Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giảng dạy công nghệ 11 ở trường THPT
Quá trình dạy và học bao gồm hai hoạt động có liên quan mật thiết với nhau, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Trong đó học sinh vừa là khách thể, vừa là chủ thể của quá trình dạy học. Việc xác định và khẳng định vị trí chủ thể là yếu tố rất quan trọng, quyết định sự thành công của một tiết dạy. Nói cách khác đó là sự kết hợp đồng bộ theo định hướng mới và thể hiện cụ thể là phương pháp dạy học môn Công nghệ 11.
Công nghệ là môn học có tính áp dụng thực tiễn cao, do đó trong quá trình giảng dạy giáo viên phải ưu tiên phát huy tính tích cực của học sinh như phương pháp trực quan, phương pháp thực hành kết hợp phương pháp dùng lời với hình thức hỏi - đáp. Mặc dù vậy, với cấu trúc sách giáo khoa: Nội dung kiến thức có sẵn, không ít giáo viên và học sinh trong giờ chỉ nhắc lại kiến thức sẵn có, nếu giáo viên có mở rộng hoặc giải thích thêm thì cũng đơn giản, nhiều khi còn trùng lặp dẫn đến tình trạng giáo viên thuyết trình là chủ yếu, học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, thiếu tính tích cực trong học tập. Kết quả là chất lượng, hiệu quả tiết dạy chưa cao, học sinh không có hứng thú học tâp.
Do vậy giáo viên phải hiểu rõ các đặc điểm về tâm sinh lý của học sinh khối 11, mong muốn được tự khẳng định mình, ưa thích hoạt động chủ động, tự quản, có năng lực tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát cao, có tiềm năng năng động và sáng tạo trong học tập cũng như trong mọi lĩnh vực khác nếu được hướng dẫn tốt. Các em đã làm quen với những tri thức vẽ kỹ thuật, cơ khí máy và các ứng dụng của động cơ đốt trong trong thực tiễn từ kiến thức THCS đến THPT. Những tri thức này có thể bị rơi vãi nhưng nếu có khai thác định huớng đúng phương pháp thì học sinh dễ dàng nhớ lại.
Trong quá trình học tập trong và ngoài nhà trường cũng như lớn lên trong gia đình và các ứng dụng trong đời sống xã hội. Trên cơ sở nội dung bài giảng đã được nghiên cứu một cách nhuần nhuyễn, giáo viên có thể mạnh dạn nâng cao vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập môn Công nghệ với những dự kiến có định hướng tạo điều kiện cho học sinh tham gia xây dựng bài có chất lượng cao.
PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ Công nghệ là một trong ngành khoa học mũi nhọn ở Thế kỷ XXI, đang được sự quan tâm của toàn xã hội.Trong công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực nghiên cứu các công trình về cơ khí, về bản vẽ kỹ thuật.. đã đạt được những thành tựu đáng kể. theo tinh thần đổi mới PPDH theo xu hướng tích cực, chuyển từ phương pháp “Thầy chủ đạo, trung tâm – trò tiếp thu ghi nhận ” sang phương pháp “ Thầy định hướng - Trò là trung tâm, trò tự tìm ra nội dung kiến thức ”. Bộ môn Công nghệ không thể ở lại phía sau sự đổi mới đó. Hơn thế nữa, để giúp học sinh có lòng say mê, yêu thích môn công nghệ thì PPDH theo hướng tích cực sẽ giúp người Thầy thực hiện được ý định của mình. Đó là lý do tôi chọn đề tài cho bài sáng kiến kinh nghiệm này là: “Một số kinh nghiệm giảng dạy công nghệ 11 ở trường THPT”. 