Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1A1 rèn kỹ năng đọc đúng

Việc vận dụng phương pháp rèn kĩ năng vào tiết học sẽ góp phần làm cho giờ học Tập đọc thêm sinh động, học sinh tích cực xây dựng bài, tùy theo mức độ câu hỏi mà ta cần gọi đúng đối tượng học sinh trả lời – tức phù hợp với khả năng, năng lực của từng em. Như vậy, khi các em tiếp thu kiến thức sẽ không nhàm chán và hứng thú trong giờ học.

Trong thực tế khi dạy – học Tập đọc lớp 1 người giáo viên không chỉ cung cấp nội dung của bộ môn Tập đọc mà còn cung cấp thêm một số thông tin có liên quan đến môn học khác. Thông qua đó, giáo viên đã giúp học sinh có nhiều kĩ năng ứng xử trong mọi tình huống, làm cho tiết học trở nên sinh động hơn bởi nó không đơn thuần là một nội dung xưa cũ, nhàm chán mà còn cung cấp thêm những chi thức mới từ những bộ môn khác mang đến. Từ đó tiết học trở nên nhiều màu sắc, nhiều sáng tạo mà nội dung vẫn cô đọng và đầy lôi cuốn người học. Bản thân tôi thấy sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng rộng rãi trong toàn huyện .

 

doc14 trang | Chia sẻ: phangia015 | Lượt xem: 1683 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1A1 rèn kỹ năng đọc đúng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 dưỡng cho đối tượng này, ôn và dạy lại 29 chữ cái cơ bản, cho các em học lại những nét cơ bản.
4.2. Phần học các nét cơ bản:
Giáo viên nên dạy thật kỹ, thật tỷ mỉ tên gọi và cách viết các nét cơ bản. Để cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ những nét chữ này, phân theo cấu tạo và các nét có tên gọi và cấu tạo gần giống nhau thành từng nhóm để học sinh dễ nhận biết và so sánh. Dựa vào các nét cơ bản này mà học sinh phân biệt được chữ cái, kễ cả những chữ cái có hình dáng cấu tạo giống nhau.
Ví dụ: các nét chữ cơ bản và tên gọi:
+ Nét sổ; Nét ngang
+ Nhóm 1: Nét xiên: Nét xiên phải: Nét xiên trái
+ Nhóm 2: Nét móc: Nét móc xuôi; Nét móc ngược; Nét móc hai đầu.
+ Nhóm 3: Nét cong: Nét cong hở phải; Nét cong hở trái; Nét cong kín.
+ Nhóm 4: Nét khuyết: Nét khuyết trên; Nét khuyết dưới; Nét thắt
4.3. Phần học âm:
- Sau khi cho học sinh học thuộc tên gọi và cấu tạo các nét chữ cơ bản một cách vững vàng thì tiếp theo là phần học chữ cái.
- Giai đoạn này vô cùng quan trọng. Trẻ có nắm chắc từng chữ cái mới có thể ghép được các chữ cái với nhau để tạo thành vần, thành tiếng, ghép các tiếng đơn lại với nhau tạo thành từ, thành câu. Lúc này tôi dạy cho các em nhận diện, phân tích từng nét trong từng con chữ cái và nếu con chữ cái đó có cùng tên mà lại có nhiều kiểu viết - kiểu in khác nhau hay gặp trong sách báo như chữ a, chữ g thì tôi phân tích cho học sinh hiểu và nhận biết đó là chữ a hay chữ g để khi gặp kiểu chữ đó được in trong sách báo trẻ dễ hiểu, dễ đọc không bị lúng túng.
Ví dụ:
+ Âm g gồm 2 nét: Nét cong kín nằm trên và nét khuyết dưới nằm bên dưới.
+ Âm a cũng có 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược.
- Từ việc học kỹ cấu tạo âm bởi những nét chữ cơ bản thật kỹ và tỉ mỉ như trên sẽ giúp trẻ phân biệt được sự khác nhau về cả cấu tạo và tên gọi của 4 âm sau:
+ Âm d gồm 2 nét: Nét cong kín và nét móc ngược ở bên phải .
Đọc là: “ dờ ’’
+ Âm b gồm 2 nét, nét khuyết trên và nét thắt.
