Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm dạy tập viết khối 2

Đi học là một bước ngoặt lớn trong đời trẻ. Năm đầu tiên cắp sách đến trường, trẻ vô cùng bỡ ngỡ với việc chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Người ta thường nói: Một trong những hạnh phúc lớn nhất của trẻ là được đến trường, được học đọc, học viết. Bởi vậy vấn đề rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiều học là vô cùng quan trọng và cấp thiết bởi chữ viết của học sinh, đặc biệt là của học sinh đầu cấp Tiểu học đặt nền móng cơ bản cho toàn bộ quá trình học tập, rèn luyện cho học sinh những phẩm chất đạo đức tôt như: tinh thần kỷ luật, tính cẩn thận và óc thẩm mĩ. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “Chữ viết cũng là một biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình cũng như với thầy và bạn đọc bài vở của mình.”

doc14 trang | Chia sẻ: thuhong87 | Lượt xem: 2606 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: Một vài kinh nghiệm dạy tập viết khối 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 học sinh, nhất là học sinh lớp 1, lớp 2 lại càng quan trọng hơn. Vậy nên, tôi rất muốn giảng dạy môn Tập viết thật tốt để học sinh viết đẹp hơn, sạch hơn và cẩn thận hơn. Đó cũng là nhằm nâng cao chất lượng dạy- học ở Tiểu học nói chung và dạy – học chữ viết nói riêng.
Chính vì vậy thấy được tầm quan trọng của môn tập viết, tôi đa đi sâu tìm hiểu, học hỏi và nghiên cứu ra những yếu tố biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp , mong các em trở thành những con người phát triển toàn diện, có ích cho đất nước.
PHẦN II: 
PHẠM VI ĐỀ TÀI
1. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học môn Tập viết để tìm ra phương pháp giúp giáo viên rèn luyện cho học sinh lớp 2 viết đẹp hơn, đặc biệt chữ hoa tốt hơn.
2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Học sinh lớp 2B và học sinh khối 2 – Trường tiểu học Lê Quý Đôn - Quận Ninh Kiều – TP Cần Thơ.
3. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU: 3 NĂM
Năm học: 2005 – 2006
Năm học: 2006 - 2007
Năm học: 2007 – 2008
PHẦN III:
THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN
1. THUẬN LỢI:
- Trong những năm trở lại đây, việc rèn luyện chữ viết cho học sinh Tiểu học được Bộ Giáo Dục, Sở Giáo Dục, Phòng Giáo Dục, đặc biệt là Ban giám hiệu, các thầy cô và các bậc phụ huynh rất quan tâm. Chính vì thế, mục tiêu rèn chữ cho học sinh lớp 1 cũng như lớp 2 được đặt lên hàng đầu.
- Mỗi giáo viên được trang bị bộ chữ dạy Tập viết.
- Giáo viên được tham dự những chuyên đề về Tập viết và các cuộc thi “Viết chữ đẹp”, “Triển lãm vở sạch chữ đẹp”...để học hỏi và trau dồi kiến thức, trau dồi kinh nghiệm.
- Hàng tuần, học sinh đều có thêm tiết học để luyện viết thêm.
- Nội dung các bài Tập viết rõ ràng, phù hợp và cụ thể. Đặc biệt, học sinh còn được luyện thêm về cách viết chữ nghiêng.
2. KHÓ KHĂN:
- Vở Tập viết của học sinh còn mỏng nên rất dễ bị nhoè.
- Trình độ học sinh không đồng đều nên gặp nhiều khó khăn trong việc kèm các cháu học tập, đặc biệt là trong môn Tập viết.