1/ CƠ SỞ THỰC TIỄN: Quá trình dạy và học bao gồm hai hoạt động có liên quan mật thiết với nhau, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh. Trong đó học sinh vừa là khách thể, vừa là chủ thể của quá trình dạy học. Việc xác định và khẳng định vị trí chủ thể là yếu tố rất quan trọng, quyết định sự thành công của một tiết dạy. Nói cách khác đó là sự kết hợp đồng bộ theo định hướng mới và thể hiện cụ thể là phương pháp dạy học môn Công nghệ 11. Công nghệ là môn học có tính áp dụng thực tiễn cao, do đó trong quá trình giảng dạy giáo viên phải ưu tiên phát huy tính tích cực của học sinh như phương pháp trực quan, phương pháp thực hành kết hợp phương pháp dùng lời với hình thức hỏi - đáp. Mặc dù vậy, với cấu trúc sách giáo khoa: Nội dung kiến thức có sẵn, không ít giáo viên và học sinh trong giờ chỉ nhắc lại kiến thức sẵn có, nếu giáo viên có mở rộng hoặc giải thích thêm thì cũng đơn giản, nhiều khi còn trùng lặp dẫn đến tình trạng giáo viên thuyết trình là chủ yếu, học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, thiếu tính tích cực trong học tập. Kết quả là chất lượng, hiệu quả tiết dạy chưa cao, học sinh không có hứng thú học tâp. Do vậy giáo viên phải hiểu rõ các đặc điểm về tâm sinh lý của học sinh khối 11, mong muốn được tự khẳng định mình, ưa thích hoạt động chủ động, tự quản, có năng lực tư duy phân tích, tổng hợp, khái quát cao, có tiềm năng năng động và sáng tạo trong học tập cũng như trong mọi lĩnh vực khác nếu được hướng dẫn tốt. Các em đã làm quen với những tri thức vẽ kỹ thuật, cơ khí máy và các ứng dụng của động cơ đốt trong trong thực tiễn từ kiến thức THCS đến THPT. Những tri thức này có thể bị rơi vãi nhưng nếu có khai thác định huớng đúng phương pháp thì học sinh dễ dàng nhớ lại. Trong quá trình học tập trong và ngoài nhà trường cũng như lớn lên trong gia đình và các ứng dụng trong đời sống xã hội. Trên cơ sở nội dung bài giảng đã được nghiên cứu một cách nhuần nhuyễn, giáo viên có thể mạnh dạn nâng cao vai trò chủ thể của học sinh trong quá trình học tập môn Công nghệ với những dự kiến có định hướng tạo điều kiện cho học sinh tham gia xây dựng bài có chất lượng cao. 2/ CƠ SỞ LÝ LUẬN. Phương pháp dạy học là cách thực làm việc của học sinh và giáo viên do giáo viên chỉ đạo, nhờ đó mà học sinh lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, hình thành nhân cách và phát triển năng lực nhận thức. Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hoạt động tích cực của học sinh là hướng vào nhu cầu, khả năng hứng thú của học sinh , chú trọng vào kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, năng lực giải quyết vấn đề. Giáo viên có nhiệm vụ dẫn dắt, cung cấp tài liệu để học sinh rút ra kết luận. Như vậy, vai trò của người thầy không bị lu mờ mà trái lại còn có vị trí cao hơn ( chủ đạo) giáo viên phải suy nghĩ nhiều hơn về cách hướng dẫn học sinh khai thác tri thức, giúp học sinh chủ động tìm ra nguồn tri thức qua thông tin SGK, số liệu, tranh ảnh, mô hình, mẫu vật, thí nghiệm. Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhu cầu bức thiết phục vụ mục tiêu đào tạo con người mới, có những phẩm chất mới: nhanh nhạy, xử lý thông minh mọi tình huống đáp ứng được nhiệm vụ chính trị công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I/ ĐỊNH HƯỚNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC: Công nghệ là một môn khoa học mới ở trường phổ thông, do đó kết quả của quá trình dạy học lại càng phụ thuộc vào sự giảng dạy của giáo viên . Hệ thống tri thức được thể hiện chủ yếu qua các khái niệm mang tính trực quan logic và hệ thống các thí nghiệm – thực hành Chương trình cải cách mông Công nghệ chú trọng đến tính tích cực và chủ động của học sinh . Do đó, giáo viên có thể vạch ra phương pháp dạy học kết hợp giữa các phương pháp sao cho đạt yêu cầu về nhận thức của học sinh . Vì thế quá trình học tập của học sinh sẽ được triển khai theo hướng: + Học sinh tự nghiên cứu và khám phá ra vấn đề dưới sự chỉ đạo và giảng giải của giáo viên . + Học sinh tự thể hiện và tự trả lời + Học sinh tự kiểm tra và tự điều chỉnh hiểu biết của mình. Ví dụ1 :LÍ THUYẾT NỘI DUNG PHẦN VẼ KỸ THUẬT Giáo viên xây dựng thiết kế bài giảng theo nội dung SGK trên phền mềm giáo án điện tử để mô phỏng theo từng phương pháp các góc chiếu vật thể để học sinh tự nhận biết các khái niệm về hình chiếu, mặt phẳng chiếu Ngoài ra giáo viên sưu tầm thêm tranh ảnh và mẫu vật, mô hình để làm cơ sở cho học sinh tự nghiên cứu và tìm ra các hình chiếu theo các phương pháp chiếu với từng mô hình vật thể khác nhau. Học sinh tự trả lời câu hỏi của giáo viên đan xen trong tiết dạy và câu hỏi phần cuối bài để xác định các kiến thức cơ bản của bài học. Giáo viên có thể nâng cao tính độc lập và phát triển tư duy của học sinh bằng cách : Tự tìm ra kiến thức, tự điền vào biểu bảng, ô trống, trắc nghiệm đơn giản. Với phương pháp quan sát, giáo viên vận dụng phương pháp thực hành thí nghiệm và hoạt động hợp tác của học sinh trên cơ sở độc lập nghiên cứu trước. Như trong phần các phương pháp chiếu góc thì có thể cho học sinh tự phân biệt PPCG1 với PPCG3 thông qua phiếu học tập và thực hành mô phỏng. Phần kiến thức mặt cắt và hình cắt, hình chiếu trục đo biểu diễn vật thể, GV cũng có thể vận dụng phương pháp này, nếu thiết kế bài giảng mô phỏng trên máy tính thì hiệu quả sẽ tăng hơn nhiều. Khi HS nắm vững phần kiến thức này thì phần vẽ kỹ thuật ứng dụng sẽ triển khai một cách dễ dàng. NỘI DUNG PHẦN CHẾ TẠO CƠ KHÍ VÀ ĐỘNG CƠ ĐỐT TRONG Hoạt động của Giáo viên Hoạt động của Học sinh + Đặt mục đích quan sát + Hiểu rõ mục đích quan sát + Giao nhiệm vụ quan sát + Nắm vững nhiệm vụ quan sát + Theo dõi, hỗ trợ, gợi ý + Quan sát thu thập thông tin, nhận xét, rút ra kết luận. + Khuyến khích học sinh nêu + Thông báo, nhận xét nhận xét trao đổi kết quả + Nhận xét, trao đổi + Tự điều chỉnh , kết luận. Ví dụ 2: THỰC HÀNH Hoạt động của Giáo viên Hoạt động của học sinh + Nêu mục đích thực hành + Hiểu rõ mục đích thí nghiệm thực hành + Giao nhiệm vụ cho học sinh + Nắm vững nhiệm vụ + Hướng dẫn các hình thức và + Hiểu cách sử