Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh làm tốt các dạng bài tập Luyện từ và câu - Lớp 4
Ở bậc học tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong số những môn học có vị trí rất quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường. Kỹ năng sử dụng tiếng Việt là nền tảng hình thành khả năng giao tiếp trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, trong môi trường hoạt động lứa tuổi, đồng thời nó là cơ sở để phát triển tư duy cho học sinh để tiếp thu các môn học khác.
Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.
Khi chưa đến trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của xã hội đối với những thành viên của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu, đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Nhờ có ngôn ngữ con người có khả năng tư duy. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng với phân môn Tập đọc, Tập làm văn.song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm “đầu tư” cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học! - Nam phải đi học! - Nam hãy đi học! Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm các từ đi, phải, hãy ứng với lời yêu cầu ở mức nặng - nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu. - Nam đi học đi ! (yêu cầu nhẹ nhàng) - Nam phải đi học! ( yêu cầu bắt buộc) - Nam hãy đi học đi! ( yêu cầu mang tính ra lệnh) Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét. Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm các từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ... và cuối câu dùng dấu chấm than (!). 4. Câu cảm: (câu cảm thán) Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau xót, ngạc nhiên...) của người nói. Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm, thật...Khi viết câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!). Ví dụ : Đặt câu cảm cho các tình huống sau: a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự thán phục. b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng. Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống, một bạn nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung. a. Ôi, bạn giỏi quá! b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn! Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cảm nhận để các bạn nhận xét. d. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu. Dạng bài tập: - Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu. - Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu. Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu: a................, em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình b................, em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu. c................., hoa đã nở. Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4 cũ không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức khó khăn hơn. Còn đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ), mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình tại đâu? Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể. Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản. Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc. Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống: a).............., xã em vừa đào một con mương. b).............., chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt. c)..............., em phải năng tập thể dục. Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì? Quyết tâm..........tốt để dành được gì? Tập thể dục có lợi gì? Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập: Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau - Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ. - Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên những bức tranh làng Hồ nổi tiếng. Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ “bằng, với và trả lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì? Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và nêu miệng trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?. Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp 4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận. Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và không thể thiếu trong quá trình giảng dạy. Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh. Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức cho học sinh làm các dạng bài tập “Luyện từ và câu.” Trải qua một học kỳ ôn tập cùng thời gian áp dụng phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4 do tôi chủ nhiệm. III. Biện pháp 3: Sử dụng trò chơi học tập để giúp học sinh làm các bài tập Luyện từ và câu. Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích trước tiên và chủ yếu là vui chơi, giải trí, thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng, mệt mỏi. Nhưng qua trò chơi, người chơi có thể được rèn luyện thể lực, các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi người, cùng hợp tác với bạn bè đồng đội trong nhóm, trong tổ. Bước vào trường, trẻ làm quen với hoạt động học tập, một loạt hoạt động được chương trình hóa với những yêu cầu chính rất cao. Vậy nếu sử dụng hình thức trong trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy, trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở lên thoải mái, dễ chịu, tiếp thu bài của HS tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Mục đích của trò chơi học tập: không chỉ nhằm giải trí mà còn nhằm góp phần củng cố tri thức, kĩ năng học tập cho học sinh. Nội dung trò chơi học tập gắn với tri thức và kĩ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức kĩ năng nào đó. Vậy khi sáng tạo trò chơi học tập giáo viên cần dựa vào kiến thức kĩ năng của phân môn, môn học cần củng cố để xây dựng trò chơi. Luật chơi: Trò chơi học tập có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho huấn luyện. Ví dụ: Thi Ai nhanh ai đúng Trò chơi: Tiếp sức Trò chơi: Đi tìm đồng đội Trò chơi: Truyền điện 1. Trò chơi: Ai nhanh ai đúng Trong một thời gian cố định, 2 đội (5 đến 6 người) thi tìm nhanh từ phù hợp với chủ điểm, nội dung cho trước. Sau đó kiểm tra: Giáo viên, học sinh làm trọng tài. 2. Trò chơi: Tiếp sức - Tìm từ, điền từ... Diễn ra 2 nhóm, khi có hiệu lệnh xuất phát, từng em lần lượt thay nhau lên bảng tìm từ, điền từ. Sau đó kiểm tra, đội nào làm đúng, tìm nhiều từ là thắng. Ví dụ: Thi tìm nhanh từ chỉ đặc điểm. 3. Trò chơi: Truyền điện Hai đội (5 người/1 đội), (2 đội) cùng tham gia. Đội 1 nêu 1 từ chỉ sự vật, đội 2 nêu 1 từ khác chỉ đặc điểm của sự vật đó. Nếu đúng được đố ngược lại. 4. Trò chơi: Đi tìm đồng đội Một, hai học sinh cầm chủ điểm. Số học sinh còn lại cầm bảng ghi từ. Sau hiệu lệnh 2 phút các từ tìm về đúng chủ điểm của mình. Kiểm tra nhận xét. C. Kết quả nghiên cứu đạt được. Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng luyện tập thực hành về các dạng bài tập “Luyện từ và câu” lớp 4 tôi thấy kết quả của việc làm đó như sau: - Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả. - Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách chủ động. - Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên. - Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài. - Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý. Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình. - Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận phân môn “Luyện từ và câu” bất kỳ lúc nào. Đó cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình. Sau khi tôi áp dụng đề tài vào giảng dạy, tôi thu được kết quả như sau: Phân loại Lớp Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành SL % SL % SL % 4D (58HS) 30 52 22 38 6 10 Kết quả cho thấy: Khi tôi áp dụng những kinh nghiệm trong đề tài vào giảng dạy thì kết quả thu được khả quan hơn, khả năng vận dụng kiến thức của học sinh có tiến bộ hơn, số học sinh chưa hoàn thành đã giảm đi rõ rệt. Nhờ áp dụng các biện pháp trên, trước đây các em chưa hiểu nghĩa từ, vận dụng từ còn sai, đặt câu còn khô khan, rời rạc, chưa đủ ý hoặc dài dòng. Đến cuối năm, các em đã tiến bộ, hiểu nghĩa của từ theo từng chủ điểm mở rộng hơn, biết giải nghĩa từ, biết vận dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp cụ thể. Các em đã biết dùng từ hay, giàu hình ảnh, biết phát hiện câu viết chưa đúng. Đặc biệt các em đã biết vận dụng để làm các bài văn hay. - Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi dưỡng những học sinh khá, giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập “Luện từ và câu” cho học sinh của mình. D. Bài học kinh nghiệm. Dạy học các dạng bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 giúp học sinh nắm được kiến thức trong phân môn “Luyện từ và câu” cung cấp: Học sinh hiểu được từ mới, phát triển kĩ năng, kỹ xảo sử dụng từ ngữ, học sinh còn biết nhận diện xác định các dạng bài tập, phân tích kỹ, chính xác yêu cầu của đề bài, từ đó có hướng cho hoạt động học tập của mình. Để đạt được các điều đó, người giáo viên cần chú ý: - Trong quá trình giảng dạy giáo viên không nên nóng vội, mà phải bình tĩnh trong thời gian không phải ngày 1 ngày 2. Đặc biệt luôn xem xét phương pháp giảng dạy của mình để điều chỉnh phương pháp sao cho phù hợp với việc nhận thức của học sinh, gây được hứng thú học tập cho các em. - Phải