 PHẦN IV:
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
I. NHỮNG CĂN CỨ:
1. Vị trí môn Tập viết ở Tiểu học (như đã trình bày ở phần I)
2. Khả năng viết chữ và thực trạng dạy Tập viết của giáo viên Tiểu học hiện nay:
Về cơ bản, giáo viên Tiểu học chữ viết đạt chuẩn theo mẫu. Tuy nhiên tỷ lệ giáo viên viết chữ đẹp chưa cao. Có những giáo viên còn viết theo thói quen của mình. Việc chuẩn bị cho một giờ dạy Tập viết của giáo viên cũng như việc cho điểm và nhận xét trong vở học sinh cũng chưa được chu đáo mà việc dạy Tập viết của giáo viên ở các lớp Tiểu học phải được tiến hành theo hai khâu cơ bản sau:
- Soạn giáo án Tập viết:
- Thực hiện giáo án trong giìơ dạy trên lớp.
Nhận thức của người lãnh đạo và người dạy về vai trò của môn Tập viết chưa sâu sắc. Trong môn Tiếng Việt, chưa thực sự coi trọng phân môn Tập viết như các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu... Vì thế, chưa tạo được sự hững thú khi dạy và học các phân môn này. ở trong một số trường khi đi kiểm tra, giáo án Tập viết vẫn còn một số giáo viên chưa hướng dẫn học sinh một cách cơ bản và tỉ mỉ về việc viết chữ đúng mấu, chưa kết hợp nhần nhuyễn việc dạy viết chữ với việc dãy nghĩa của từ, chưa hướng dẫn học sinh cách trình bày theo từng loại văn bản (thơ, văn xuôi). 
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP:
Bước vào tiếp xúc với chương trình lớp 2, việc rèn luyện chữ cho các em viết phải thật cẩn thận, đúng và đẹp là điều mà tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Vì vậy, tôi đã nghiên cứu, học hỏi đồng nghiệp để đưa ra những biện pháp giúp học sinh viết chữ đẹp. Sau đây là một số suy nghĩ và việc mà tôi đã làm:
1. Những điều kiện về cơ sở vật chất:
- Anh sáng phòng học, bảng lớp, bàn ghế của học sinh:
Đây là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc viết chữ và sức khoẻ của học sinh. Hiện nay hầu hết các trường Tiểu học trong nội thành đều đảm bảo các yêu cầu cơ bản, nhất là đối với trường tôi – một trường tiên tiến xuất sắc cấp thành phố nhiều năm. Anh sáng theo tiêu chuẩn học đường có bảng chống loá, có dòng kẻ rõ ràng, bàn ghế đúng kích cỡ tiêu chuẩn đối với học sinh cấp lớp 2.
- Đồ dùng học tập của học sinh:
Từ loại bút và mực thích hợp đến cách chọn vở, chọn bảng và phấn viết cũng được tôi lưu tâm đến. Hướng dẫn học sinh, phụ huynh tìm mua cho các em những quyển vở có đường kẻ tin đều, rõ ràng và khi viết không bị nhoè mực. Được sự ủng hộ từ phía nhà trường, có vở của nhà trường được sản xuất với chất lượng cao, giấy không bị thấm mực. Đối với vở tập viết có nhãn vở, có tờ lót tay khi viết để thấm mồ hôi ở tay ra giấy trong mùa hè, mùa thu.
Thực tế dạy viết hiện nay cho thấy sử dụng bảng con trong việc rèn chữ cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp 1 vẫn là tối ưu nhất. Có nhiều học sinh được bố mẹ mua cho bảng làm chất liệu mêca màu trắng, dùng bút dạ viết bảng. Dùng loại bảng và bút này có nhiều hạn chế: bảng trơn, học sinh viết không chủ động, mực ra đậm nhạt không đều, khi xoá dễ gây bẩn, mất vệ sinh. Hơn nữa, do bút to quá cỡ tay cầm bút của học sinh khiến các em khó điều khiển ngòi bút khi viết chữ.
 Cho nên trong buổi họp phụ huynh đầu năm, tôi đưa ra những quyển vở, bút chì, bút mực để phụ huynh tham khảo. Riêng bảng con thì tôi thống nhất toàn lớp để tránh tình trạng của em này thì có ô to, bảng của em kia thì có ô nhỏ sẽ gây khó khăn khi dạy Tập viết.
2. Sử dụng các đồ dùng trực quan khi dạy học Tập viết:
2.1 Những đồ dùng dạy Tập viết hiện nay:
Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong quá trình dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học.