dụng điều kiện cần sử dụng + Theo dõi, hỗ trợ, uốn nắn + Thực hành quan sát, ghi chép. + Tổ chức học sinh trao đổi, thảo + Thông báo kết quả đã thực hành. luận khuyến khích học sinh nhận xét. Công nghệ là môn học có mối liên hệ giữa lý thuyết với vận dụng thực hành trong thực tiễn . Do đó, để đạt được mục đích và yêu cầu của môn học, giáo viên không nên và không chỉ truyền đạt, xây dựng bài trong phòng học mà cần: Tận dụng các bài thực hành của chương trình để tạo điều kiện cho học sinh gần gũi với mô hình, thiết bị và vận dụng kiến thức vào việc giải thích các nguyên lý làm việc của máy móc, thiết bị. - Nêu trước những câu hỏi để học sinh có điều kiện quan sát ở thực tiễn, phát hiện và phân tích các hiện tượng bắt gặp trong cuộc sống và xã hội xung quanh làm cho hiểu biết của học sinh phong phú hơn. Từ đó có vốn để tham gia xây dựng bài. Nội dung chương trình Công nghệ 11 thể hiện trong 3 phần với mức độ biết - hiểu và vận dụng đảm bảo tính hệ thống. Do đó, trong quá trình giảng dạy kiến thức mới phải tăng cường liên hệ kiến thức cũ nhằm giúp học sinh thấy rõ tính hệ thống trong môn học. Ví dụ: PHẦN : PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CÁC KHÁI NIỆM: Trong quá trình giảng dạy, giáo viên giúp học sinh có khả năng phân biệt được những khái niệm thành phần có quan hệ phụ thuộc và những khái niệm có liên quan. Tiến trình hình thành các khái niệm có thể thực hiện theo 5 bước như sau: Bước 1 : Chuẩn bị cho sự tiếp thu và tìm hiểu khái niệm mới. Bước 2 : Quan sát trực tiếp vật thật, vật tượng hình hoặc nhận biết dấu hiệu của khái niệm thông qua ngôn ngữ, phương tiện trực quan. Bước 3 : Phân tích, so sánh, khái quát hoá, trừu tượng hoá để phát hiện các dấu hiệu chung, bản chất của khái niệm. Bước 4 : Xếp khái niệm mới lĩnh hội vào kho hệ thống đã có, so sánh và xếp nhóm. Bước 5 : Vận dụng khái niệm. Ví dụ 1 : Hình thành khái niệm “ Hệ thống truyền lực”(HTTL) Giáo viên đặt vấn đề : để ĐCĐT truyền được mômen quay sang máy công tác để sinh công thì cần phải có bộ phận nào để kết nối? Cách kết nối như thế nào? Cơ chế làm việc của nó? Học sinh có câu trả lời thích hợp. Giáo viên hướng học sinh thấy được dấu hiệu chung của cơ chế làm việc của HTTL vừa nêu trên từ đó rút ra dấu hiệu bản chất như : + Vơi các điều kiện làm việc của máy, thiết bị thì HTTL được sử dụng ở dạng nào. + Khi lựa chọn HTTL thì ta phải dựa vào tỉ số truyền. + Sử dụng HTTL phụ thuộc điều kiện môi trường làm việc của máy móc, thiết bị. Giáo viên hướng học sinh đến định nghĩa rồi so sánh khi sử dụng các loại HTTL khác nhau trên cùng một loại máy, thiết bị. PHẦN : PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CÁC NGUYÊN LÝ LÀM VIỆC Có thể hướng học sinh một trong hai cách : Suy li quy nạp dựa trên những quan sát thực tế, những kết quả thực nghiệm hoặc biểu tượng đã được tích luỹ của học sinh . Suy li diễn dịch dựa trên khả năng tư duy khái quát, liên tưởng của học sinh . Kinh nghiệm cho thấy con đường suy lí diễn dịch thường đỡ tốn thời gian hơn và là một cơ hội để rèn luyện tư duy diễn dịch cho học