Đọc là: “ bờ ’’
Đối với 11 âm ghép ( chữ có hai âm ghép lại với nhau ). Tôi cho học sinh sắp xếp các âm có âm h đứng sau thành một nhóm để thấy được sự giống nhau và khác nhau của âm đó .
Ví dụ: 
+ th , ch , nh , ph , kh , gh , ngh
+ tr , gi , qu , ng
- Phân từng cặp: ch - tr, ng - ngh , g – gh, k– c, i – y, v – qu, s - x để giúp học sinh phát âm chính xác và viết chính tả .
- Trong từng tiết học, từng bài ôn tôi luôn tìm đủ cách để kiểm tra phát hiện sự tiến bộ của trẻ thông qua các bài đọc, các giờ chơi, giờ nghỉ Từ đó cũng cố thêm kiến thức cho học sinh.
4.4. Phần học vần:
Sang giai đoạn Học Vần học sinh đã nắm vững các âm, các em còn được làm quen với các kiểu chữ hoa: Chữ viết hoa, chữ in hoa nên tôi tập cho học sinh nhận biết các kiểu chữ hoa một cách chính xác để các em đọc đúng. Để giúp trẻ học tốt phần vần, tôi tập cho học sinh thói quen nhận diện, phân tích cấu tạo của vần, nhận biết vị trí các âm trong vần để các em học vững.
Ví dụ : Bài 61 dạy vần ăm – âm
- Cho học sinh nhận diện về cấu tạo vần ăm: vần ăm gồm 2 âm ghép lại là âm ă và âm m.
- Vị trí âm trong vần: âm ă đứng trước âm m đứng sau.
- Đánh vần ăm:
- Hướng dẫn học sinh: ă – mờ - ăm. Đọc trơn vần: ăm
+ Kết hợp dùng bộ chữ học vần tiếng vần dành cho học sinh để ghép vần
* Yêu cầu các em: chọn đúng hai con chữ: ă và m. Ghép đúng vị trí: ă trước m sau. 
Nếu các em đã ghép đúng giáo viên hướng dẫn cách đánh vần và đọc trơn vần như trên. Các em sẽ nhận biết và đọc được vần ăm.
Với cách dạy phân tích, nhận diện và ghép vần vào bảng cài học sinh như thế.
Nếu được áp dụng thường xuyên cho mỗi tiết học vần chúng ta sẽ tạo cho các em kỹ năng phân tích, nhận diện và ghép vần dẫn đến đánh vần, đọc trơn vần một cách dễ dàng và thành thạo giúp các em học phần vần đạt hiệu quả tốt. Trong các bài dạy vần, sách giáo khoa tiếng việt 1 có kèm theo các từ khóa, từ ứng dụng và các câu thơ câu văn ngắn để học sinh luyện đọc. Muốn cho học sinh đọc được các từ và câu ứng dụng trong bài giáo viên cho học sinh nắm chắc các vần sau đó cho các em ghép chữ cái đầu với vần vừa học để đọc tiếng, đọc từ của bài.
Ví dụ: dạy vần ăm có từ: nuôi tằm
Sau khi học sinh nắm vững vần ăm, nhìn và đọc được vần ăm một cách chắc chắn.
Giáo viên đưa ra từ nuôi tằm và giúp học sinh nhận biết: Âm gì đứng trước vần ăm (âm t) dấu thanh gì ở trên vần ăm ( dấu huyền ) vậy ta có thể ghép và đánh vần: tờ - ăm – tăm – huyền – tằm, đọc trơn tằm, ghép từ nuôi tằm.
Giáo viên có thể sử dụng tranh minh họa để cho học sinh hứng thú được nhìn vào tranh ảnh sinh động hoặc mẫu vật thật để gợi chí tò mò, ham học hỏi của học sinh giúp các em chủ động trong giờ học.
