Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp huy động và duy trì sĩ số học sinh ở vùng dân tộc thiểu số

Thực trạng về công tác huy động và duy trì sĩ số của học sinh tại trường

2.1.1. Một số thuận lợi:

 * Về phía nhà trường

 - Nhà trường đã triển khai khá hiệu quả công tác huy động và duy trì sĩ số của học sinh, kĩ năng làm việc, sinh hoạt ở khu nội trú, rèn luyện sức khỏe và bảo vệ sức khỏe, rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.

 * Về phía giáo viên:

- Giáo viên được đào tạo bài bản, có đủ trình độ, năng lực để huy động và duy trì sĩ số học sinh lớp mình chủ nhiệm.

- Giáo viên chủ nhiệm cũng là giáo viên trực tiếp giảng dạy nên rất thuận lợi trong việc nắm bắt, theo dõi học trò mình. Từ đó có những biện pháp hợp lí giúp học sinh khắc phục những hạn chế.

- Giáo viên được tiếp cận, trang bị đầy đủ công nghệ thông tin.

- Bản thân của người giáo viên chủ nhiệm luôn nhiệt tình, tích cực học hỏi, nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phối, kết hợp với cha mẹ học sinh trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn đạt chuẩn, trên chuẩn 100%, có thời gian công tác lâu năm nên việc trao đổi, học tập các kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm có nhiều thuận lợi.

- Luôn được cập nhật, nắm bắt kịp thời các thông tin, văn bản, chị thị có liên quan về nội dung giáo dục duy trì sĩ số của bậc học.

- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tới công tác chuyên môn, sĩ số học sinh và có chỉ đạo kịp thời khi có học sinh vắng mặt.

- Nhiều cha mẹ học sinh ngày càng quan tâm tới việc học của con em mình.

* Về phía học sinh

 - Hầu hết các em rất ngoan, đều cùng ở một điểm bản

 - Học sinh thường xuyên được nghe thầy cô giáo tuyyên truyền nhắc nhở vận động.

- Học sinh ngày càng được tham gia nhiều hơn các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội.

2.1.2. Một số khó khăn:

 - Học sinh đều là em con dân tộc thiểu số, đa số gia đình nghèo túng, thiếu thốn.

 - Nhiều phụ huynh chưa coi trọng việc học tập của con em mình, họ chưa hiểu học để làm gì? Vì họ cho rằng : Có học thì cũng ở nhà kiếm củi, làm rẫy

 - Học sinh chưa có ý thức học tập, nhút nhát, nói năng tự do theo ý thích, nhưng rất hay tự ái.

 - Các em hay nghỉ học tùy ý. Nhiều khi cha mẹ bắt nghỉ học coi em hoặc đi rẫy theo bố mẹ nhiều ngày.

 