sinh. Tuy nhiên, muốn đạt yêu cầu của việc truyền đạt các quy luật nguyên lý làm việc, giáo viên phải hình dung được “số vốn” thực tế và biểu tượng mà học sinh phải có để chủ động dẫn dắt học sinh tới đích, thậm chí giáo viên phải có chủ đích cung cấp số liệu, yêu cầu, quan sát thực tế từ vài bài trước, nhấn mạnh trước về một vài khía cạnh cần thiết để tạo nên những kênh tư duy trừu tượng. Quá trình giảng dạy thể hiện theo 4 bước sau: Bước 1: Chuẩn bị tìm hiểu quy luật. Bước 2: Trình bày nội dung quy luật hoặc cung cấp dẫn liệu xây dựng quy luật. Bước 3: Phân tích quy luật làm sáng tỏ những mối quan hệ bản chất của quy luật. Bước 4: Nhận thức ý nghĩa của quy luật đối với cuộc sống và sản xuất .Học sinh sẽ hứng thú hơn và nhận thức được ý nghĩa một cách sâu sắc hơn nếu giáo viên biết cách gợi mở để chính học sinh phát hiện được ý nghĩa. Phương pháp giảng dạy các nguyên lý làm việc trước đây thì đưa ra nội dung, rồi phân tích bản chất một cách chi tiết. Do đó vẫn chú trọng đến vai trò tích cực của giáo viên. Ví dụ 1 : Hình thành nguyên lý làm việc “hệ thống bôi trơn” - Giáo viên gợi ý cho học sinh nhận xét : Nhiên liệu được lấy từ đâu? Đường dẫn như thế nào? Trong trường hợp xảy ra các sự cố thì các chi tiết nào sẽ làm việc? - Giáo viên nhắc lại và yêu cầu học sinh khái quát lại những vấn đề vừa học. Từ đó dẫn đến nội dung nguyên lý làm việc. - Đưa ra sơ đồ và phân tích chung. PHẦN : PHÁT HUY TỐI ĐA PHƯƠNG TIỆN, THIẾT BỊ DẠY HỌC Phương tiện, thiết bị dạy học là một điều kiện thiết yếu không thể thiếu trong quá trình dạy học.Nó vừa là điều kiện trung gian góp phần chuyển tải nội dung vừa là nguồn tri thức để thực hiện nội dung bài giảng. Trước hết phải cố gắng tận dụng nguồn mẫu vật, thiết bị có trong thực tế, gần gũi với học sinh. Trong thực tế các thiết bị máy móc rất đa dạng nên mẫu vật không thiếu điều quan trọng là khi quan sát vật thật phải giáo dục cho học sinh biết giữ gìn, bảo vệ, không phí phạm trong việc sử dụng các mẫu vật, thiết bị. Ví dụ : Bài - BIỂU DIỄN VẬT THỂ . Trước khi dạy, giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm các mẫu vật, mô hình các vật thể đơn giản, các khối hình học cơ bản Khai thác tối đa nội dung có trong tranh ảnh, vật mẫu, thí nghiệm để thông qua đó sắp xếp nội dung bài giảng phát huy tính tích cực của học sinh, tránh việc chỉ dùng đồ dùng để củng cố cho kiến thức mới. Với số lượng thiết bị, tranh ảnh trong sách giáo khoa chưa đủ để tiết học sinh động, đặc biệt là những phần liên hệ thực tế.Vì thế giáo viên nên phát động học sinh sưu tầm tài liệu, tranh ảnh cho từng bài, từng chương hoặc toàn bộ chương trình. Giáo viên cũng mạnh dạn sử dụng máy chiếu và băng hình về cách biểu diễn vật thể. Với cách dạy trước đây phần lớn giáo viên chỉ sử dụng phương tiện có sẵn trong SGK và phòng thí nghiệm. Giáo viên chưa yêu cầu và học sinh chưa đòi hỏi cần có sự tìm tòi khám phá các phương tiện mới, sáng tạo trong bài học. PHẦN : ĐÁNH GIÁ HỌC SINH : Chú trọng việc đánh giá bài hoc là một khâu không thể thiếu được nhằm nâng cao chất lượng bài học. Có 