4.5. Phần tập đọc:
- Đây là giai đoạn khó khăn đối với học sinh. Nhất là đối tượng học sinh chưa hoàn thành. Học sinh hoàn thành đã vững phần chữ cái, nắm vững phần vần chỉ nhìn vào bài là các em đọc được ngay tiếng, từ hoặc câu khá nhanh vì khả năng nhận biết tốt. Còn học sinh chưa hoàn thành, các em nhận biết còn chậm, chưa nhìn chính xác vần nên ghép tiếng rất chậm, ghép tiếng chậm dẫn đến đọc từ chậm và đọc câu rất khó khăn. Vì thế đối với các học sinh này, sang phần tập đọc giáo viên cần hết sức kiên nhẫn, giành nhiều cơ hội tập đọc cho các em giúp các em đọc bài từ dễ đến khó, từ ít đến nhiều. Giáo viên tránh nóng vội để đọc trước cho các em đọc lại dẫn đến tình trạng đọc vẹt và tính ỷ lại thụ động của học sinh. Giáo viên nên cho học sinh nhẫm đánh vần lại từng tiếng trong câu, đánh vần xong đọc trơn lại tiếng đó nhiều lần để nhớ sau đó nhẩm đánh vần tiếng kế tiếp lại đọc trơn tiếng vừa đánh vần rồi đọc lại từng cụm từ.
Ví dụ: Dạy bài tập đọc Trường Em (sách giáo khoa Tiếng Việt 1Tập II )
+ Học sinh chưa đọc được tiếng trường, giáo viên nên cho các em đánh vần tiếng trường bằng cách phân tích như sau:
Giáo viên: Tiếng trường gồm có âm gì ghép với vần gì ? Có dấu thanh gì ?
Học sinh: Tiếng Trường gồm có âm tr ghép với vần ương, dấu thanh huyền.
Giáo viên: vậy ta đánh vần tiếng trường như thế nào ?
Học sinh: trờ – ương – trương – huyền – trường
Giáo viên: Đọc trơn tiếng này thế nào ?
Học sinh: trường.
Rồi cho học sinh đọc nối tiếp: trường em.
+ Học sinh không đọc được tiếng trường, Giáo viên nên cho học sinh ôn lại cấu tạo vần ương trong tiếng trường.
Giáo viên: Vần ương gồm có mấy âm?
Học sinh: Vần ương gồm có 2 âm. Âm đôi ươ và âm ng.
Giáo viên: Vị trí các âm trong vần thế nào?
Học sinh: Âm đôi ươ đứng trước, âm ng đứng sau.
Giáo viên: Đánh vần và đọc trơn vần ương.
Học sinh: ươ – ng – ương, ương.
Giáo viên: thêm âm tr vào trước vần ương và dấu huyền trên vần ương. Ta đánh vần, đọc trơn tiếng thế nào?
Học sinh: Trờ - ương – trương – huyền – trường và sau mỗi lần, cho học sinh đọc trơn lại tiếng vừa đánh vần nhiều lần để khắc sâu vào trí nhớ học sinh.
4.6. Những phương tiện dạy học:
Trong từng tiết dạy môn Tiếng Việt, để giúp học sinh tích cực và ham học, giáo viên cần sử dụng linh hoạt và phù hợp các phương tiện hỗ trợ tiết dạy như sau:
- Sử dụng tranh ảnh trong sách giáo khoa là chủ yếu.
- Tận dụng những vật thật, tranh ảnh có sẵn trong thực tế để các em quan sát tìm hiểu.
- Sưu tầm thêm một số tranh ảnh, mẫu vật có liên quan đến bài dạy.
4.7. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy:
Có rất nhiều phương pháp và hình thức để áp dụng cho một tiết dạy nhằm đạt được một kết quả tốt cho giờ học. Tuy nhiên không một phương pháp nào được coi là tối ưu, giáo viên nên sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp để giúp học sinh mình đọc ngày càng tốt hơn. Sau đây là một số phương pháp thường được áp dụng trong giờ học:
a. Phương pháp đàm thoại, vấn đáp:
Giáo viên đưa ra nhiều câu hỏi để học sinh trả lời nhằm phát hiện sự hiểu biết của các em hoặc để gợi mở giúp các em phát hiện cách đọc.