doc20 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 1003 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp huy động và duy trì sĩ số học sinh ở vùng dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m hòa nhập với mô hình học mới, bạn mới,. Tôi hỏi han em giống như một người mẹ, người chị, người bạn. Tiếp xúc nhiều với cô, với các bạn em dần quen và trở nên mạnh dạn hơn. Có những giờ học Tuyến trở nên xuất chúng khiến nhiều bạn ngạc nhiên với câu trả lời khá hoàn hảo và sáng tạo của mình. Những lúc đó tôi đã tuyên dương khích lệ tinh thần của em. Tuyến cảm thấy rất phấn khởi và thêm yêu trường lớp, thầy cô giáo và các bạn mới. Từ đó đến nay, Tuyến đã mạnh dạn và tự tin hơn nhiều, em luôn đi học đều và đúng giờ. Có khi bị ốm, bố mẹ điện thoại xin phép cô giáo rồi nhưng Tuyến cũng chỉ nghỉ một buổi đi khám bệnh, buổi chiều vẫn lên lớp học. 
	2.2.4 Giải pháp 4: Quan tâm đến học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn: 
Rà soát, nắm bắt những học sinh có hoàn cảnh nghèo, gia cảnh khó khăn đăng kí cho các em được nhận dụng cụ, sách vở, quần áo do Nhà trường và Liên đội và các tổ chức từ thiện hỗ trợ ngay từ đầu năm. 
Mua sẵn bút chì, thước, ruột bút kim, để trong cặp. Khi các em cần thì đã có ngay để dùng.
 	Kêu gọi các học sinh trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh thủ sự hỗ trợ từ một số giáo viên, phụ huynh có khả năng để trang bị thêm những dụng cụ còn lại cho những em có hoàn cảnh khó khăn để các em được yên tâm đến trường, không phải mặc cảm vì nhà nghèo, thiếu thốn. (Ví dụ: Trong lớp, có em Hồ Văn Lạc không có bố, mẹ bị tâm thần nên Lạc đã đến lớp tập trung muộn hơn các bạn. Khi đến lớp, không có một loại sách vở, dụng cụ học tập nào. Tôi đã liên lạc và gặp mặt cậu ruột của Lạc để trao đổi tìm cách giúp em. Cậu của Lạc sẽ phải mua sắm vở và đồ dùng học tập cho em còn tôi thì xin với Nhà trường tạo điều kiện cho em mượn một bộ sách hướng dẫn học. Được sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu và sự phối hợp của phụ huynh, Lạc đã có đầy đủ các loại sách vở và dụng cụ học tập cần thiết khi đến lớp). 
2.2.5 Giải pháp 5: Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên dạy thay và Tổng phụ trách Đội:
	Trường chúng tôi thực hiện dạy 9 buổi/tuần. Giáo viên làm công tác chủ nhiệm thực hiện dạy 23 tiết/tuần. Như vậy, với những số tiết còn lại là giáo viên chuyên và giáo viên dạy thay. Vì vậy nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các giáo viên chuyên, giáo viên dạy thay với Tổng phụ trách Đội và giáo viên chủ nhiệm để duy trì tốt sĩ số thì việc học sinh nghỉ học, bỏ tiết là điều khó tránh khỏi. 
	Đầu năm học 2019-2020, lớp 5B tôi dạy có mấy trường hợp (Hồ Văn Lạc, Hồ Văn Vỹ, Hồ Văn Trung) cứ đến tiết chuyên (Tiếng Anh, Tin học, Đạo đức, Kĩ Thuật,) là nghỉ học, bỏ tiết hoặc tùy tiện đổi chỗ trong lớp. Những buổi sau đến lớp, nghe học sinh trong lớp và giáo viên bộ môn phản ánh lại tôi thấy khá bức xúc. Tôi liền trao đổi với các giáo viên chuyên cùng phối hợp để chấn chỉnh kịp thời những điều đó. Tiếp đến, tôi gắn trực tiếp sơ đồ chỗ ngồi, những lưu ý của học sinh mà giáo viên cần giúp đỡ trên bàn giáo viên để các giáo viên đến dạy đều nắm rõ được tên và vị trí của từng em. Về lớp, tôi nhắc nhở và phân tích để các em thấy được tầm quan trọng của việc đi học