Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc trong phân môn Tập đọc cho học sinh lớp Hai

Mục đích và nhiệm vụ đề tài:

a/ Mục đích:

- Qua việc nghiên cứu và tìm hiểu đề tài này sẽ giúp học sinh chưa hoàn thành kĩ năng đọc đúng trong phân môn Tập đọc vươn lên trong học tập, đọc trôi chảy, bước đầu đọc diễn cảm, sử dụng Tiếng Việt chính xác, giúp ích rất nhiều cho việc viết đúng chính tả và học tốt các môn học khác trong chương trình Tiểu học. Đặc biệt, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng môn Tập đọc nói riêng.

 - Mặt khác, giúp cho giáo viên có thêm những kinh nghiệm quý báu và hướng

phấn đấu cao hơn trong công tác giảng dạy, nhận rõ vai trò, trách nhiệm của mình trong sự nghiệp trồng người.

b/ Nhiệm vụ:

- Tìm ra được những khó khăn và hạn chế của học sinh thường mắc phải và có biện pháp cụ thể rèn kĩ năng đọc đúng và nghe cho học sinh.

- Rèn kĩ năng tự học cho học sinh.

- Trau dồi vốn Tiếng Việt, văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự hiểu biết của học sinh về cuộc sống.

 

doc23 trang | Chia sẻ: thuphuong25 | Lượt xem: 1880 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng đọc trong phân môn Tập đọc cho học sinh lớp Hai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác dấu thanh chủ yếu là rèn đọc cá nhân.
 	VD: Bài tập đọc “Cây xoài của ông em” (SGK Tiếng Việt 2 tập 1, trang 89), phải đọc “lẫm chẫm” không đọc “ lẫm chẩm” tôi hướng dẫn học sinh hai dấu thanh ngã đi liền nhau thì cần phải nhấn giọng cả hai tiếng. Như vậy, để luyện cho các em đọc đúng tiếng, từ, cụm từ thì trước tiên ta phải luyện âm một cách chính xác và có hiệu quả. Vì vậy, trước tiên tôi bồi dưỡng cho học sinh nói, đọc đúng chính âm càng sớm càng tốt. 
Sau thời gian khoảng 5 – 6 tuần, học sinh lớp tôi có tiến bộ rất nhiều về cách phát âm. 
3.2.2. Luyện đọc câu
 Sau khi luyện đọc từ, tôi chuyển sang luyện đọc câu. Tôi cho học sinh đọc nối tiếp theo dãy bàn hoặc theo tổ. Khi đó, mỗi học sinh được tham gia tích cực vào quá trình luyện tập. Qua đó mà bộc lộ năng lực đọc của từng cá nhân. Trong lúc từng cá nhân đọc nối tiếp theo câu, tôi chú ý lắng nghe học sinh đọc. Tuy nhiên, trong quá trình học sinh đọc, tôi thấy học sinh ngắt, nghỉ hơi một cách tuỳ tiện. Để hướng dẫn học sinh đọc đúng, tôi thực hiện như sau: Đầu tiên tôi chép câu khó lên bảng, sau đó tôi đọc cả câu cho học sinh lắng nghe phát hiện xem cô ngắt hơi, nghỉ hơi ở chỗ nào. Rồi tôi dùng phấn kẻ một nét xiên ( / ) ngắt hơi và 2 nét xiên ( // ) nghỉ hơi, “” đọc chậm lại, kéo dài, dấu gạch chân ( ) biểu thị sự nhấn giọng; khoanh tròn vào các tiếng có vần khó cần luyện đọc, tiếp đến tôi cho học sinh dùng bút chì ghi ký hiệu để ghi lại ngữ điệu của bài. Chẳng hạn lên giọng ( ) , xuống giọng( ) . Tiếp theo, tôi đọc mẫu lại và cho hai học sinh đọc tốt đọc cho cả lớp nghe. Sau đó, tôi cho học sinh luyện đọc cá nhân.