Ví dụ: chữ này là chữ gì ? (a, b, d, g, h,)
Có tiếng này em đánh vần như thế nào? chanh
Học sinh (chờ - anh – chanh)
Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên nên dùng ngôn ngữ dể nghe, nhẹ nhàng, tránh cáu gắt khi các em chậm nhớ, chậm hiểu. Hãy ôn tồn dẫn dắt học sinh từng bước một để dạy các em đọc từng chữ, từng tiếng từng câu trong mỗi bài.
b. Phương pháp quan sát, động viên khen thưởng học sinh:
Trong tiết dạy tôi thường chú ý học sinh ít nói, thụ động, học sinh đọc chậm, đọc chưa tốt để gọi các em đọc bài, đối với học sinh đọc tốt tôi thường khích lệ, khen ngợi để các em phấn khởi hơn, còn đối với học sinh đọc chưa tốt, tôi nhẹ nhàng an ủi động viên: “Cố lên rồi các em sẽ đọc tốt như các bạn, nếu các em cố gắng đọc bài nhiều ở lớp cũng như ở nhà”.
Trong tiết dạy tập đọc, sau khi cho cả lớp đọc xong, tôi mời các bạn đọc chưa tốt, lên bàn giáo viên để chỉ các em đọc bài, tôi giành thời gian cho đối tượng này hơn, như cùng đọc bài với các em trong giờ ra chơi (nhưng vẫn đảm bảo thời gian cho các em vui chơi)
Khi các em có biểu hiện tiến bộ, tôi thường khen thưởng các em bằng những phần quà nho nhỏ như: cây viết chì, viên phấn, cục tẩy đẹp Để các em cố gắng và thích thú hơn nữa.
c. Phương pháp học nhóm:
Như đã nói ở trên, tôi cho học sinh đọc tốt kèm học sinh đọc chưa tốt, em đọc tốt ngồi gần em đọc chưa tốt để để giúp bạn học tập ở lớp. Còn khi về nhà tôi phân công và giao nhiệm vụ cho em đọc chưa tốt đem sách đến để cùng học, cùng đọc bài với bạn đọc tốt gần nhà nhất và cho bạn đọc tốt báo cáo với cô: chiều hôm qua bạn A có đến để học bài với em hay không? Nếu có sẽ được cô khen bạn A ngoan, nếu không cô sẽ giữ bạn A lại để học với cô trong giờ ra chơi hoặc về muộn hơn so với các bạn để học bù lại.
d. Phương pháp tổ chức các trò chơi:
Trong giờ học vần, tôi hay lồng ghép các trò chơi nhỏ để cả lớp cùng tham gia.
Ví dụ trò chơi “ Ai nhanh – Ai đúng ”. Giáo viên ghi một số từ vào các mảnh bìa và đưa ra cho học sinh đọc. Bạn nào đọc nhanh, đọc đúng 3 từ liên tiếp sẽ được cả lớp khen là tốt và tôi thường hay chọn các học sinh đọc chưa tốt để đọc nhiều hơn nhằm giúp các em cố gắng đọc để thi đua và tạo cho các em khả năng đọc nhanh, đọc đúng.
đ. Phương pháp nhận xét nêu gương:
Để nâng dần chất lượng học sinh trong lớp, muốn cho trình độ học sinh đồng đều vào cuối năm học, tôi thường trò truyện với học sinh đọc chưa tốt để dẫn dắt các em hơn cố gắng hơn cho kịp bằng các bạn. Tôi cho các em nhận xét các bạn đọc tốt trong lớp.
Ví dụ: Bạn kim Nguyên, bạn Kiều Thư, bạn Mỹ Ái đọc tốt, đọc trôi chảy vì các bạn ấy chăm chỉ đọc bài và đọc rất nhiều ở nhà, ở lớp các bạn cũng rất cố gắng đọc bài và luyện tập thêm để ngày càng đọc tốt, đọc hay hơn. Các bạn luôn thi đua với nhau xem ai đọc nhiều hơn, ai đọc đúng hơn và ai đọc hay hơn. Các em sẽ cũng đọc tốt như các bạn ấy nếu có cố gắng đọc nhiều, như các bạn: đọc chưa thông đọc chưa nhanh thì đánh vần, đọc nhẩm, nhẩm xong đọc to lên và cứ thế và đọc mãi, đọc đi đọc lại, đọc đến khi nào nhìn vào chữ là đọc được ngay mới thôi.