3 loại tiết học cơ bản: Phần lớn là tiết học cung cấp kiến thức mới, một số tiết thực hành, một số tiết củng cố ôn tập. Tiết học cung cấp kiến thức mới nên chú ý tới yêu cầu năm vững khái niệm, khả năng vận dụng kiến thức; tiết thực hành trước tiên chú ý tới kỹ năng và sau đó là khả năng tổ chức; còn tiết dạy củng cố ôn tập thì nên tập trung vào tư duy phân tích, tổng hợp, kỹ năng nhanh chóng rút ra vấn đề trọng tâm căn bản. Đánh giá và tự đánh giá nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học. Đối với giáo viên, đánh giá học sinh giúp điều chỉnh để có chất lượng một cách cao hơn, còn đối với học sinh biết tự cách học và điều chỉnh cách học và cách vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề có liên quan. Trong giảng dạy môn học, giáo viên thường sử dụng các phương pháp kiểm tra đánh giá như sau: Kiểm tra miệng : Trước đây được thực hiện từ 5 – 8 phút đầu tiết học. Thường là nhắc lại nội dung một cách máy móc, có khi rất thuộc nhưng không giải thích được hiện tượng có liên quan. Với hình thức đổi mới hiện nay, giáo viên có thể kiểm tra kiến thức học sinh bất cứ lúc nào trong tiết học, câu hỏi phải được xé nhỏ ra bao hàm hết các ý chính của bài học và nếu trả lời tốt phải cho điểm tối đa để kích thích sự hương phấn học tập học sinh của môn học mình. Kiểm tra viết: Bao gồm kiểm tra 15 phút và 1 tiết. Kiểm tra 15 phút có thể làm thường xuyên theo từng nhóm, không cần kiểm tra hết lớp, không cần báo trước và nên làm vào cuối tiết học. Hiện nay quy chế giáo dục về hình thức kiểm tra viết 1 tiết trở lên luôn thay đổi nhưng chác chắn một điều không nằm ngoài các hình thức như : Trắc nghiệm hoặc tự luận hay vừa trắc nghiệm vừa tự luận. Vì mỗi hình thức điều có ưu và hược điểm khác nhau như : Câu hỏi trắc nghiệm thì tiết kiệm thời gian kiểm tra, thời gian chấm bài, kiểm tra được nhiều nội dung kiến thức. Nhưng nhựợc điểm của câu hỏi trắc nghiệm là không đánh giá được chiều sâu kiến thức của học sinh và còn tạo cho học sinh có cơ hội đoán xác xuất. Câu hỏi tự luận sẽ khắc phục đuơc nhược điểm đó nhưng cũng quá nhiều nhược điểm và nhược điểm quan trọng nhất là không kiểm tra hết lượng kiến thức chính đã học . Vì thế để chuẩn bị cho bài kiểm tra 1 tiết trở lên được tốt hơn và cũng là kiểm tra đánh giá lại quá trình dạy và học của thầy và trò nên trong một đề kiểm tra 15 phút giáo viên cần có cả phần trắc nghiệm và cả câu hỏi rèn kỹ năng thực hành, thí nghiệm, kỹ năng trình bày, diễn đạt, lập luận. Hình thức kiểm tra “ Vừa trắc nghiệm vừa tự luận” để đạt được nội dung trên có thể thay thế bằng hình thức kiểm tra câu hỏi ý, nghĩa là trong bài kiểm tra sử dụng hình thức câu hỏi tự luận nhưng phải là câu hỏi ý có suy luận và dàn trãi nhiều nội dung. Việc thay đổi phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh bước đầu còn khó khăn, lý do khách quan cũng có, chủ quan cũng có. Xong xét về chất lượng kiểm tra đánh giá về chất lượng học tập của học sinh có nhiều thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Bên cạnh đó còn rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát, phân