đều, học đúng, học đủ các môn học và hoạt động giáo dục. Sau đó, tình trạng này đã chấm dứt hoàn toàn. Tất cả học sinh đều tự giác, tích cực trong các tiết học, môn học và các em đều thể hiện lòng tôn kính của mình với thầy cô. ( Em Hồ Văn Lạc sau đó có sự tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt: đi học chuyên cần, học tập tốt, chấp hành tốt các quy định của lớp, của trường,Em còn được các thầy cô nhận xét, khen ngợi nhiều hơn trong vở.) Và tôi cũng không còn nghe thấy các thầy cô phàn nàn về học sinh của lớp mình nữa mà thay vào đó là những lời khen: Lớp học ngoan, chăm chỉ; các em rất lễ phép, tích cực trong học tập và hoạt động giáo dục.
2.2.6 Giải pháp 6: Tận dụng tối đa sự tác động của môi trường xã hội: 
Có nhiều học sinh bộc phát nhân cách của mình một cách nhanh chóng mà bề ngoài khó nhận biết. 
Ở trường, việc học tập của các em có dấu hiệu của một sự khủng hoảng như: học không vào, trốn học, không hài lòng với sự nhắc nhở của thầy cô, nhất là sự nổi lên rầm rộ của phong trào chơi game đang diễn ra phổ biến. 
Ở nhà, các em làm cho cha mẹ phải trăn trở, lo lắng và không nghe lời dạy dỗ của cha mẹ, hay lơ đễnh không thèm để ý bất cứ chuyện gì cả. 
Đối với những trường hợp trên, giáo viên cần linh động các biện pháp giải quyết, bảo đảm mối quan hệ gắn bó giữa gia đình, nhà trường, tăng cường biện pháp thuyết phục mà không chê trách, răn đe, trách phạt. Để hướng các em hòa nhập cùng tập thể lớp, có thể phân công các em đảm trách một nhiệm vụ nào đó trong lớp hay ghi tên, động viên các em tham gia vào đội tuyển của các môn thể thao hay các phong trào khác trong hoạt động của lớp học, của nhà trường. Từ đó, sự say mê trong nhiệm vụ mới, được sự tin yêu của bạn bè, được sự thương mến của thầy, cô sẽ giúp em vượt qua mọi thị hiếu do môi trường tác động.
	Cụ thể, trong lớp tôi có em Nguyễn Văn Đức ở thôn Tân Lập. Nhà nghèo, đông anh em, bố ham rượu chè, mẹ suốt ngày đi làm thuê kiếm tiên nuôi cả nhà. Ngay cả các khoản đóng góp theo quy định của trường, của lớp gia đình cũng không có để nộp. Bản thân em Đức lại thích chơi game nên việc em nghỉ học không có lí do diễn ra liên tục trong một thời gian dài khiến tôi khá vất vả. Khi đến lớp, cô giáo hỏi lí do thì em không khi nào nói thật. Tôi đã tìm hiểu qua các giáo viên chủ nhiệm trước, các giáo viên chuyên,Tiếp theo, tôi đến nhà và gặp được mẹ của em Đức. Tôi và mẹ của Đức phối hợp với nhau để giúp Đức đi học chuyên cần hơn. Hôm nào Đức nghỉ học là tôi điện thoại báo cho phụ huynh, một lúc sau thấy Đức đã lên lớp. Hỏi ra mới biết mẹ đã tìm Đức từ quán internet. Có lần khác, Đức nghỉ học, tôi điện thoại cho mẹ em nhưng mẹ lại đang đi làm thuê cho người ta ở nơi xa thế là tôi chạy ra các quán internet để tìm em vào giờ giải lao. Những ngày sau đó, dường như Đức cũng phần nào cảm thấy có lỗi nên không nghỉ học nhưng thái độ hợp tác trên lớp có vẻ miễn cưỡng không thật sự thoải mái. Cuối buổi học, tôi gặp riêng Đức hỏi chuyện, phân tích cho em thấy những cái được cái mất của việc nghỉ học, Những buổi học trên lớp, tôi luôn quan tâm đến Đức một cách tự nhiên, hài hòa. Giao cho em phụ trách vị trí Phó ban Thư viện của lớp. Khi đảm nhận trọng trách này, em sẽ có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với các tài liệu có trong thư viện của lớp mà không phải qua khâu