Ví dụ: Khi dạy bài “ Cây xoài của ông em” (SGK Tiếng Việt 2 tập 1, trang 89) câu: “Ăn quả xoài cát chín trảy từ cây của ông em trồng, kèm với xôi nếp hương, thì đối với em không thứ quà gì ngon bằng.” Tôi tiến hành hướng dẫn đọc như sau:
Tôi đọc cho học sinh phát hiện ngắt nghỉ ở chỗ nào? ( Ngắt ở từ “chín”, “trồng”, “hương”, “ em”, nghỉ ở từ “bằng”).
Hỏi: Vì sao cô ngắt ở từ “chín”, “trồng”, “hương”, “ em” ? (vì đọc đến đó ta thấy nó diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn).
Sau đó, tôi dùng phấn gạch một nét xiên ( / ) sau từ “chín”, “trồng”, “hương”, “em” để trong quá trình đọc, học sinh đọc đúng.
Hỏi: Vì sao cô nghỉ hơi ở từ “bằng”- học sinh nêu cách nhận biết: (vì đã có dấu kết thúc câu). Tôi gạch 2 nét xiên ( // ) sau từ “ bằng”.
Ăn quả xoài cát chín / trảy từ cây của ông em trồng,/ kèm với xôi nếp hương,/ thì đối với em / không thứ quà gì ngon bằng//.
Tôi cho vài học sinh đọc tốt luyện đọc trước và sau đó luyện đọc cho học sinh cả lớp. Lưu ý cho học sinh khi đọc câu văn dài, các em cần ngắt hơi ở một số cụm từ dài và cụm từ đó phải diễn đạt một ý tương đối trọn vẹn.
Tôi hướng dẫn cách ngắt nhịp trong câu thơ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Cây dừa” (SGK Tiếng Việt 2- tập 2, trang 88)
Tôi hướng dẫn học sinh ngắt nhịp thơ bằng cách: Tôi đọc trước, học sinh lắng nghe. Sau đó, học sinh nói rõ trong câu đó ngắt nhịp mấy cho hợp lý rồi tiến hành luyện đọc:
 Ai mang nước ngọt, / nước lành, /
Hoặc: Tiếng dừa / làm dịu nắng trưa /
3.3. Luyện đọc đúng dạng thơ, văn xuôi
3.3.1. Luyện đọc đúng dạng thơ
Thơ là tiếng nói của tình cảm, là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp, thơ rất giàu chất trữ tình. Vì vậy, khi đọc thơ vần thể hiện được tình cảm của tác giả gửi gắm trong từng từ, dòng thơ, nhịp thơ để truyền cảm xúc đến người nghe. Đọc thơ phải đọc đúng dòng thơ, ý thơ, vần thơ, thể thơ để thể hiện sắc thái tình cảm. Khi dạy bài tập đọc là thơ thì một công việc không thể thiếu được đối với giáo viên và học sinh đó là ngắt nhịp câu thơ. Thực tế cho thấy, học sinh mắc lỗi ngắt nhịp là do không tính đến nghĩa, chỉ đọc theo thể thơ. Do vậy, khi dạy những bài tập đọc là thơ ở giai đoạn đầu tôi thường chép lên bảng các câu thơ cần chú ý ngắt giọng rồi hướng dẫn.
Ví dụ: Bài “Mẹ” (SGK Tiếng Việt 2 tập 1, trang 101)
	Những ngôi sao/ thức ngoài kia
Chẳng bằng mẹ/ đã thức vì chúng con.
 Đêm nay/ con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió / của con suốt đời.
Riêng ở câu thơ: “ Mẹ là ngọn gió / của con suốt đời”, tôi lưu ý học sinh đọc chậm lại, nhịp giãn ra để tạo cảm xúc cho người nghe.
Học sinh sẽ được luyện đọc mỗi em đọc hai dòng thơ nối tiếp nhau cho đến hết bài. Tôi yêu cầu các em dùng bút chì đánh dấu các kí hiệu vào sách để khi đọc không bị quên.
Đến giai đoạn học kì hai, tôi để học sinh nhìn vào sách và nêu cách ngắt giọng của mình ở từng câu. Nếu học sinh nói đúng, tôi công nhận ngay và cho các em đánh dấu luôn vào sách. Nếu học sinh nêu chưa đúng thì tôi sửa lại ngay. 