- Mẫu chữ trong khung chữ phóng to theo bảng mẫu chữ hiện hành treo trên lớp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động sử dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ Tập viết mà ngay trong cả những môn học khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ.
- Bộ mẫu chữ in theo quy định cho giáo viên.
2.2 Đồ dùng tự làm đạt hiệu quả trong việc dạy - học Tập viết:
Để việc dạy Tập viết có hiệu quả, giáo viên có thể nghiên cứu tự làm các loại đồ dùng trực quan rất hữu ích cho việc dạy học Tập viết như: chữ mẫu phần từ ứng dụng để học sinh nhìn rõ cách viết, điểm đặt bút từ đâu đến đâu để viết cho liền mạch và giúp cho thao tác của giáo viên được nhanh hơn.
Hay loại đồ dùng tự làm cũng rất tiện lợi cho các loại bảng con có đính nam châm ở sau để viết trực tiếp lên bảng cho học sinh lên viết để học sinh ngồi dưới dễ dàng nhận xét.
a) Đồ dùng lật từng trang hiện ra từng nét (dùng để phân tích chữ mẫu):
* Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước của con chữ:
- Cấu tạo gồm những nét nào?
- Kích thước cao, rộng bao nhiêu ô?
* Cách làm đồ dùng:
- Giấy bìa cứng khổ A4 (1 tờ).
- Các tờ nhựa trong khổ A4 (số lượng tuỳ thuộc vào số nét chữ trong con chữ).
- Giấy đề can màu đỏ để cắt từng nét chữ rồi dàn lên từng tờ nhựa trong.
- Một đến hai gáy xoắn bằng nhựa mềm để đóng các tờ nhựa trong lại.
- Màu dạ để kẻ ô vuông lên tờ bìa cứng.
*Cách sử dụng: Dùng trong phần giảng bài mới: Viết chữ hoa, chữ thường:
- Giáo viên dùng que chỉ chỉ vào từng nét chữ trên trang nhựa cứng.
- Giáo viên nói đến nét nào thì lật từng nét ấy minh họa cho học sinh nhìn rõ.
- Giáo viên giới thiệu xong nét nào, yêu cầu học sinh nhắc lại tên nét chữ ấy và giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Để hoàn thành một con chữ thì các con cần viết mấy nét và đó là những nét nào?”
* Tác dụng của đồ dùng:
- Giúp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách rõ ràng, dễ hiểu, sinh động, hấp dẫn.
- Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước của con chữ cần viết.
- Giáo viên cũng có thể dùng đồ dùng này hướng dẫn học sinh cách viết một con chữ hoàn chỉnh.
Ví dụ: Trong bài Tập viết “Chữ hoa A” (lớp 2), giáo viên dùng que chỉ và đưa ra hệ thống câu hỏi:
(?) Các con nhìn lên bảng và cho cô biết đây là chữ gì? (chữ A hoa)
(?) Chữ A hoa được cấu tạo bởi mấy nét? (gồm 3 nét)
(?) Cho cô biết nét thứ nhất của chữ A hoa là nét gì? (nét 1 gần giống nét móc ngược (trái) và hơi lượn ở phía trên và nghiêng về phía bên phải).
(?) Nét thứ 2 là nét gì? (giáo viên lật trang thứ ba ra và yêu cầu học sinh nêu: nét 3 là nét lượn ngang)
Giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Chữ A hoa gồm mấy nét chữ ghép lại?”
b) Đồ dùng viết hoàn chỉnh một chữ cái bằng cách di chuyển nam châm (dùng để hướng dẫn các nét tạo thành con chữ):
* Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh điều chỉnh 1 chữ cái đúng yêu cầu từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc.
* Cách làm đồ dùng:
- Một tờ bìa cứng khổ A4 có in mẫu chữ hoa hoặc thường theo đúng quy định.
- Hai viên nam châm tròn, một viên có dán giấy màu đỏ ở trên, một viên để nguyên.
