Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh Lớp 5
I. Đặc điểm tình hình trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
1. Thuận lợi:
a) Giáo viên:
Đội ngũ giáo viên cũng đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy.
b) Học sinh:
Đa số học sinh có đủ Sách giáo khoa và các đồ dùng học tập.
2. Hạn chế:
a) Giáo viên:
- Việc vận dụng dạy học tích hợp chưa được giáo viên vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho các em trong một tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học.
- Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám “thoát li” các gợi ý của sách giáo khoa, sách tham khảo vì sợ sai và không đủ thời gian cho một tiết học.
b) Học sinh:
- Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các phân môn của Tiếng Việt, của các môn học khác, của các lớp dưới vào học tập môn Tập làm văn. Chẳng hạn, khi dạy cho học sinh cấu tạo một bài văn tả cảnh, giáo viên cần hướng dẫn các em tìm hiểu văn bản mẫu để rút ra nhận xét. Trong khi đó, nếu dựa trên kiến thức đã học về văn miêu tả ở lớp Bốn để hình thành cho các em cấu tạo bài văn tả cảnh ở lớp Năm rõ ràng là nhanh hơn.
- Học sinh của nhà trường đa số là học sinh trung bình, yếu về làm văn. Với đối tượng này, việc học tập của các em còn gặp một số khó khăn sau:
+ Tiếng Việt là tiếng nói để giao tiếp của các em nhưng vốn Tiếng Việt lại rất hạn chế. Trong khi đó, việc học kiểu bài miêu tả rong phân môn Tập làm văn lớp Năm lại yêu cầu vốn từ ngữ, năng lực tư duy rất lớn. Vốn từ của các em chưa phong phú, chưa hiểu hết nghĩa của từ nên việc vận dụng vào bài làm còn nhiều sai sót.
+ Chương trình Tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh trung bình, yếu.
+ Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp “làm mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh “coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu.
ất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh trung bình, yếu. + Đôi lúc, do nhiều nguyên nhân, một số giáo viên vẫn lạm dụng phương pháp “làm mẫu” đối với học sinh trung bình, yếu, từ đó dẫn đến tình trạng học sinh “coppy” nhau hoặc học thuộc bài văn mẫu. + Thời gian quy định đối với một tiết học cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc dạy Tập làm văn trong nhà trường Tiểu học. + Trong các lớp vẫn còn rải rác một số học sinh yếu, cá biệt, có học sinh đọc chưa thông, viết chưa thạo. Đây là một trở ngại lớn cho việc dạy học tập làm văn cho các em. Với những học sinh này, yêu cầu đặt từng câu văn rời rạc còn khó, nói gì đến việc hướng dẫn các em đặt một đoạn văn theo cầu. + Trong địa bàn trường tôi, hầu hết học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn, các em vừa học vừa phụ tiếp gia đình công việc đồng áng, mưu sinh. Việc đảm bảo chuyên cần cho những học sinh trung bình, yếu rất khó. Các em rất hay nghỉ học với rất nhiều lí do hoặc nhiều khi chỉ vì “không muốn đến lớp”. Đi học không đều, việc tiếp thu bài của các em chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng rất nhiều. + Kĩ năng làm văn miêu tả của các em học sinh yếu hầu như không có. Các em chưa biết cách quan sát, thực hiện làm một bài văn miêu tả chưa đúng quy trình, chưa biết cách chọn lọc các chi tiết miêu tả đặc sắc để đưa vào bài văn, làm cho bài văn thành “một mớ hỗn độn” của các chi tiết hoặc là thành “một bản liệt kê” với rất nhiều chi tiết. - Với học sinh khá, giỏi, việc dạy học tập làm văn cũng gặp một số tồn tại sau: + Do trong lớp có nhiều đối tượng học sinh nên giáo viên thường sử dụng phương pháp làm mẫu để tạo đà giúp học sinh trung bình, yếu làm văn. Phương