Ví dụ: Bài “Tiếng chổi tre”
Học sinh thường ngắt nhịp như sau: 
	Những đêm hè /
Khi ve ve /
Đã ngủ /
Tôi lắng nghe /
Trên đường / Trần Phú /
	Tôi đã sửa lại câu học sinh chưa hoàn thành và cho các em thấy cần ngắt nhịp như thế.
	Ví dụ: Câu “Trên đường Trần Phú” ngắt nhịp như trên là chưa đúng vì câu “Trên đường Trần Phú” là một cụm từ liền nhau, nếu ngắt giọng ở sau chữ “đường” thì cụm từ đó sẽ bị tách. 
3.3.2 Luyện đọc đúng dạng văn xuôi
Tương tự như thơ, tôi chú trọng rèn cho các em biết ngắt, nghỉ hơi cho đúng. Cần phải dựa vào nghĩa và các dấu câu để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc, không được tách một từ ra làm hai, tức là không ngắt hơi trong một từ. Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu, ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm. Đối với những câu văn dài, tôi cũng hướng dẫn học sinh ngắt hơi cho phù hợp. Có thể tôi cho học sinh tự tìm những câu văn dài đó hoặc do chính tôi đưa ra. Sau đó, tôi yêu cầu học sinh xác định cách ngắt giọng. Bên cạnh đó, tôi còn giúp học sinh đọc rõ, nhấn giọng hay kéo dài những từ quan trọng trong bài, những từ chìa khóa của bài.
Việc ngắt nghỉ hơi phải phù hợp với các dấu câu: ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm; đọc đúng các ngữ điệu câu: lên giọng ở câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm cần diễn đạt trong câu. Với câu cầu khiến cần nhấn giọng phù hợp để thấy rõ các nội dung cầu khiến khác nhau. Ngoài ra, còn phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu.
Sau nhiều lần như thế, học sinh đã nâng dần lên khả năng biết đọc ngắt nghỉ trong câu văn và đã xác định được những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
Ngoài ra, đối với những bài có lời thoại, tôi hướng dẫn kỹ học sinh cách lên giọng cuối câu hỏi, xuống giọng cuối câu kể và còn phải biết phân biệt được giọng của người dẫn chuyện và lời của các nhân vật.
VD: Bài “Bác sĩ Sói” (SGK Tiếng Việt 2 tập 2, trang 41) thể hiện giọng đọc:
+ Lời người dẫn chuyện: đọc giọng thong thả
+ Lời Sói: giả bộ hiền lành
+ Lời Ngựa: giả bộ hiền lành, ngoan ngoãn
	Cũng như thơ, sau khi sửa xong lỗi ngắt giọng cho học sinh, tôi gọi nhiều em
đọc, các em học sinh khác nghe và nhận xét bạn đọc. Việc luyện cho học sinh đọc đúng từ, câu sẽ giúp cho việc đọc đoạn, bài được trôi chảy, lưu loát hơn và các em nắm chắc được cách đọc đúng văn bản mà không phải tình trạng học vẹt.
3.4. Luyện đọc thầm
Trong thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy được rằng đọc thầm thực sự có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng. Dạy đọc thầm chính là dạy cho học sinh đọc có ý thức. Kết quả của việc đọc thầm là giúp cho học sinh hiểu đúng ý nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, cả bài, nghĩa là toàn bộ những gì các em được đọc. 
 VD: Khi dạy bài “ Câu chuyện bó đũa” (SGK Tiếng Việt 2 tập 1, trang 112 - 113), khi các em đọc thầm, các em hiểu được câu chuyện có những nhân vật nào: người cha và bốn người con. Thông qua đọc thầm các em hiểu được “Người cha muốn khuyên các con điều gì?” Các em sẽ nói lên được cảm nghĩ của bản thân khi đọc bài văn đó chính là: Anh em phải đoàn kết, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh. 