* Cách sử dụng đồ dùng:
Giáo viên dùng thao tác viết ở phía sau tờ bìa bằng cách di chuyển viên nam châm không có giấy màu đỏ. Di chuyển viên nam châm đúng theo quy trình viết một con chữ từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét bút để viên nam châm có dán giấy màu đỏ phía trước đúng khi giáo viên viết một con chữ cái.
Ví dụ: Hướng dẫn bài Tập viết “Chữ A hoa”
Giáo viên giảng: Từ điểm đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 3, viết nét móc ngược (trái) từ dưới lên, nghiêng về bên trái và lượn ở phía trên, dừng bút ở đường kẻ 6. Từ điểm dừng bút của nét 1, chuyển hướng bút viết nét móc ngược phải, dừng bút ở đường kẻ ngang 2, (vừa nói, giáo viên vừa di chuyển viên nam châm ở phía sau tờ bìa).
(?) Đến đây, cô đã viết xong chữ A chưa?
Giáo viên giảng tiếp: Cô lia bút lên khoảng giữa của thân chữ (trên đường kẻ ngang thứ 3 một chút), viết nét lượn ngang mềm mại chia đôi con chữ.
* Tác dụng của đồ dùng:
- Giúp học sinh biết cách viết liền nét từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét bút mà không nhấc bút.
- Giúp học sinh hình dung rõ quy trình viết hoàn chỉnh một con chữ mà không hề bị tay hay người của giáo viên trong quá trình viết che khuất.
- Đồ dùng sinh động với sự di chuyển chấm đỏ trên chữ mẫu rất thu hút sự chú ý của học sinh.
2.3. Tư thế ngồi và cách cầm bút:
Để giúp các em viết được những nét chữ, đúng mẫu, đẹp tôi đã hướng dẫn cả lớp tư thế ngồi viết: “Con phải ngồi tư thế ngay ngắn, lưng thẳng, không được tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 – 30 cm”. Tư thế ngồi viết không nay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế còn có hại cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu chúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi vị ảnh hưởng... nếu ngồi viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết câu hỏi: “Muốn viết đẹp con phải ngồi thế nào?”. Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế.
Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút và cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kỹ càng: “Khi viết, các con cần cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải, Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón giữa phía bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút vừa phải. Vì nếu cầm bút sát ngòi hoặc quá xa ngòi bút thì việc điều khiển bút khi viết sẽ khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở. Còn vở viết khi viết bài, tôi cũng luôn hỏi lại học sinh cầm bút và cách đặt vở. Những yếu tố tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào việc rèn chữ cho học sinh.
2.4. Rèn kỹ năng viết cho học sinh:
Trong quá trình dạy Tập viết và trong các hướng dẫn học, tôi sẽ củng cố, nhắc lại và khác sâu cho các em nhớ lại cách viết tử những ngày đầu các em cầm bút ở lớp 1.
a) Trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhó các đường kẻ trong bảng con và trong vở Tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất 
lượng dạy viết chữ.
1
2
3
4
* Bảng con:
1. Đường kẻ ngang trên	3. Đường kẻ ngang dưới
2. Đường kẻ ngang giữa	4. Đường kẻ ngang phía dưới
Có những chữ cái cao hơn một đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ ngang dưới: a, o, c...
Có những chữ cái cao 2 đơn vị rưỡi được xác định bằng đường kẻ ngang trên, đường kẻ ngang giữa và đườn kẻ ngang dưới: b, g, h...
* Vở Tập viết (vở in và vở ô li):
Vở tập viết của các em đã có sẵn đường kẻ, giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được một số quy ước về cách gọi.
b) Giúp học sinh củng cố, nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản:
Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành. Với một số kinh nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi, học hỏi đồng nghiệp, tôi nhận thấy: nếu học sinh viết các nét cơ bản không đúng, không đẹp thì việc viết xấu, viết sai là điều không tránh khỏi. Vì vậy tôi sẽ củng cố lại cho các em cách viết các nét cơ bản. Chú ý điểm đặt bút, dừng bút.