pháp này giúp học sinh yếu có thể làm được bài bằng những gợi ý. Tuy nhiên, một số học sinh học được lại thường hay bắt chước các câu, đoạn văn mẫu nên nhiều bài làm có các câu, đoạn giống nhau. + Có sự chênh lệch rất lớn về trình độ của học sinh khá, giỏi và học sinh trung bình, yếu nên giáo viên rất khó sử dụng các phương pháp “hiện đại” để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục. Nếu chú ý đến học sinh khá, giỏi thì sẽ bỏ qua học sinh trung bình, yếu. Nhưng nếu tập trung vào học sinh trung bình, yếu, kiên trì với đối tượng này đạt được yêu cầu bài văn thì lại ảnh hưởng đến sự phát triển của số học sinh khá, giỏi. + Học văn miêu tả, làm văn miêu tả nhưng nhiều học sinh lại thiếu vốn sống thực tế nên dẫn đến một số tình huống hay gặp trong dạy học văn miêu tả như: Học sinh không biết làm bài nên bỏ giấy trắng hoặc làm bài văn rất ngắn- khoảng 4, 5 dòng; các em sử dụng các gợi ý của giáo viên hay sử dụng các đoạn văn mẫu để viết. + Một khó khăn nữa là nhiều học sinh viết chữ chưa đẹp, nếu không nói là rất xấu, sai chính tả. Nhiều bài văn có chữ viết lem nhem, đầy vết bẩn. Với một bài văn đầy lỗi chính tả, tẩy xoá thì việc đọc lại bài, trau chuốt câu văn, sửa ý, sửa từ quả là khó khăn, gian khổ. c) Cha mẹ học sinh: Cha mẹ các em hầu như ít quan tâm đến việc học hành của các em do phải vất vả với việc đồng áng, mưu sinh, do nhận thức chưa đúng về giáo dục, do hiểu biết và trình độ còn hạn chế, II. Một số biện pháp đã áp dụng nhằm giúp học sinh học tốt kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp Năm: 1. Điều tra phân loại học sinh: Giáo viên điều tra, phân loại, nắm chắc từng đối tượng học sinh: năng khiếu, trung bình, học sinh yếu và học sinh cá biết. Nắm chắc được đối tượng học sinh, giáo viên sẽ đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, có những biện pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh. Đồng thời, tạo điều kiện tốt nhất góp phần phụ đạo học sinh yếu biết làm văn miêu tả, có thể vận dụng làm được một bài văn hoàn chỉnh. 2. Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát: Quan sát theo trình tự từ xa đến gần và ngược lại, từ trong ra ngoài, từ bao quát đến chi tiết và ngược lại. Ghi chép những điều đã quan sát được. Tổ chức quan sát từng đối tượng cụ thể. Có thể hướng dẫn quan sát theo nhiều hình thức: quan sát trực tiếp đối tượng (buổi chào cờ đầu tuần, quang cảnh trước buổi học, trong giờ ra chơi, thầy giáo, cô giáo, người thân,); quan sát ở nhà (ngôi nhà em đang ở, buổi sum họp của gia đình, quang cảnh con đường nơi em ở vào buổi sáng, ); quan sát qua báo, đài ( một ca sĩ đang biểu diễn, một danh hài mà em thích, .); 3. Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc với học sinh: - Học sinh tiểu học vùng thuận lợi nói chung có thể viết được những bài văn miêu tả chỉ bằng quan sát qua tranh ảnh, phim,Nhưng đối với học sinh yếu của trường tôi, những đề tài xa lạ là điều cần tránh.. Các em đến trường học tập bằng ngôn ngữ Tiếng Việt tương đối hạn hẹp mà giáo viên lại yêu cầu các em hình dung, tưởng tượng rồi đặt câu, viết một bài văn miêu tả hoàn chỉnh với một đối tượng mà các em chưa nhìn thấy bao giờ thì đúng là điều quá sức đối với các em. Ví dụ: Đề bài trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5- tập 2- trang 134: Tả một khu vui chơi, giải trí mà em thích Với những đề bài như thế này, tôi mạnh dạn thay bằng đề bài khác (thông qua buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ) - Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là không cho học sinh có cơ hội phát huy trí tưởng tượng của mình. Trong một lớp học có nhiều