 Vì thế, trong tiết học, trong lúc tôi đọc mẫu hay một học sinh nào đó đọc chẳng hạn, tôi thường nhắc nhở các em theo dõi và đọc thầm theo bài. Tôi cũng giải thích thêm cho các em thấy được tầm quan trọng của việc đọc thầm đó là các em được rèn luyện sự theo dõi của đôi mắt một cách nhạy bén; sự im lặng lắng nghe người khác đọc cũng chính là tôn trọng người khác- một kĩ năng trong giao tiếp và các em được rèn luyện cũng như được học hỏi thêm về kĩ năng đọc cho bản thân. Đồng thời, việc lắng nghe bạn đọc còn giúp cho các em có thể đánh giá, nhận xét được về cách đọc của bạn.
 Tuy nhiên, để kiểm soát được quá trình đọc thầm của học sinh, tôi cũng quy định thời gian đọc cho từng đoạn hoặc cho cả bài và yêu cầu học sinh nào đọc xong rồi thì giơ tay báo cho giáo viên biết. Thỉnh thoảng, tôi cũng gọi bất kì một học sinh nào đó đọc to câu văn mà em đang đọc thầm đến đó nhằm theo dõi quá trình đọc thầm của học sinh như thế nào.
3.5. Luyện đọc củng cố và nâng cao 
Hướng dẫn học sinh đọc giữ tốc độ theo chuẩn kiến thức, không đọc ê - a, không đọc quá nhanh hoặc quá nhỏ, tôi điều chỉnh tốc độ bằng việc giữ nhịp đọc. Cụ thể bằng cách trước khi dạy, tôi đếm trong bài có bao nhiêu tiếng rồi dự kiến học sinh đọc bao nhiêu phút. Đồng thời, tôi cũng lưu ý học sinh điều chỉnh giọng đọc sao cho bạn ngồi ở vị trí xa nhất lớp có thể nghe được giọng đọc của mình. Ngoài ra, tư thế khi đứng đọc cũng cần thoải mái, sách mở rộng, cầm bằng hai tay và mở trang sách để ở hướng có ánh sáng chiếu vào.
Khi dạy các bài có tranh, tôi sử dụng phương pháp trực quan là cho học sinh quan sát tranh minh họa các bài tập đọc ở sách giáo khoa để giúp các em dễ hiểu và biết thêm một số hình ảnh, chi tiết, nhân vật ở trong bài .
Phân môn Tập đọc có nhiệm vụ rèn các kỹ năng: nghe, nói, đọc. Trọng tâm là kỹ năng đọc. Để hình thành và phát triển tốt các kỹ năng này cho học sinh, tôi tổ chức các hoạt động trên lớp sao cho tất cả các học sinh đều được đọc, nếu như các em đọc tốt rồi thì hướng dẫn các em đọc hay hơn. Còn các em đọc chậm, nhỏ thì tôi yêu cầu các em đọc tăng dần tốc độ và đọc to dần. Ngoài ra, tôi cũng yêu cầu học sinh học hỏi cách đọc của những em đọc tốt. Đồng thời, tôi cũng tuyên dương kịp thời những em đọc tốt và những em có nhiều tiến bộ.
3.6. Tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học trong khâu luyện đọc.
 Nếu trong một tiết học mà chỉ có một hình thức luyện đọc thì sẽ dễ dẫn học sinh đến chỗ nhàm chán, mất tập trung và hiệu quả luyện đọc sẽ không cao.
 Do đó, để tiết luyện đọc diễn ra sôi nổi, tạo hứng thú cho học sinh luyện đọc tốt hơn, tôi đã tổ chức linh hoạt các hình thức dạy học trong khâu luyện đọc như đọc cá nhân, đọc đồng thanh, đọc nhóm, đọc phân vai, thi đua,...Có khi, tôi cho học sinh luyện đọc trong nhóm nhằm tạo điều kiện cho các em thể hiện tinh thần đoàn kết, tinh thần trách nhiệm của mình trong nhóm. Cũng từ đó, các em sẽ có ý thức nổ lực, phấn đấu hơn khi tôi cho học sinh ở các nhóm thi đọc với nhau. 