Chẳng hạn với nét khuyến xuôi (), nét khuyết ngược (), học sinh không rèn viết ngay từ đầu thì dễ viết lệch, xấu sẽ dẫn đến những chữ được tạo bởi 2 nét đó như: h, k, g, y... cũng không được đẹp và đây cũng là 2 nét khó mà học sinh thường lúng túng khi viết.
Chú ý: nét khuyết phải tròn, thon đều, không to quá, cũng không nhỏ quá hoặc không bị vuông đầu và đặc biệt điểm gặp nhau của hai nét phải ở đường kẻ 2 từ dưới lên (với nét khuyết xuôi), đường kẻ 1 (với nét khuyết ngược).
Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tôi thường cho các em luyện viết lên bảng nhiều, đến khi nào học sinh viết tương đối đồng đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu, chậm, tôi thường xuống tận nơi cầm tay uốn nắn các em viết đúng.
c) Phân loại chữ cái theo nhóm:
Để thuận tiện cho công việc giảng dạy và cho học sinh dễ dàng hơn trong Tập viết, tôi đã phân loại chữ cái theo các nhóm sau:
- Nhóm 1 gồm các chữ: U, Ư, X, Y, N, M
- Nhóm 2 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N
- Nhóm 3 gồm các chữ: P, R, B, D, Đ
- Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V
- Nhóm 5 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, T
- Nhóm 6 gồm các chữ: O, Ô, Ơ, A, Q, Q
Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Vì vậy, tôi cũng cho các em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học.
d) Hướng dẫn viết nối nét:
Khi học sinh đã viết các con chữ đúng mẫu, thì việc hướng dẫn nối chữ cũng rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ thì bài viết mới rõ ràng đều và đẹp được hơn nữa mới đảm bảo được tốc độ viết ở những lớp trên.
Tôi hướng dẫn kỹ học sinh cách điều tiết điểm DB của chữ đứng trước sao cho hợp lý. Ví dụ chữ “uê”. Cần điều tiết điểm bắt đầu của chữ ê đi sau thấp xuống một chút và kéo dài, nét kết thúc của chữ cái đứng trước lên cao một chút.
- Ngoài ra giáo viên phải lưu tâm nhắc nhở học sinh viết ... chữ bằng một con chữ không tưởng tượng. Viết sát quá hoặc xa quá đều không được.
- Tầm quan trọng của viết dấu thanh:
Dấu thanh không được viết to quá, bé quá và phải viết đúng vị trí. Thực tế trong những năm dạy Tiếng Việt lớp 2 tôi thấy học sinh thường mắc tình trạng các dấu thanh viết cao quá, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ viết. Tôi luôn nhắc học sinh dấu viết vừa phải và gần chữ nhưng không được dính vào chữ.
Và đặc biệt lưu tâm đến những em hay viết dấu sai vị trí thường gọi lên bảng viết nhiều lần để các bạn nhận xét
* Với học sinh Tiều học, nhất là học sinh đầu cấp, thường hiếu động, thiếu kiên trì nên nhiều em không tự giác khi viết bài. Các em muốn viết thật nhanh chóng cho hết bài để chơi. Để khắc phục điều này, tôi có quy định với học sinh: viết từng dòng theo hiệu lệnh của cô. Nhờ vậy, tránh được tình trạng viết nhanh, viết ẩu trong quá trình viết của học sinh. Đặc biệt, với những em viết đẹp, có nhiều cố gắng thì tôi sẽ cho điểm động viên, tuyên dương trước lớp để các em khác nhìn vào noi theo.
* Với học sinh, việc củng cố bài của giáo viên cũng góp phần rất quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh, Giáo viên có tiến hành theo cách sau để thu hút học sinh đến với các giờ Tập viết theo:
- Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để các em nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa.
- Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu.
- Tổ chức một số trò chơi để tánh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: Thi viết chữ đẹp, Thi viết nhanh...
- Sau khi học sinh viết xong bài, giáo viên cần chấm điểm ngay một số vở, sửa lỗi sai cho học sinh: tuyên dương những bài viết tốt.
* Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp, tôi còn trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng ra hướng giải quyết hay thống nhất cách dạy nhằm giúp học sinh tiến bộ hơn.
