽ giúp những em chưa hoàn thành kiến thức, kĩ năng bài học; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ (Học thầy không tày học bạn). Đây chính là việc rèn luyện những năng lực và phẩm chất cho các em tự tin hơn, biết tự quản, hợp tác,... Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn bó thì giáo viên cần xây dựng được nề nếp lớp học, từ đó chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, giáo viên phải tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau: Trong mỗi tiết học, thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với bạn khác để các em biết cách hợp tác với bạn và thay nhau làm nhóm trưởng, báo cáo viên từ đó các em sẽ dần mạnh dạn hơn. e, Tổ chức các hoạt động tập thể và các trò chơi vui tươi lành mạnh Thích sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi bổ ích là nhu cầu, là sở thích của hầu hết các học sinh tiểu học. Vì vậy, khi tổ chức cho các em sinh hoạt tập thể và tham gia các trò chơi là giáo viên đã giúp các em học mà chơi, chơi mà học, kiến thức và kĩ năng ở mỗi em sẽ được hình thành và rèn luyện một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, không gây căng thẳng, gò bó đối với các em. Ngoài ra, tổ chức sinh hoạt tập thể và vui chơi còn giúp các em phát triển và hoàn thiện nhân cách, bồi dưỡng năng khiếu và tài năng sáng tạo. Việc tổ chức các hoạt động tập thể còn là sợi dây gắn bó, kết nối, đoàn kết các em lại với nhau. Giữa hai tiết học căng thẳng, giáo viên nên tổ chức cho các em chơi trò chơi,... Có như vậy các tiết học chính khóa trở nên sôi nổi hơn, các em hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt động vui chơi, các em được làm, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả. g, Liên kết các hoạt động trong và ngoài nhà trường: *Phối hợp với Tổng phụ trách Đội Trong trường có rất nhiều hoạt động vui chơi giải trí nhằm bổ trợ cho hoạt động học tập của học sinh. Tổng phụ trách Đội vừa là người tham mưu vừa là người tổ chức các hoạt động. Chính vì thế cần kết hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm như 20/11, 08/3. Khi kết hợp với Tổng phụ trách Đội giáo viên sẽ nắm bắt được tình hình hoạt động từ đó về triển khai ở lớp mình. Nếu như được sự quan tâm của Tổng phụ trách Đội thì các hoạt động của lớp sẽ được góp ý điều chỉnh kịp thời nhằm đưa phong trào lớp đi lên. Mặt khác giáo viên cũng giúp đỡ tổ chức Đội và tôn trọng tính độc lập, tự quản của tổ chức đó để tạo nên mối quan hệ tốt đẹp, bên cạnh đó thông qua Tổng phụ trách Đội để nắm bắt tình hình của các lớp xung quanh để điều chỉnh phong trào của lớp mình. Thực tế cho thấy giáo viên chủ nhiệm nào quan tâm đến công tác Đội và thường xuyên kết hợp với Đội để tổ chức các hoạt động giáo dục của lớp thì hiệu quả của lớp đối với mọi thành viên của sao, được nhân lên gấp bội. *Phối hợp với các giáo viên khác: Hàng ngày lên lớp, giáo viên cần có sự trao đổi với các giáo viên bộ môn, với các giáo viên dạy cùng khối, cùng tổ, cùng trường về tình hình học tập của học sinh trong lớp, hoặc tìm hiểu các thông tin khác về học sinh có năng khiếu, học sinh chưa hoàn thành kiến thức kĩ năng các bài học hay học sinh có hoàn cảnh khó khăn để từ đó có biện pháp giúp đỡ và giáo dục học sinh có hiệu quả hơn. *Tham mưu với Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng: Giáo viên là người thừa lệnh hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, là người thay mặt nhà trường để tổ chức quản lý, giáo dục học sinh một lớp. Để giáo dục học sinh lớp mình phụ trách, giáo viên cần dựa vào kế hoạch chung của nhà trường, đồng thời dựa vào tình hình cụ thể của lớp để xây dựng kế hoạch, đề ra các biện pháp giáo dục học sinh lớp mình; thường xuyên báo cáo tình hình của lớp, kết quả giáo dục, ý chí, nguyện vọng của học sinh lớp ; đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục và đề nghị hiệu trưởng, phó hiệu trưởng cùng phối hợp thống nhất và tác động sư phạm đối với cả lớp hoặc từng học sinh. *Phối hợp với cha mẹ học sinh : Nếu như ở trường các em là học sinh của giáo viên chủ nhiệm thì ở nhà các em là thành viên của một gia đình là con của cha mẹ. Cả giáo viên chủ nhiệm và cha mẹ các em đều là những người chịu trách nhiệm về kết quả giáo dục của học sinh. Để công tác giáo dục đạt hiệu quả thì phụ huynh và giáo viên chủ nhiệm phải đồng cảm, hiểu nhau. Nếu như ở nhà, cha mẹ nhắc nhở, dạy bảo động viên con em mình, ở trường thầy cô tận tình chỉ dạy thì chắc chắn học sinh ấy sẽ tiến bộ, vâng lời. Đối với cha mẹ học sinh giáo viên thông báo cụ thể về tình hình lớp học, những yêu cầu chung của nhà trường đối với cha mẹ học sinh, về nội dung chương trình của khối lớp mình phụ trách ngay từ đầu năm học để từ đó thống nhất với gia đình yêu cầu nội dung biện pháp, hình thức giáo dục. Giáo viên cần thông báo kết quả học tập tu dưỡng của học sinh một cách thường xuyên qua sổ liên lạc nhằm tạo đà cho sự phối hợp giáo dục toàn diện học sinh. Việc làm này giúp gia đình kịp thời hiểu các em để có tác động phù hợp động viên khuyến khích khi các em đạt kết quả tốt, nhắc nhở kịp thời khi các em có những biểu hiện cần uốn nắn. Giáo viên có thể tổ chức đi thăm một số gia đình học sinh có hoàn cảnh khó khăn, những gia đình có học sinh chưa ngoan để có những thông tin cụ thể chính xác giúp cho việc giáo dục toàn diện học sinh được tốt. 7.5. Hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp: Sau nhiều năm thực hiện các biện pháp nêu trên. Công tác chủ nhiệm của tôi đã thu được những kết quả nhất định góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Những kết quả đó là: Cuối mỗi năm học lớp tôi phụ trách đều được xếp loại lớp xuất sắc, lớp tiên tiến. Học sinh đã có ý thức tự giác trong giờ học cũng như các hoạt động. Các em đã tích cực hơn trong công việc chia sẻ, giúp đỡ bạn, tham gia hoạt động quyên góp giúp đỡ bạn nghèo. Tất cả các em đều rất tự tin trong các hoạt động do nhà trường và các đoàn thể tổ chức. Chất lượng học tập của học sinh được nâng lên rõ rệt. Nhiều năm học sinh trong lớp tham gia các kì thi do nhà trường, phòng giáo dục tổ chức đều đạt kết quả cao. Tỉ lệ học sinh hoàn thành kiến thức, kĩ năng các môn học đạt 100%, năng lực,phẩm chất đạt 100%. Năng lực làm công tác chủ nhiệm lớp, phương pháp, kỹ năng thực hiện công tác chủ nhiệm lớp của bản thân được nâng cao. Kết quả:Về học tập Môn học Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % Toán 30 81,1 7 18,9 0 0 Tiếng Việt 29 78,4 8 21,6 0 0 Tiếng Anh 29 78,4 8 21,6 0 0 TN-XH 30 81,1 7 18,9 0 0 Đạo đức 32 86,5 5 13,5 0 0 Thủ công 28 75,7 9 24,3 0 0 Âm nhạc 29 78,4 8 21,6 0 0 Mỹ thuật 30 81,1 7 18,9 0 0 Thể dục 28 75,7 9 24,3 0 0 Kết quả:Về năng lực Năng lực Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Tự phục vụ, tự quản 30 81,1 7 18,9 0 0 Hợp tác 29 78,4 8 21,6 0 0 Tự học và giải quyết vấn đề 29 78,4 8 21,6 0 0 Kết quả:Về phẩm chất Phẩm chất Tốt Đạt Cần cố gắng SL % SL % SL % Chăm học, chăm làm 30 81,1 7 18,9 0 0 Tự tin, trách nhiệm 29 78,4 8 21,6 0 0 Trung thực, kỉ luật 30 81,1 7 18,9 0 0 Đoàn kết, yêu thương 32 86,5 5 13,5 0 0 8. Những thông tin cần được bảo mật Không có thông tin cần bảo mật. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến 9.1. Đối với nhà trường: - Phải nhiệt tình, luôn tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lí xứng đáng là con chim đầu đàn trên mọi lĩnh vực, phân công công việc một cách hợp lý đúng người, đúng việc để khuyến khích được giáo viên, xây dựng kế hoạch cụ thể, thường xuyên quan tâm đến việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, quan tâm đến đời sống vật chất, tình cảm của đội ngũ giáo viên, tích cực kiểm tra góp ý, đánh giá khách quan, công bằng, khen chê hợp lý, chú ý xây dựng mối đoàn kết từ Ban Giám hiệu đến tập thể cán bộ giáo viên. - Phân công giáo viên dạy một cách hợp lý, đảm bảo tính ổn định lâu dài. Nên chọn GV có năng lực, trách nhiệm, tâm huyết dạy lớp 1 để làm nòng cốt chuyên môn trong nhà trường trong những năm tiếp theo. - Tuyên truyền cho PHHS để tạo sự đồng thuận về việc dạy học , tạo mọi điều kiện thuận lợi để học sinh đi học đầy đủ, hạn chế việc nghỉ học thường xuyên và nghỉ trong thời gian dài. - Điều tra số lượng trẻ 6 tuổi ra lớp đầy đủ và chính xác , dự báo lượng học sinh dao động, tránh tình trạng thiếu sách cung cấp cho học sinh khi vào năm học. 9.2. Đối với giáo viên làm công tác chủ nhiệm lớp: - Phải tích cực tự học, tự bồi dưỡng, có lòng yêu nghề mến trẻ, luôn hết lòng vì học sinh, có tinh thần trách nhiệm tận tuỵ với công việc được giao - Tìm hiểu kĩ hoàn cảnh gia đinh, đặc điểm tâm lí của học sinh trong lớp để lên kế hoạch dạy học phù hợp cho từng đối tượng học sinh - Tuân thủ quy trình và phương pháp dạy học các môn - Nghiên cứu kĩ thiết kế, nắm chắc cấu trúc, mục tiêu từng bài để dạy linh hoạt phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tổ chức các trò chơi một cách linh hoạt , có hiệu quả, tạo cho học sinh không khí vui vẻ khi chơi. 9.3.Kiến nghị: Muốn trở thành giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi, khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong công việc giáo dục học sinh thì mỗi người giáo viên cần phải: - Tìm hiểu và hiểu rõ về hoàn cảnh gia đình, tính cách, sở thích, thói quencủa từng học sinh - Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng Hội đồng tự quản của lớp, đào tạo để các em trở thành “người lãnh đạo nhỏ” tài ba. - Luôn bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu căn kẽ nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp tình, hợp lí, tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu niềm tin vào người thầy. - Luôn biết khích lệ, biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những ưu điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao, có niềm tin và hưng thú học tập hơn. - Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của người thầy dành cho học sinh. - Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh, kiên trì vận động phụ huynh tích cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh. - Nhà trường cần đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đầy đủ để việc dạy học đạt kết quả cao hơn. - Phụ huynh cần quan tâm hơn đến việc học tập và các hoạt động khác của con em, tạo mọi điều kiện để học sinh đến lớp đầy đủ, chuyên cần, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để giáo dục con em tốt hơn. 9.4 .Kết luận Công tác chủ nhiệm có một vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện cho học sinh. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh, người giáo viên không thể thờ ơ trước công tác chủ nhiệm. Tuy nhiên việc thực hiện công tác chủ nhiệm như thế nào cho có hiệu quả lại tùy thuộc vào đặc điểm tình hình của từng lớp, từng nhà trường và cách tìm tòi nghiên cứu áp dụng của mỗi giáo viên. Trong những năm gần đây tôi đã và đang thực hiện các biện pháp nêu trên. Các biện pháp này đã giúp công tác chủ nhiệm của tôi có những chuyển biến tích cực, từ đó nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh .Trong thực tế sẽ không có biện pháp nào là tối ưu nếu sử dụng riêng rẻ vì vậy trong quá trình thực hiện công tác chủ nhiệm người giáo viên cần phải biết phối hợp, đan xen và tạo ra những biện pháp tình thế để tạo nên sức mạnh tổng hợp. 10. Đánh giá lợi ích thu được được của sáng kiến 10.1. Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả Sáng kiến kinh nghiệm “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm với học sinh lớp Một ” phù hợp với lý luận về giáo dục, phù hợp với chủ trương, chính sách hiện hành về giáo dục và đào tạo của Nhà nước. Sáng kiến kinh nghiệm này đã được áp dụng thử nghiệm trong điều kiện cụ thể tại trường Tiểu học và mang lại lợi ích thiết thực. Kết quả thăm dò được tổng hợp cụ thể như sau: Bảng 1: Kết quả khảo sát tính khả thi, tính cần thiết của các biện pháp nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm với học sinh lớp Một tại trường Tiểu học. TT Biện pháp Tính khả thi Tính cần thiết Rất khả thi SL (%) Khả thi SL (%) Không khả thi SL (%) Rất cần thiết SL (%) Cần thiết SL (%) Không cần thiết SL (%) 1 Có chính sách hợp lí với đội ngũ giáo viên dạy lớp 1 73.1 26.9 80.8 19.2 2 Nâng cao trình độ giáo viên (kiến thức và kĩ năng) 96.2 3.8 90.4 9.6 3 Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát 96.2 3.8 90.4 9.6 4 Xây dựng môi trường học tập thân thiện 76.9 23.1 73.1 26.9 5 Tăng cường tổ chức hội thảo, giao lưu về công tác chủ nhiệm 92.3 7.7 96.2 3.8 6 Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh 71.2 28.8 67.3 32.7 7 Tăng cường sự hợp tác của phụ huynh học sinh 65.4 34.6 61.5 38.5 Từ kết quả khảo sát trên, tôi rút ra một số nhận xét sau: - Về tính khả thi của các biện pháp, được đánh giá ở mức độ khả thi và rất khả thi là 100%. - Về tính cần thiết của các biện pháp, được đánh giá ở mức độ cần thiết và rất cần thiết là 100%. - Các biện pháp: Nâng cao trình độ giáo viên (kiến thức và kĩ năng); Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Tăng cường tổ chức hội thảo, giao lưu về công tác chủ nhiệm lớp; Xây dựng nề nếp học tập cho học sinh,.. được đánh giá có tính khả thi cao và rất cần thiết. Như vậy, việc đề xuất các biện pháp như trên là hoàn toàn cần thiết và có tính khả thi cao khi tổ chức thực hiện. 10.2. Đánh giá kết quả do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của trường Tiểu học: Sáng kiến kinh nghiệm này sau khi áp dụng được Ban giám hiệu, Hội đồng sư phạm trường Tiểu học Chấn Hưng đánh giá cao ở các tiêu chí sau: - Sáng kiến có tính khả thi cao và có thể áp dụng rộng rãi - Sáng kiến mang lại hiệu quả cao về tính giáo dục theo hướng phát triển năng lực học sinh. - Sáng kiến mang lại lợi ích thiết thực về nguồn lực con người góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước trong tương lai. - Sáng kiến đã phát huy được tính tích cực, sáng tạo, chủ động của học sinh trong học tập và trong cuộc sống. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu TT Tên tổ chức, cá nhân Địa chỉ Phạm vi, lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Học sinh khối 1 năm học 2016-2017 Trường Tiểu học Chấn Hưng Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm với học sinh lớp Một 2 Học sinh khối 1 năm học 2017-2018 Trường Tiểu học Chấn Hưng Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm với học sinh lớp Một Trên đây là một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm với học sinh lớp Một của tôi qua thực tế giảng dạy. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do điều kiện nghiên cứu, thời gian và phạm vi có hạn. chắc chắn đề tài không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong sự góp ý của các thầy, cô trong Hội đồng khoa học nhà trường cũng như sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn và ứng dụng thực tế có hiệu quả. Tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác và giúp đỡ nhiệt tình của tập thể giáo viên, học sinh trong trường trong suốt thời gian tôi nghiên cứu, khảo sát thực tế, thu thập số liệu để hoàn thành đề tài này. Tôi xin chân thành cảm ơn! Chấn Hưng, ngày tháng năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Trần Thị Thu Hiền Chấn Hưng,ngày tháng năm 2019 Người viết sáng kiến Phan Thị Nhung
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_trong_cong_tac_chu_n.doc