 Vào những tiết học củng cố kiến thức luyện đọc ở buổi hai, tôi thường cho một số học sinh còn hạn chế về kĩ năng đọc được rèn đọc nhiều hơn từng câu, đoạn trong các bài tập đọc. Khi đó, tôi thường đến cạnh bên các em để theo dõi và uốn nắn cho các em. Đồng thời, tôi cũng thường tổ chức cho các em luyện đọc phân vai. Vì khi học sinh đọc phân vai nghĩa là mỗi em phải đảm nhận vai của mình thì các em phải có tinh thần trách nhiệm theo dõi, đọc thầm theo bài đọc để có thể thể hiện tốt vai của mình. Tuy nhiên, trước khi các em bắt đầu đọc, tôi cũng lưu ý các thêm các em cần thể hiện tốc độ đọc cũng như giọng đọc sao cho phù hợp với từng vai trong bài. Song song đó, tôi nhắc nhở các học sinh còn lại tập trung đọc thầm theo dõi bài để có thể đưa ra nhận xét và bình chọn những bạn đọc tốt. Song song đó, tôi vẫn không quên hình thức động viên, khen thưởng kịp thời đối với từng đối tượng học sinh trong lớp học của mình. Nhờ vậy, mà học sinh đã có hứng thú tham gia tích cực vào tiết học và mang lại hiệu quả thiết thực hơn trong giờ luyện đọc.
3.7. Thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh
 Kết quả học tập của học sinh không chỉ phụ thuộc vào sự nhiệt tình, tích cực giảng dạy của giáo viên mà bên cạnh đó ý thức tự học, tự rèn luyện, tự phấn đấu của chính từng cá nhân học sinh ngay ở nhà cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bởi lẽ, người giáo viên có dạy nhiệt tình đến đâu đi chăng nữa mà một khi học sinh không có ý thức tự học và không có hứng thú học thì cũng không đạt kết quả tốt được. Do đó, sự kết hợp giáo dục chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình học sinh là hết sức cần thiết. Vì lí do đó, ngay từ giai đoạn đầu năm, tôi đã tổ chức cuộc họp cha mẹ học sinh để tiếp xúc trao đổi với cha mẹ các em một số vấn đề như sau :
 +Về yêu cầu đặt ra đối với môn Tập đọc, về cách đánh giá môn học, cũng như các căn cứ để đánh giá cuối năm. Từ đó, phối hợp với phụ huynh nhằm nhắc nhở các em có ý thức tự luyện đọc bài ở nhà và có sự giám sát của cha mẹ hay anh chị của các em. Các bậc cha mẹ cần hỗ trợ các em lên một thời gian biểu học tập ở nhà. Để từ đó, nhắc nhở và theo dõi các em học tập theo thời gian biểu đó. Khi các em đã có ý thức tự giác thực hiện việc học tập theo thời gian biểu thì các em có thể được vui chơi, giải trí.
 + Phụ huynh cần có sự quan tâm đến các em nhiều hơn trong việc nhắc nhở các em bảo quản sách giáo khoa Tiếng Việt, vở, cũng như các đồ dùng học tập khác ở nhà. Hơn thế nữa, phụ huynh cần hỗ trợ các em đem sách giáo khoa Tiếng Việt đầy đủ khi đến lớp.
Tôi cũng thường xuyên liên lạc với phụ huynh học sinh qua điện thoại, hoặc đến thăm hỏi trực tiếp gia đình học sinh, đặc biệt là những học sinh còn hạn chế về kĩ năng đọc. Qua trao đổi với phụ huynh học sinh, tôi nắm bắt được hoàn cảnh gia đình của từng em trong lớp, từ đó tôi đã áp dụng một số biện pháp sau: 
+ Tôi thường xuyên chú ý đến các em, giúp đỡ, động viên các em cố gắng học.
+ Tôi thường trao đổi với phụ huynh về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc học trong thời đại hiện nay. 
+ Trong năm học, tôi bố trí một số học sinh có kĩ năng đọc tốt trong lớp ngồi cạnh các em còn hạn chế về kĩ năng đọc để kèm cập, nhắc nhở và hỗ trợ những em này trong tiết học chính thức, cũng như học buổi hai và cả mười lăm phút truy bài đầu giờ.