nghiên cứu để nhận thức rõ về vị trí, nhiệm vụ của phần kiến thức vừa dạy. - Lưu ý chương trình giảm tải đề điều chỉnh sao cho phù hợp với đặc điểm học sinh lớp mình, đề ra hướng giải quyết cho việc cân chỉnh thống nhất giảm tải. - Không ngừng học hỏi trao đổi với đồng nghiệp để nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy và học nhằm nâng cao chất lượng. Trong giảng dạy, giáo viên không được áp đặt học sinh mà coi nhiệm vụ học của học sinh là quan trọng, là nhân tố chủ yếu cho kết quả giáo dục. Luôn gợi mở khám phá tìm tòi biện pháp tốt nhất cho học sinh nắm chắc kiến thức. Rèn cho học sinh cách tư duy thông minh, sáng tạo, làm việc độc lập, nâng cao kết quả tự học của mình: Tạo cho học sinh có niềm vui trong học tập, có hứng thú đặc biệt trong học tập. Giáo viên luôn luôn giải quyết tình huống vướng mắc cho học sinh. - Giáo viên phải tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ những điều đơn giản mới đến nâng cao, khắc sâu...Để học sinh nắm vững việc giải quyết các bài tập “Luyện từ và câu”, giáo viên cũng cần lưu ý điểm sau: + Tìm ra phương pháp tổ chức sao cho phù hợp với từng dạng bài tập. + Phân biệt cho học sinh hướng giải quyết cho các dạng bài khác nhau. Học sinh cần nắm được các bước tiến hành một bài tập. Cần tổ chức cho học sinh theo các hình thức tổ chức có thể theo nhóm, cá nhân, có thể làm việc cả lớp để phát huy tốt hiệu quả giờ dạy. - Lưu ý cho học sinh cách trình bày sạch sẽ, khoa học, rèn chữ viết đẹp đúng chính tả cho học sinh. TRƯỜNG TIỂU HỌC TRUNG TỰ Lớp: 4D Giáo viên: Phí Thị Hồng Huệ Ngày dạy: 18/10/2018 KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY Phân môn: Luyện từ và câu Mở rộng vốn từ: Ước mơ I. MỤC TIÊU: 1. Kiến thức: - Mở rộng vốn từ về thuộc chủ điểm: Trên đôi cánh ước mơ. - Hiểu được nghĩa của các từ thuộc chủ điểm. - Vận dụng tốt từ ngữ thuộc chủ điểm trong nói và viết. 2. Kĩ năng: - Rèn HS có kĩ năng tìm từ đặt câu. - Rèn kĩ năng phân tích, trình bày, thảo luận nhóm cho HS. 3. Thái độ: - HS yêu thích môn Tiếng Việt, tích cực tham gia các hoạt động học tập. II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC 1. Giáo viên: - Giáo án điện tử. - Phiếu thảo luận nhóm. 2. Học sinh: SGK, vở Tiếng Việt. III. CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC CHỦ YẾU: TG Nội dung Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh 1’ I. Ổn định tổ chức - GV kiểm tra việc chuẩn bị bài học. - Lớp trưởng trả lời 30-36’ II. Bài mới - GV giới thiệu bài, ghi bảng. - GV giới thiệu các yêu cầu chính trong tiết học hôm nay. 6’ Bài tập 1: - GV gọi 1 bạn đọc yêu cầu BT1 - 1HS đọc. * Mục tiêu: Tìm từ đồng nghĩa với từ “Ước mơ”. - GV cho HS đọc bài tập đọc. - 1HS đọc. - GV hỏi nội dung bài tập đọc. ? Nêu lại nghĩa của từ “ước mơ” cho cô. - GV gọi HS nhắc lại thế nào là từ cùng nghĩa. - GV cho HS thảo luận nhóm đôi để làm bài tập 1. - HS trả lời. - HS nêu. - HS trả lời. - HS thảo luận nhóm đôi. - GV gọi các nhóm trả lời. - Các nhóm trả lời - GV kết luận, chốt đáp án. ? Con hiểu “mơ tưởng” nghĩa là gì? - HS trả lời. ? Theo anh bộ đội các em thiếu nhi có quyền mơ tưởng điều gì? - HS trả lời. ? Thế nào là “mong ước”? - HS trả lời. ? 3 từ này có nét nghĩa nào giống nhau? - HS trả lời. * GV chốt kiến thức ở bài 1. - Chuyển ý, giới thiệu bài tập 2. 8’ Bài tập 2: - GV gọi 1HS đọc yêu cầu bài tập 2. - 1HS đọc * Mục tiêu: Mở rộng tìm thêm các từ cùng nghĩa với từ “Ước mơ” ? Bài tập 2 có mấy phần? - HS trả lời. - GV giới thiệu tiếp về sơ đồ tư duy. - GV cho HS thảo luận nhóm. - GV chốt các đáp án đúng. - HS thảo luận nhóm - HS lắng nghe. ? Các từ vừa tìm được ở bài tập 1 và 2 là từ ghép hay từ láy? Vì sao? - HS trả lời - GV chốt, chuyển ý sang bài tập 3 8’ Bài tập 3: * Mục tiêu: Ghép đúng các cụm từ sau từ “Ước mơ” để thể hiện sự đánh giá. - GV mời một bạn đọc yêu cầu bài tập 3. - HS đọc - GV đưa thêm sơ đồ tư duy của nhánh 2. - Bài tập lưu ý gì về vị trí của từ thể hiện sự đánh giá. - GV cho HS đọc các cụm từ ghép được. - GV gắn 8 thẻ ghi 8 cụm từ lên bảng. - HS trả lời. - 2HS đọc. - GV giúp HS hiểu nghĩa một số cụm từ bằng cách hỏi đáp. - HS lắng nghe và trả lời. - GV cho HS làm bài vào vở. - GV cho HS hiểu rõ hơn cách đánh giá các ước mơ bằng cách đưa các câu hỏi gợi mở. * GV chốt, chuyển ý sang bài tập 4 7’ Bài tập 4 - GV mời một bạn đọc yêu cầu bài tập 4. - HS đọc. * Mục tiêu: Nêu ví dụ minh họa về một loại ước mơ. - GV đưa nhánh 3 của sơ đồ tư duy. - GV cho HS làm bài 4 bằng cách cho một HS đóng vai phóng viên để các bạn cùng tham gia thảo luận nói lên ước mơ của mình và đưa ra các đánh giá, nhận xét. - HS tham gia - GV có thể bổ sung, nhận xét thêm cho HS. * GV chốt, chuyển ý sang bài tập 5. 