đối tượng học sinh như lớp tôi, khi ra đề bài cho các em, tôi luôn tạo cho các em quyền lựa chọn bằng cách ra nhiều đề bài (từ 2 đến 4 đề) để các đối tượng trong lớp đều có thể tự do chọn đề bài thích hợp cho mình, tránh áp đặt cho các em. Ví dụ: Khi ra đề bài tả người cho các em làm bài kiểm ta viết, tôi chọn bốn đề bài sau: a) Tả một người thân trong gia đình em. b) Tả một người bạn cùng lớp hoặc người bạn thân gần nhà em. c) Tả một ca sĩ hay một nghệ sĩ hài mà em yêu thích. d) Tả thầy giáo hoặc cô giáo mà em kính mến. Với bốn đề bài trên, các em có thể chọn đối tượng miêu tả là một nhân vật quen thuộc, gần gũi. Nhưng với một vài học sinh khác, các em cũng có thể chọn tả ca sĩ đang biểu diễn với rất nhiều chi tiết sống động mà các em đã có dịp quan sát trên ti vi qua các chương trình ca nhạc hoặc phim ảnh. 4. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý: Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước khi làm thành một bài văn hoàn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng. 5. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu: Gợi ý cho học sinh khá, giỏi làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại. Nhưng điểm mấu chốt là giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa chữa từng em, động viên sự sáng tạo của các em, dù là rất nhỏ. Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với đối tượng học sinh trung bình, yếu. Ví dụ: Học bài văn tả người thân, học sinh tả ông nội. Khi gặp một đề văn yêu cầu tả một người hàng xóm, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu tả, bố cục, các biện pháp nghệ thuật đã sử dụng ở đề bài trước để thực hiện làm đề bài thứ hai. Tất nhiên, giáo viên phải giúp học sinh tránh sự sao chép nguyên văn. 6. Cá thể hoá hoạt động dạy học: - Quan tâm đến đối tượng học sinh trung bình, yếu đồng thời vẫn đảm bảo phát triển năng lực cảm thụ văn học đối với học sinh khá, giỏi. Ví dụ: + Bài làm của một học sinh khá, giỏi: Ngoài ngôi nhà thân yêu đã gắn bó với tuổi thơ của em thì trường em chính là ngôi nhà thứ hai. Đi đâu xa, em nhớ nhà và mỗi khi về nhà thì em lại nhớ đến ngôi trường thân yêu này. + Bài của một học sinh trung bình: Nằm cập bên con đường làng trải đá là ngôi trường thân yêu của em. + Bài làm của một học sinh yếu: Mỗi ngày em thường cắp sách đến ngôi trường quen thuộc của em. - Khi học sinh đặt câu nêu cảm nghĩ của mình ở phần kết bài, giáo viên phải quan tâm đến từng em. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho các em bằng những gợi ý như: + Em hãy nói tình cảm của mình đối với ngôi trường (yêu, ghét)? (Em rất yêu ngôi trường). + Em thể hiện tình yêu đó bằng những việc làm như thế nào ? (Em trồng cây, chăm sóc bồn hoa để trường em ngày càng đẹp hơn hay Em không bao giờ phá phách làm hỏng đồ đạc hay bẻ hoa của nhà trường) - Tuyệt đối không được hướng dẫn học sinh một cách đồng loạt để các em có những câu văn nghĩa chung chung như: “Cô giáo em có mái tóc đen huyền, mượt như nhung. Đôi mắt cô đen trong và sáng long lanh. Nước da của cô trắng mịn màng” hay “ Trường em mái ngói đỏ tươi. Cột cờ cao chót vót. Trên đỉnh cột cờ, lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Giờ ra chơi, các bạn ùa ra khỏi sân lớp như bầy ong vỡ tổ” Phải hướng dẫn để học sinh tìm ra những nét đặc sắc của cảnh. Những nét đặc sắc đó giúp người đọc hình dung được cảnh vật cụ thể mà không lẫn lộn với cảnh vật khác. Ví dụ: Để hướng dẫn học sinh tả ngôi trường thân yêu, tôi cho học sinh quan sát, tìm ý và chọn những chi tiết mà chỉ trường tôi mới có: “ Ngôi trường của em không giống bất cứ một ngôi trường tiểu học nào. Đó là một ngôi trường kiên cố nằm ven con kinh nhỏ và cặp cánh đồng lúa rộng bát ngát. Mùa nào cũng vậy, ngôi trường luôn nhận được những làn gió mát từ mặt kinh và cánh đồng đưa tới. Đây là ngôi trường thân yêu đã được xây dựng từ rất lâu rồi”. 