Tóm lại để học sinh đọc đúng, cần phải có sự kết hợp các biện pháp nêu trên, người giáo viên phải lập kế hoạch từ năm học, họp phụ huynh đề nghị mỗi gia đình phải chuẩn bị cho con em mình một góc học tập, yêu cầu phụ huynh thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn học sinh luyện đọc, luyện viết để các em nhớ lâu hơn.
5. Thực nghiệm và kết quả thực nghiệm:
5.1 Mục đích thực nghiệm:
Nhằm đánh giá đúng tính khả thi của vấn đề nghiên cứu “ Một số biện pháp giúp học sinh rèn kỹ năng đọc đúng” đã đưa ra.
5.2 Giáo án thực nghiệm:
 Môn: Tập Đoc
 Bài: Quà của bố
I. MUC TIÊU:	
- Đọc trơn cả bài tập đọc Quà của bố. Đọc đúng các từ ngữ: lần nào, luôn luôn, về phép, vững vàng,Bước đầu biết nghỉ hơi ở chỗ cuối mỗi dòng thơ, khổ thơ.
- Hiểu nội dung bài: Bố là bộ đội ngoài đảo xa, bố rất nhớ và yêu em. 
- Trả lời được câu hỏi 1, 2 (SGK).
- Học thuộc lòng một khổ của bài thơ.
- Một số học sinh học thuộc lòng cả bài thơ.
II. ĐỒ DÙNG DẠY- HỌC:
- GV: Tranh minh hoạ SGK.
- HS: Bảng con, SGK.
III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
Hoạt động của giáo viên
Hoạt động của học sinh
Tiết 1
1. Ổn định:
2. Kiểm tra bài cũ: 	
- Gọi HS đọc bài: Ngôi nhà và trả lời câu hỏi.
1. Ở ngôi nhà mình, bạn nhỏ:
- Nhìn thấy gì ?
- Nghe thấy gì ?
- Ngửi thấy gì ?
- Nhận xét, tuyên dương.
3. Bài mới: 
 Giới thiệu:
- Cho HS xem tranh GV liên hệ giới thiệu, ghi tựa bài: Quà của bố.
 Giảng bài:
 Luyện đọc tiếng, từ:
- GV đọc mẫu: giọng chậm rãi, tình cảm, nhấn giọng ở khổ thơ 2 .
- GV đọc mẫu từ ngữ: lần nào, về phép, luôn luôn, vững vàng ......
+ Chỉnh sửa phát âm cho HS.
 - Giải thích từ: vững vàng, đảo xa.
 HD luyện đọc dòng thơ:
- HD đọc từng dòng thơ.
- HD đọc trơn và nối tiếp nhau đọc các dòng thơ: 1, 2, 3, 4.
+ Chỉnh sửa phát âm cho HS.
Luyện đọc đoạn, bài:
- HD chia khổ thơ: 3 khổ thơ.
- HD cho HS đọc theo nhóm : 4 HS.
- Tổ chức cho HS thi đọc bài giữa các nhóm.
+ Nhận xét giọng đọc của nhóm.
- HD đọc cả bài: đọc to, đọc rõ ràng.
+ Nhận xét giọng phát âm của HS.
 Ôn vần oan-oat:
 a.Tìm tiếng trong bài có vần oan :
- HDHS tìm.
+ Nhận xét sửa bài.
 b. Nói câu chứa tiếng có vần oan-oat : 
- HD đọc câu mẫu.
HD đọc câu chứa tiếng có vần oan-oat :
+ Nhận xét khen thưởng cách nói trọn câu của HS.
4. Củng cố:
- Xóa bảng hỏi lại tựa, cho HS đọc đồng thanh cả bài.
- Liên hệ giáo dục HS.
5. Nhận xét- dặn dò:
- Nhận xét lớp, tuyên dương.
- Chuẩn bị T2.
- Haùt.
- Ñoïc baøi: Ngoâi nhaø.
1. ÔÛ ngoâi nhaø mình, baïn nhoû:
- Nhìn thaáy: haøng xoan, hoa nôû
- Nghe thaáy: chim hoùt
- Ngöûi thaáy: Muøi raï thôm.
- HS lặp lại: Quaø cuûa boá.
- Chuù yù nghe ñoïc
- HS đọc từ ngữ: laàn naøo, veà pheùp, luoân luoân, vöõng vaøng. 