7’ Bài tập 5 - GV gọi HS đọc yêu cầu bài. - 1HS đọc * Mục tiêu: Tìm hiểu các thành ngữ. - GV đưa nhánh 4 của sơ đồ tư duy. - GV cho HS chơi trò chơi “Ngôi nhà ước mơ” - HS chơi. - GV có thể hỏi thêm về ý nghĩa các thành ngữ và cách sử dụng. - HS trả lời 2-4’ III. Củng cố, dặn dò - Nếu còn thời gian GV có thể cho HS xem một đoạn phim nói về một bạn nhỏ có một ước mơ thật đẹp. - HS xem và nêu cảm nghĩ của mình. - GV kết thúc bài học. - GV dặn dò bài sau. IV. RÚT KINH NGHIỆM BỔ SUNG: ....................................................................................................................................................... ....................................................................................................................................................... ....................................................................................................................................................... PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Việc dạy các bài tập “Luyện từ và câu” cho học sinh lớp 4 là vấn đề hết sức nan giải vì thời gian có hạn và năng lực trình độ bản thân còn nhiều hạn chế nên tôi mới chỉ nghiên cứu được tìm ra phương pháp tổ chức một giờ dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu”. Phần nghiên cứu có thể chưa sâu, chưa sát, tôi thiết nghĩ nếu chỉ nghiên cứu trong phạm vi của đề tài này thì chưa đủ vì thế trong tương lai nếu có điều kiện tiếp tục nghiên cứu, tôi hứa sẽ nghiên cứu hoàn thiện hơn. - Đề tài này chỉ có thể áp dụng, vận dụng trong phạm vi ở tiết “Luyện từ và câu” của học sinh lớp 4. I. Những hạn chế: Nếu không được giáo viên gợi mở, đề ra phương pháp tổ chức cụ thể cho từng dạng bài thì học sinh sẽ rất ngại học môn này và không hiểu bản chất của các bài tập cần khai thác cái gì. Các học sinh lớp 4 tầm nhận thức còn hạn chế, thời gian dành cho tiết bài tập còn ít nên việc rèn cho học sinh có kĩ năng kĩ xảo còn chưa đầy đủ và hệ thống. II. Kiến nghị. Dạy các dạng bài tập “Luyện từ và câu” là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư duy văn học cho học sinh. Muốn vậy: * Đối với học sinh: Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn lên trong học tập, đó chính là gia đình - nhà trường xã hội. * Đối với giáo viên: Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách vở và từ chính học sinh. + Giáo viên cần nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi kích thích hứng thú học tập và nâng cao ý thức tự giác của học sinh. + Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh, lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài. + Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi. + Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh. * Đối với nhà trường và các cấp quản lý: Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập nâng cao kiến thức. + Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn. + Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao trong giảng dạy và học tập. + Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Do khuôn khổ của một sáng kiến kinh nghiệm và vì điều kiện thời gian có hạn nên trong đề tài này tôi mới đi sâu tìm hiểu một số dạng bài tập luyện từ và câu cụ thể nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học. Chắc chắn đề tài sẽ còn một số khiếm khuyết, tôi rất mong nhận được sự góp ý của các đồng nghiệp để chúng ta có hướng giải quyết tiếp theo cho việc nâng cao chất lượng dạy và học phân môn “Luyện từ và câu” nói riêng và phân môn Tiếng Việt nói chung, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện. Tôi xin chân thành cảm ơn. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Hà Nội, ngày 14 tháng 3 năm 2019 NGƯỜI THỰC HIỆN Phí Thị Hồng Huệ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lê Hữu Tỉnh (Chủ biên), Xuân Thị Nguyệt Hà, Dương Thị Hương, Rèn kĩ năng cảm thụ văn học qua các bài tập đọc lớp 4, NXB Giáo dục. 2. Ngô Lê Hương Giang, Trần Thảo Linh, Kiến thức cơ bản và nâng cao Tiếng Việt 4, (tập 1 + 2), NXB Đà Nẵng. 3. Ngô Trần Ái, Nguyễn Qúy Thao, Để học tốt Tiếng Việt 4 (tập 1, 2), NXB Giáo Dục và Thời đại. 4. Phạm Văn Công, 10 chuyên đề Bồi dưỡng học sinh giỏi Văn, Tiếng Việt 4, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 5. Phương pháp dạy học các môn học ở lớp 4 (tập 2), NXB Giáo dục. 6. Sách Tiếng Việt lớp 4 (tập 1+ 2). 7. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 4 (tập 1), NXB Giáo dục. 8. Tham khảo một số bài, kinh nghiệm của các đồng nghiệp.
File đính kèm:
- Tieng Viet 4 Hue THTrungTu.doc.doc