tích diễn đạt vấn đề, học sinh mạnh dạn hơn khi trình bày ý kiến của mình với cách lập luận chặt chẽ. PHẦN III : KẾT LUẬN Qua một thời gian ngắn giảng dạy chương trình Công nghệ 11 & 12, tôi tích luỹ được một số kinh nghiệm cho bản thân về PPDH theo hướng chủ động của học sinh, dưới sự chỉ đạo và định hướng của giáo viên trên nền tảng kiến thức có sẵn do Bộ GD – ĐT soạn thảo theo chương trình mới cơ bản. Cụ thể đối với đề tài này tôi đã thực hiện trong một thời gian khá dài với những điều kiện khó khăn của Trường và đã đạt được một số kết quả đáng kể ví dụ như : kết quả chỉ tiêu đạt được cuối năm đối với môn công nghệ tôi phụ trách luôn đạt và vượt chỉ tiêu so với đăng kí (đạt từ 90% trở lên) và đặt biệt là làm cho học sinh luôn hứng thú về môn học. Trên thực tế, để vận dụng chương trình cải cách Công nghệ 11 &12 theo phương pháp dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm” phải thực hiện từng bước và ở từng cấp độ, từng mốc thời gian thì hiệu quả thành công sẽ cao. Điều kiện thiết yếu là có sự đầu tư hết sức công phu thể hiện ở trình độ năng lực của giáo viên , kể cả học sinh cũng góp phần không kém. Bên cạnh đó, phân phối thời gian phải phù hợp với hàm lượng kiến thức cần truyền đạt; trang thiết bị, phương tiện dạy học cũng cần được tận dụng và khai thác triệt để. Để dạy tốt – học tốt môn công nghệ, người giáo viên phải luôn tuân thủ: Thầy chủ đạo – Trò chủ động, phát triển tốt khả năng tư duy, phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, kích thích lòng say mê học tập và yêu thích học môn học của học sinh. Góp phần nâng cao chất lượng dạy học theo chương trình mới. Vấn đề khó khăn trong quá trình nâng cao chất lượng dạy và học Công nghệ ở trường THPT Khánh Hưng cũng như để thực hiện đề tài này là: Cơ sở vật chất về phòng thí nghiệm, phòng thực hành của nhà trường còn thiếu đặt biệt là không có nguồn điện ba pha Đối tượng học sinh đa số là sống trong nông thôn, vùng sâu điều kiện học tập còn hạn chế. Đội ngũ giáo viên môn Công nghệ trong nhà trường là giáo viên trẻ, nên kinh nghiệm nghề nghiệp chưa cao. Phương tiện, thiết bị dạy học chưa đầy đủ. Do đó, để thực hiện chương trình SGK cải cách, vận dụng phương pháp kết hợp cũ và mới, phát huy tính chủ động của học sinh. Cần có sự chỉ đạo và quan tâm sâu sắc của Bộ GD – ĐT, Sở GD – ĐT, Ban giám hiệu nhà trường, các đồng nghiệp, đặc biệt là cùng tổ chuyên môn.. Sở GD & ĐT có thể tăng cường các buổi trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp, chuyên môn với trường bạn trong tỉnh hoặc tạo điểu kiện để bồi dưỡng chuyên môn nâng cao trình độ tay nghề và khả năng nghiệp vụ của giáo viên. *********** Hết ************** SỞ GD VÀ ĐT CÀ MAU TRƯỜNG THPT KHÁNH HƯNG ********************* ĐỀ TÀI: MỘT SỐ KINH NGHIỆM GIẢNG DẠY MÔN CÔNG NGHỆ 11 TRƯỜNG THPT ***************** Khánh Hưng, Tháng 3 năm 2009 ĐỀ TÀI SKKN VỀ LĨNH VỰC CHUYÊN MÔN : CÔNG NGHỆ GVTH: HOÀNG PHI HÙNG CHỨC VỤ: GIÁO VIÊN TỔ CHUYÊN MÔN: TOÁN - LÍ - CÔNG NGHỆ BẠC LIÊU, 2009
File đính kèm:
- SKKN - HOANG PHI HUNG.doc