- Lớp, caù nhaân đọc từ ngữ
- HS đọc bài nối tiếp mỗi em một dòng thơ.
- Ñoïc noái tieáp theo nhoùm moãi nhoùm 1 khoå thô.
- HS ñoïc trôn caû baøi: caù nhaân, nhoùm, tổ lôùp.
- Ñoïc y/c 1 trong SGK.
 Tieáng : ngoan
- Ñoïc y/c 2 trong SGK:
+Vaàn oan: Chuùng em vui lieân hoan.
+Vaàn oat: Chuùng em thích hoaït ñoäng
HS nối tiếp nói câu chứa tiếng có vần oan/oat.
- Ñoïc ñoàng thanh caû baøi: Quaø cuûa bố
Học sinh lắng nghe.
5.3 Kết quả thực nghiệm:
- Trong quá trình áp dụng các biện pháp, phương pháp trên để rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1A1. Tôi đã nhận thấy các em học sinh không những thuộc hết bảng chữ cái mà nhiều em còn đọc rất tốt. Kết quả khảo sát lần 2 vào Giữa học kì I cho thấy kết quả rất khả quan như sau:
Sĩ số
Nhận diện được,
đọc to rõ
Nhận diện được,
đọc nhỏ
Nhận diện chậm
đọc rất chậm
Số lượng
Tỉ lệ%
Số lượng
Tỉ lệ%
Số lượng
Tỉ lệ%
32
20
62,5
8
25,0
2
 6,3
Đây là một kết quả rất đáng mừng, bù đắp cho công sức và sự kiên nhẫn của giáo viên đứng lớp. Một lần nữa tôi tin rằng đến hết Học kì I và sang Học kì II tôi vẫn áp dụng các biện pháp trên. Thì tôi tin rằng đến cuối năm học, học sinh lớp tôi sẽ đọc tốt và Hoàn thành chương trình lớp 1 đạt 100%.
C. KẾT LUẬN:
1. Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài của mình về cải tiến về nội dung và phương pháp rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1. Bản thân tôi đã rút ra bài học kinh nghiệm như sau:
Phải thực sự thương yêu học sinh, xem sự tiến bộ của học sinh chính là sự tiến bộ của bản thân mình, quan tâm, gần gũi, giúp đỡ nhiều hơn đối với một số học sinh đọc chậm, viết chậm.
Ngay từ đầu mỗi năm học, người giáo viên phải tìm hiểu để biết được khả năng học tập và nhận thức của từng học sinh. Từ đó mà đưa ra biện pháp, phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.
Luôn động viên tuyên dương kịp thời, những học sinh có tiến bộ dù chỉ là một sự tiến bộ nhỏ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho những học sinh còn nhút nhát, chưa thể hiện sự tiến bộ.
Tạo không khí học tập vui tươi, thoải mái làm cho lớp học sinh động gây hứng thú học tập cho học sinh. 
2. Ý nghĩa của đề tài:
Để dạy tốt môn Tập đọc nói chung và rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1 nói riêng, vận dụng phương pháp dạy học đổi mới, tạo sự hứng thú học tập cho học sinh. Khi chuẩn bị bài, giáo viên cần tập trung chủ yếu vào khâu giúp đở học sinh luyện đọc, tự tìm tòi phát hiện, tự hiểu bài, đọc rõ ràng lưu loát.
Giáo viên biết cách rèn “ rèn luyện”, học sinh trong quá trình dạy - học, là đã mở cánh cở cho học sinh bay vào chân trời kiến thức, kết hợp giáo dục một cách suôn sẻ, hay nhất, hiệu quả nhất số lượng lẫn chất lượng.
3. Kết luận:
- Rèn kỹ năng đọc cho học là đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài vv Đọc còn yêu cầu học sinh biết ngắt nghỉ đúng ở dấu phẩy, dấu chấm, đọc còn yêu cầu các em phát âm chuẩn, chính xác các con chữ đễ khi viết các em không nhầm lẫn dẫn đến sai lỗi chính tả. Vì thế để phân môn tập đọc của học sinh lớp 1 có kết quả cao. Giáo viên chủ nhiệm lớp phải nắm vững đặc điểm tâm lý của học sinh, phải yêu học sinh như chính con mình, biết rõ mặt mạnh, mặt yếu của học sinh để bồi dưỡng, luyện tập.