7. Chấm bài thường xuyên: Đi đôi với công việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải giúp các em phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa hay, chưa đạt để sửa chữa trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải sửa lại bài làm của mình cho hay hơn, đúng hơn. Giáo viên cần tránh việc chê bai các em nhưng cũng không được lạm dụng lời khen, tạo sự thờ ơ của học sinh đối với lời khen do được khen quá nhiều, khen không đúng lúc. Kiểu như mỗi lần các em nói xong, nhiều lúc chỉ là nhận xét bạn đã viết hoa đầu câu chưa, giáo viên đều nhận xét “Em giỏi lắm!”. 8. Làm giàu vốn từ cho học sinh: Nếu học kiểu bài kể chuyện, học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện đã nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả đòi hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất phong phú, đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ” được một cảnh, một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống. Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả mái tóc (vàng hoe, đen nhánh, bạc phơ, cháy nắng, óng ả, xoăn tít,); khuôn mặt (bầu bĩnh, vuông chữ điền, trái xoan, khắc khổ,); nước da ( trắng trẻo, trắng hồng, ngăm ngăm, bánh mật, đen sạm,); dáng người ( nhỏ nhắn, gầy gò, đẫy đà, to khoẻ, cao cao,); nụ cười ( khanh khách, sằng sặc, mủm mỉm, ha hả,). Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát người bạn), quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách, nhất là qua các phân môn của Tiếng Việt hoặc các môn học khác và qua hình thức trò chơi, 9. Giúp học sinh luyện viết câu: - Trước hết, mọi học sinh phải viết được câu văn đúng ngữ pháp. Đây là yêu cầu cơ bản (vì câu là đơn vị lời nói). Đối với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh, tạo được sắc thái riêng của đối tượng miêu tả. Đối với học sinh trung bình, yếu, giáo viên hướng dẫn học sinh đặt được câu đúng, thể hiện được ý cần nói. Ví dụ: Miêu tả mái tóc của một bạn: + Với học sinh yếu: Tóc bạn Loan đen huyền. + Với học sinh trung bình: Bạn Loan có mái tóc đen huyền, dài ngang vai. + Với học sinh khá, giỏi: Loan có mái tóc đen huyền, óng ả, xoã ngang vai mà không thể lẫn lộn với bất cứ bạn nào trong lớp được. - Biết dùng dấu câu đúng, nhất là dấu chấm và dấu phẩy. Ngắt câu đúng sẽ diễn đạt rõ ràng, người đọc, người nghe dễ dàng tiếp nhận thông tin. Việc dạy cho các em sử dụng đúng dấu câu đã được tiến hành từ các lớp dưới và phải được thường xuyên ôn luyện. Giáo viên đưa ra các trường hợp sử dụng dấu câu chưa đúng để cả lớp nhận xét. Ví dụ: + Trong lớp em ai cũng mến bạn Loan. + Cột cờ cao chót vót lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay. + Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng cây phượng. Học sinh trao đổi, sửa chữa: + Trong lớp em, ai cũng mến bạn Loan. + Cột cờ cao chót vót, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới tung bay. + Sân trường mát rượi bởi bóng của những cây bàng, cây phượng. 10. Hướng dẫn học sinh tích luỹ vốn kiến thức văn học: Tích luỹ văn học là điều kiện tối thiểu để học tốt môn Tiếng Việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học sinh sử dụng sổ tay chính tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc lỗi chính tả đã được sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp tích cực để giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học dùng cho các em ghi chép các ý hay, các câu, đoạn văn hay. Việc ghi chép này không nhất thiết để cho học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước hết, qua mỗi lần ghi chép, các em sẽ được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng trong bài làm. 11. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một đoạn văn: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một đoạn văn được thầy cô tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái đẹp, các em sẽ hình thành được những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm văn tốt hơn, nhất là văn miêu tả. Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên hướng dẫn các em hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay quanh nội dung đoạn văn. Kết quả học sinh có thể tự đặt các câu hỏi như: + Đoạn văn này miêu tả đặc điểm gì của nhân vật ? + Đoạn văn này dùng những từ láy nào để miêu tả hình ảnh của nhân vật ? + Có thể dùng những hình ảnh so sánh nào cho đoạn văn ?... 12. Rèn kĩ năng sắp xếp, diễn đạt ý: Đề bài: Hãy miêu tả một người bạn thân của em. Học sinh quan sát, viết nhanh ra giấy những điều mà mình quan sát được. Ví dụ: + Bạn Thu Nga học chung lớp với em. + Bạn chơi thân với em từ năm học lớp Một. + Chúng em rất thân nhau. + Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu. + Những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. + Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê. + Bạn hay phát biểu và hiểu bài rất nhanh nên được thầy và các bạn khen ngợi. + Bạn rất hay cười. + Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn. + Bằng tuổi với em nhưng cao hơn em một cái đầu. + Nga viết chữ rất đẹp. Bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba. + Mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương. + Bạn không gây gỗ với ai bao giờ. + Thầy cô thường lấy bạn để làm gương. Sau khi tìm ý, cho các em chọn và sắp sếp ý thành các đoạn Mở bài, Thân bài, Kết bài phù hợp. Ví dụ: * Đoạn mở bài: Em và bạn Thu Nga chơi thân với nhau từ năm lớp Ba. Chúng em rất thân nhau. Đi học, em thường đi chung với bạn. * Đoạn thân bài: Bằng tuổi với em cao hơn em một cái đầu. Bạn có nước da ngăm ngăm của một người con gái đồng quê quen dầm mưa dãi nắng. Bạn rất hay cười, mỗi khi bạn cười, hai lúm đồng tiền trên má hiện rõ trên khuôn mặt ngăm đen dễ thương. Thu Nga có đôi mắt to rất đẹp với hàng lông mi dài, cong. Đôi mắt bạn luôn ánh lên ra vẻ hồn nhiên, chất phác. Mái tóc bạn không đen như tóc em nhưng dài hơn. Nga viết chữ rất đẹp, bạn đã được chọn dự thi viết chữ đẹp vòng trường và đạt giải ba. Thầy thường lấy bạn ra làm gương cho chúng em noi theo để rèn chữ. Ở lớp, thầy thường khen bạn hiểu bài rất nhanh. Em chưa thấy bạn gây gỗ với ai bao giờ. * Đoạn kết bài: Mỗi khi vắng Thu Nga, nhất là những ngày bạn nghỉ học, em cảm thấy rất nhớ. Em sẽ cố gắng làm những điều thật tốt để tình bạn của chúng em mãi mãi bền lâu. Giáo viên cần lưu ý cho học sinh mục đích của từng đoạn văn. Đoạn mở bài có tác dụng giới thiệu cho người đọc, người nghe biết xuất xứ nhân vật. Đoạn thân bài là bức tranh vẽ bằng lời về hình dáng, đường nét, cử chỉ, hoạt động, tính nết của nhân vật. Có chọn được những chi tiết đặc sắc, tiêu biểu thì ta mới nhận ra nhân vật đó mang những cá tính riêng. Bạn học sinh trong bài là một học sinh vùng nông thôn với những đặc điểm riêng, cá tính riêng không lẫn lộn với bất cứ bạn học sinh nào khác. Đoạn kết bài mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Không thể có đoạn kết bài chung cho mọi học sinh. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh nêu được cảm xúc tự nhiên, chân thật, không sáo rỗng kiểu như: Em rất yêu quý bạn III. Kết quả: Sau một năm học thực hiện, theo nhận định của bản thân, chất lượng học tập kiểu bài miêu tả trong phân môn Tập làm văn của lớp tôi có sự chuyển biến rõ rệt- theo nhận xét của Ban Giám Hiệu nhà trường. Cụ thể, kết quả khảo sát trong năm học 2010- 2011 và 2011- 2012 như sau: * Năm học 2010- 2011: Sĩ số lớplà 28 học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Giữa HKI 3 10,7 8 25 13 51,8 4 12,5 Cuối HKI 5 17,8 9 32,1 11 39,4 3 10,7 Cuối năm 8 25 10 37,5 10 37,5 0 0 * Năm học 2011- 2012: Sĩ số lớplà 25 học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Giữa HKI 1 4 7 28 12 48 5 20 Cuối HKI 3 12 8 32 11 44 3 12 Cuối năm 6 24 10 40 9 36 0 0 I. Mức độ, phạm vi tác dụng của sáng kiến kinh nghiệm: Sau một thời gian áp dụng vào thực tế giảng dạy ở lớp Năm, qua các kết quả kiểm tra cho thấy, đề tài đã thu được một số kết quả nhất định. Học sinh có những chuyển biến rõ rệt trong việc học kiểu bài miêu tả của chương trình Tập làm văn lớp Năm. Đồng thời, bản thân tôi cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm như sau: 1. Trước hết, người thầy phải luôn có lòng yêu nghề , yêu người, có ý thức trách nhiệm và tinh thần cầu tiến, không ngừng học hỏi và mạnh dạn áp dụng những cái mới vào trong thực tiễn giảng dạy. 2. Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của người giáo viên tiểu học là phải nắm vững đối tượng học sinh, hiểu rõ trình độ và năng lực, hoàn cảnh và sở thích của từng em cũng như tâm sinh lí lứa tuổi các em. Phân loại được học sinh, người thầy mới có thể áp dụng những phương pháp dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh, từng cá thể học sinh. 3. Giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu, dự giờ đồng nghiệp, tham dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên mônđể nắm bắt những thông tin về nội dung, phương pháp của chương trình môn Tiếng Việt. Từ đó, giáo viên mới có thể lập một kế hoạch bài học cho mình một cách khoa học, có sự tích hợp giữa kiến thức các môn học với nhau. 4. Dạy tập làm văn theo quan điểm tích hợp kiến thức, kĩ năng giữa bài trước với bài sau, giữa các phân môn Tiếng Việt với nhau, giữa lớp dưới với lớp trên. 5. Sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nhằm khuyến khích học sinh bộc lộ trí tuệ và cảm xúc của mình trong các ngôn bản mà các em tạo lập như: - Phương pháp phân tích ngôn ngữ: Trên cơ sở các văn bản mẫu, học sinh khai thác, nhận biết kết cấu bài văn, trình tự miêu tả. - Phương pháp trực quan: Học sinh phải được quan sát đối tượng miêu tả. Các em có quan sát đối tượng trên thực tế ở lớp hoặc ở nhà, quan sát qua phim ảnh. Vận dụng công nghệ thông tin trong dạy học, tạo điều kiện cho các em quan sát những đối tượng mà ở địa phương không có để mở rộng hiểu biết cho các em. - Phương pháp rèn luyện theo mẫu: Dựa vào văn bản mẫu, học sinh tạo lập các văn bản mới theo nét riêng của các em. - Phương pháp thực hành giao tiếp: Tạo điều kiện cho mọi đối tượng học sinh được trình bày sản phẩm của mình, được tranh luận để tìm ra cái mới. II. Kiến nghị: Với những kết quả ban đầu thu được sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nhiệm “Một số phương pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Năm”, tôi đề nghị Nhà trường tổ chức khảo nghiệm và có ý kiến góp ý, chỉ đạo để tôi tiếp tục hoàn chỉnh đề tài, góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt nói riêng, chất lượng học tập cho học sinh lớp Năm nói chung. Người viết
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_ren_ki_nang_lam_van.doc