+ Tôi cũng phát huy vai trò của ban cán sự lớp trong giờ truy bài đầu giờ để tăng cường hỗ trợ những bạn chưa có kĩ năng đọc tốt.
+ Tôi khuyến khích, hỗ trợ các em trong lớp có nhà ở gần nhau lập thành một nhóm học tập khoảng 4 – 5 bạn, để vào một số buổi chiều trong tuần các em cùng nhau họp nhóm học tập và tôi thường xuyên hỏi thăm, kiểm tra cũng như hỗ trợ các em khi gặp khó khăn trong việc học nhóm.
Sau nhiều lần thì học sinh trong lớp tôi đã có ý thức tự học, nhiều gia đình đã bắt đầu quan tâm hơn trong việc học của các em và họ đã phối hợp với giáo viên để nâng cao kết quả học tập của con em mình như: thường xuyện gọi điện thoại hỏi thăm về tình hình học tập của các em để nhắc nhở thêm con em mình chuẩn bị bài ở nhà, mua sắm dụng cụ học tập đầy đủ 
4. Kết quả:
Trong quá trình áp dụng các biện pháp trên để rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp Hai/1, tôi đã thu được kết quả như sau:
 Các giai đoạn
Các mức độ đọc
Đầu năm
Cuối HKI
Cuối năm học
SL(Học sinh)
Tỉ lệ 
(%)
SL(Học sinh)
Tỉ lệ 
(%)
SL(Học sinh)
Tỉ lệ 
(%)
Đọc đúng, rõ ràng từng từ, câu, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ
11/6
39,4
19/8
67,9
28/15
100
Đọc ê – a, lệch chuẩn 
5/3
17,8
3/3
10,7
0
Đọc ngắt nghỉ tùy tiện
8/4
28,5
5/3
17,8
0
Đọc đánh vần từng tiếng
4/2
14,3
1/1
3,6
0
Biểu đồ đánh giá tình hình học sinh lớp Hai/1 đọc qua các giai đoạn
Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy phương pháp tôi thực nghiệm đã đạt được kết quả đáng kể. Thực tế trên lớp tôi dạy, học sinh đọc bài không còn đọc chậm, phát âm chưa chính xác tiếng/ từ, đọc ê – a, ngắt nghỉ hơi chưa đúng chỗ, ... mà các em tiến bộ hẳn lên không những ở phân môn Tập đọc mà còn ở những môn học khác nữa. Các em cảm thấy mạnh dạn, tự tin phấn khởi hơn khi vào tiết học. Đây chính là nền tảng vững chắc cho các em học các môn học khác và cũng để học lớp cao hơn. Từ kết quả trên, tôi khẳng định con đường tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng qua nghiên cứu đã đem lại kết quả khả quan trong giảng dạy .
5. Bài học kinh nghiệm:
- Giáo viên cần đúc rút kinh nghiệm từ thực tế giảng dạy hàng năm và học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp trong quá trình dự giờ, thăm lớp nhằm phối kết hợp những biện pháp giảng dạy tối ưu và hiệu quả hơn ở phần dạy luyện đọc của phân môn Tập đọc. 
- Người giáo viên luôn cần phải tìm hiểu tâm lí của từng học sinh, thường xuyên gần gũi, thân thiện với các em nhưng đồng thời cũng phải thật sự nghiêm khắc với học sinh.
- Giáo viên cần không ngừng trau dồi về chuyên môn, tìm hiểu và nghiên cứu thêm tài liệu về các phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
- Giáo viên cần kết hợp nhiều biện pháp giáo dục học sinh, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh.