- Trong từng tiết dạy giáo viên phải xác định khối lượng kiến thức cần truyền thụ cho học sinh thông qua mục đích, yêu cầu bài dạy. Khi giảng dạy cần lựa chọn nhiều phương pháp phù hợp, vận dụng việc đổi mới phương pháp trong giảng dạy đó là lấy học sinh làm trung tâm, phải khơi gợi cho học sinh tính chủ động, thích học, thích đọc bài. Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học cũng được coi trọng hàng đầu và nên thường xuyên sử dụng thiết bị dạy học.
- Giáo viên cần dẫn dắt học sinh đọc một cách nhẹ nhàng dí dỏm tạo cho các em sự tin cậy, yêu mến cô giáo tin thần vui vẻ, hồn nhiên để học tập. Khi đọc mẫu giáo viên phát âm chuẩn xác để học sinh bắt chước và vững vàng trong cách đọc, tránh đọc sai để ảnh hưởng đến học sinh.
Tuy nhiên điều quan trọng hơn cả vẫn là lòng yêu trẻ, sự kiên trì nhẫn nại và ý thức trách nhiệm của một người thầy giáo, cô giáo trực tiếp gần gũi các em hằng ngày. Chúng ta luôn ý thức trách nhiệm của mình dạy học sinh phải tiến bộ, sau một năm học các em phải đọc được và đạt được mức chuẩn đến trên chuẩn. Muốn đạt được mục đích này người giáo viên lập kế hoạch cho mình ngay từ đầu, quyết tâm giữ vững tinh thần trách nhiệm của mình với học sinh, hãy cùng học, cùng đọc với các bạn nhỏ này ở mọi lúc, mọi nơi, mọi môn học, không nên hời hợt, cho qua khi các em đọc sai lỗi, với học sinh lớp 1 cần tập cho các em thói quen tốt. Đọc đúng, nhìn kỹ, cố gắng nhẫn nại, chịu khóđể tập cho các em nề nếp tốt trong học tập ở hôm nay và mai sau .
Kinh nghiệm rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 1 chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong sự đóng góp chân thành của hội đồng khoa học để đề tài này được hoàn chỉnh hơn.
4. Kiến nghị:
4.1: Đối với học sinh:
Tham gia đầy đủ các buổi học, không nghỉ học trừ các trường hợp chính đáng
4.2: Đối với giáo viên:
Cần phài thực sự quan tâm yêu thương, nhiệt tình gần gũi và tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em thích đi học và yêu thích môn học.
Nên sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học một cách linh hoạt để học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo, và từ đó phát huy được tư duy của các em.
Phải chuẩn bị kĩ, nghiên cứu kĩ bài dạy, soạn bài chu đáo, thường xuyên nghiên cứu tư liệu giảng dạy, cập nhật những đổi mới cho phù hợp với mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn.
4.3. Đối với phụ huynh:
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập, nên khuyến khích cho các em học tập đến nơi, đến chốn.
- Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách nhằm bồi dưỡng tâm hồn cho các em, tạo nhiều thuận lợi trong việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong cuộc sống nói chung và trong việc học văn nói riêng .
Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình.
4.4. Đối với nhà trường:
- Đầu tư thêm sách tham khảo, tranh ảnh cho bộ môn.
- Đầu tư trang thiết bị, đặc biệt là đầu tư công nghệ thông tin để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy được sinh động và thu hút học sinh hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong quá trình dạy học nghiên cứu tìm hiểu giúp học sinh lớp 1A1 rèn kỹ năng đọc đúng. Bước đầu đã mang lại kết quả tốt, tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và viết nên đề tài này không tránh khỏi những khiếm khuyết, sai sót rất mong sự đóng góp bổ sung của hội đồng khoa học./.
- Xin chân thành cảm ơn!
 , ngày 12 tháng 12 năm 2017
 Nhận xét của HĐKH trường Người thực hiện
 ........

File đính kèm:

  • docSKKN mon TV 1 hay_12733564.doc
Sáng Kiến Liên Quan