Với việc làm này cùng với sự chỉ bảo của giáo viên ở trên lớp mà những em viết xấu, viết ẩu ở lớp tôi hiện nay cũng tiến bộ nhiều
PHẦN V:
KẾT QUẢ
Do nắm được vai trò quan trọng của môn Tập viết nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các giờ Tập viết. Nếu so với đầu năm, nhiều em còn viết ẩu, viết xấu, thậm chí còn lệch dòng kẻ, sai cỡ chữ thì chữ viết của học sinh lớp tôi tương đối đều, bài viết sạch đẹp: tốc độ viết của học sinh đã nhanh hơn, tỉ lệ viết đúng, viết đẹp của học sinh cũng nâng lên.
Cụ thể là:
- Nhiều em viết chữ đúng chuẩn, đẹp, sạch.
- Một số em thời gian đầu còn bị điểm thấp nhưng giờ đã được điểm 7 – 8 môn học này.
- Chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu chứ quy định và đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 2 theo từng giai đoạn.
- Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận.
- Lớp đạt lớp Vở sạch chữ đẹp.
PHẦN VI
BÀI HỌC KINH NGHIỆM – KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT
1. Bài học kinh nghiệm:
Đối với mỗi giáo viên:
- Đòi hỏi đầu tiên theo tôi đó là sự tận tâm, nhiệt tình, yêu thương con trẻ. Trong mỗi giờ dạy, người giáo viên phải tạo được sự say mê cho bản thân mình cũng như hứng thú cho học sinh.
- Thường xuyên rèn luyện để có chữ viết mẫu chuẩn đẹp (vì tư duy của trẻ chủ yếu là trực quan và rất thích bắt chước theo cô giáo).
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học một cách cẩn thận, có chọn lọc và sáng tạo.
- Luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng nhiều hình thức như: sưu tầm tranh ảnh, chữ mẫu đẹp để phục bài học.
- Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến bộ trong việc “Rèn chữ - Giữ vở”.
2. Kết luận:
Trên đây là một số suy nghĩ và những biện pháp mà tôi đã áp dụng trong việc rèn chữ cho học sinh lớp 2.
Tôi tin rằng, nếu mỗi giáo viên luôn có ý thức rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các em sẽ có những bài viết đẹp, sạch sẽ. Sau này, các em sẽ trở thành những con người có tính cẩn thận, kiên trì, làm việc có khoa học, xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
3. Đề xuất ý kiến:
Để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, tôi xin có một vài đề xuất sau:
- Nên trang bị cho mỗi giáo viên bộ chữ hoa mẫu theo kiểu lật từng trng hiện ra từng nét chữ để giúp học sinh có hình ảnh cụ thể, sinh động về chữ mẫu cần viết.
- Thường xưyên tổ chức các cuộc thi “Viết chữ đẹp” cho học sinh va giáo viên.
-Tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp, các trường có phong trào “Vở sạch – Chữ đẹp” tiêu biểu.
Trên đây là một vài ý kiến tôi mạnh dạn đưa ra. Tôi rất mong có sự bổ sung, góp ý kiến Ban giám hiệu và các đồng chí giáo viên trong khối, trong trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 10 tháng 11 năm 2008
Người viết
 Hồ Thị Tống Ngọc
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học Tập viết ở Tiểu học
(Trần Mạnh Cường – Phan Quang Thân – Nguyễn Hữu Cao – NXB Giáo dục)
2. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng các lớp 1, 2, 3, 4
(Bộ Giáo dục và Đào tạo)
3. Dạy Tập viết ở Tiểu học
(Lê A - Đỗ Xuân Thảo – Trịnh Đức Minh – NXB Giáo dục)
4. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
(Lê Hữu Tỉnh – Trần Mạnh Hưởng – NXB Giáo dục)
5. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2
6. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2.
7.Phạm Văn Đồng “Dạy nét chữ nết người”
(Báo Tiền Phong số 1760. Ra ngày 18 – 1 - 1968)

File đính kèm:

  • docsang kien kinh nghiem 2018_12493640.doc
Sáng Kiến Liên Quan