PHẦN KẾT LUẬN
III. KẾT LUẬN
Tóm lược giải pháp:
- Đọc thật sự là một nhu cầu to lớn của người đi học, đọc để đến với những hiểu biết cao hơn, vươn đến những thành tựu trí thức cao hơn và nhất là trong thời đại văn minh hiện nay thì việc đọc ở mỗi con người không thể thiếu được. Muốn học sinh đọc đúng thì cần phải làm thế nào để học sinh thấy được tầm quan trọng của nó. Đưa ra cho học sinh thấy được lợi ích khi đọc đúng. Khi học sinh đã thích đọc thì vai trò của người giáo viên là uốn nắn, nâng đỡ, sửa lỗi bằng nhiều hình thức như khảo sát, kiểm tra, động viên, khen thưởng. Các hình thức kiểm tra này phải luôn thay đổi cho phù hợp để học sinh không cảm thấy nhàm chán. Đối với Tập đọc thì phải thường xuyên kiểm tra giọng đọc của học sinh, khi dạy không những rèn đọc đúng mà phải chú ý đến luyện đọc hay, diễn cảm. Muốn học sinh mình đạt được những kỹ năng trên, trong mỗi bài đọc, bài kiểm tra giáo viên cần đánh giá, khen ngợi kịp thời, cần lấy những gương tốt để nêu lên cho các em học tập lẫn nhau. 
- Cần phải chuẩn bị kĩ bài dạy như: Tìm hiểu cách đọc, luyện đọc diễn cảm bài đọc và tìm hiểu nội dung bài, dự kiến phương pháp và hình thức tổ chức dạy học như thế nào cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình.
	- Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, đọc nhanh một cách linh hoạt, khéo léo. Phải thương yêu, gần gũi, giúp đỡ học sinh, luôn quan tâm tìm hiểu xem các em vấp phải khó khăn, vướng mắc gì trong cách phát âm, cách đọc cũng như tìm hiểu bài để từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời. Đặc biệt khi dạy học phải luôn luôn hướng tập trung về học sinh, tạo điều kiện cho các em luyện đọc để tạo sự tự tin cho các em.
 - Trong quá trình giảng dạy, nên vận dụng nhiều phương pháp, hình thức để thay đổi không khí học tập, gây hứng thú cho học sinh. 
Với cách dạy tận tình cùng với sự tìm tòi nghiên cứu của bản thân, áp dụng ngay chính lớp mình chủ nhiệm, chắc chắn việc đọc của học sinh sẽ tiến bộ rõ nét.
2. Phạm vi và đối tượng áp dụng:
Với cách dạy, cách rèn đọc này không chỉ áp dụng ở chương trình lớp Hai. Mà theo tôi nghĩ đã là môn Tập đọc thì yêu cầu trọng tâm là rèn luyện cách đọc cho học sinh nên có thể mở rộng áp dụng ở bậc Tiểu học trong tỉnh. Tuy nhiên, ở từng điều kiện mà giáo viên thay đổi các biện pháp, phương pháp cho phù hợp với học sinh của mình.
Kiến nghị
 Đối với ngành:
Cần tạo điều kiện cho giáo viên có cơ hội giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm với các giáo viên giỏi ở các trường khác qua mở các chuyên đề.
Cần bổ sung thêm cơ sở vật chất và đảm bảo về phòng học để học sinh toàn trường đều được học lớp 2 buổi/ ngày.
 Trên đây là một số kinh nghiệm, biện pháp dạy học rèn kĩ năng đọc trong phân môn Tập đọc cho học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp Hai nói riêng mà tôi đã tìm tòi học hỏi tài liệu, đồng nghiệp và ghi chép lại trong quá trình giảng dạy thực tế trên lớp tôi chủ nhiệm. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để năm học sau đạt được kết quả cao hơn.
 Người viết
 Nguyễn Thị Nhung
4.Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình rèn kĩ năng sử dụng Tiếng Việt. Nhà xuất bản Giáo dục. Năm 2008 
- Giáo trình Chương trình giáo dục phổ thông cấp Tiểu học. Nhà xuất bản Giáo dục. Năm 2006.
- Giáo trình Phương pháp dạy học Tiếng Việt 2. Nhaø xuaát baûn Ñaïi hoïc Sö phaïm Haø Noäi. Naêm 2006.
- Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 2. Nhà xuất bản Giáo dục. Naêm 2006.
- Sách Tiếng Việt 2 (Tập 1+2). Nhà xuất bản Giáo dục. Năm 2009
- Sách giáo viên Tiếng Việt 1 (Tập 1+2). Nhà xuất bản Giáo dục. Năm 2009

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_doc_trong.doc
Sáng Kiến Liên Quan