trung gian. Các bạn khác muốn mượn tài liệu phải thông qua em, như vậy em thấy được mình cũng có vai trò quan trọng đối với tập thể mà cố gắng. Càng ngày, em càng muốn chứng tỏ khả năng của mình với các bạn nên không còn nghĩ đến chuyện nghỉ học nữa. Cũng có những buổi em nghỉ học nhưng đều có lí do chính đáng do người lớn xin phép. Những buổi học sau lên lớp, em rất tích cực học hỏi bạn về bài đã học hôm trước để theo cho kịp các bạn. Việc đưa được Đức đến lớp đều là thành công lớn nhất trong ngần ấy năm dạy học của tôi. Ngạc nhiên hơn nữa là cuối năm học, Đức đã hoàn thành khá tốt các bài kiểm tra, đặc biệt là môn Tiếng Việt đạt 8 điểm. Các khoản đóng góp tôi cũng xin với nhà trường miễn hết cho em. Các khoản của lớp, bản thân tôi hỗ trợ cho em phần nào còn nữa là sự hỗ trợ của cả tập thể lớp. 
	Mặt khác, đối với những em có mặc cảm do có sự khác biệt về thành phần dân tộc (Kinh, Ê-đê ) hoặc do chưa thích nghi với môi trường như: chuyển trường, lưu ban thì lúc này vai trò của giáo viên rất quan trọng. Giáo viên sẽ lồng ghép giáo dục khi dạy một số bài Địa lí lớp 4, bài Dân cư nước ta (Địa lí lớp 5) . Giáo viên cũng có thể kể câu chuyện “Kinh và Ba na đều là anh em” để hướng tới sự đoàn kết là một. Bên cạnh đó, những cử chỉ, giọng nói của giáo viên tạo nên sự gần gũi giữa hai mối quan hệ là rất cần thiết. Một cái xoa đầu, một lời hỏi thăm là bản thân giáo viên đã tạo cho học sinh một sự tin tưởng, dễ gần. Lòng cảm mến của học sinh đối với giáo viên, giúp các em xóa đi những mặc cảm, tự ti để hòa nhập với tập thể tốt hơn và ý định chán nản, bỏ học, nghỉ học sẽ dễ dàng xóa đi trong đầu óc non nớt của các em. 
	Có các em: Y Sa Muel Niê, Y Huy Byã, H Nang Êban, những ngày đầu nhận lớp, thấy các em có vẻ rụt rè. Tôi âm thầm theo dõi và tìm hiểu nguyên nhân thì được biết hoàn cảnh của các em ấy khá phức tạp. Y Huy có bố mẹ đã li dị, em ấy ở với bà ngoại và dì ruột đang học THCS. Y Sa Muel, bố mẹ đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh, em ở với bà ngoại. H Nang gia đình thuộc hộ nghèo, em còn thường xuyên bị chảy mồ hôi ở tay và chân, Học lực của 3 em đều ở mức yếu (qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm). Thỉnh thoảng các em ấy lại nghỉ học mà không có lí do. Tôi đã trò chuyện riêng với từng em, hỏi han về mọi chuyện và động viên các em. Bên cạnh đó tôi cũng gặp trực tiếp dì của Y Huy, mẹ của H Nang cùng tìm biện pháp giúp các em tiến bộ. Riêng với Y Sa muel, tôi đến nhà nhưng đều không gặp được bà của em (gia đình không ai dùng điện thoại). Tôi đã nhờ đến Hội phụ huynh của lớp, nhờ phụ huynh của những học sinh gần nhà giúp đỡ. Trên lớp, tôi phân các học sinh khá giỏi giúp đỡ các em. Cho các em tham gia vào đội quản Sao, hướng dẫn các học sinh lớp 1, 2 xếp hàng tập thể dục đầu giờ (có sự hướng dẫn của GVCN). Cả ba thấy mình có uy với các em nên khá mạnh dạn khi làm nhiệm vụ được giao. Các em hồ hởi nói về những em nhỏ mà mình phụ trách. Những ngày sau đó, các em rất nhớ nhiệm vụ của mình. Biết được vai trò của mình như thế nào nên các em đều rất cố gắng. Khi có cơ hội là tôi đưa ra những lời khen với các em. Các em cảm thấy được quan tâm, tin tưởng nên việc nghỉ học không lí do đã hoàn toàn không còn. Và việc học tập của các em cũng có sự tiến bộ rõ rệt. Cuối năm, cả ba em đều hoàn thành chương trình.
 2.2.7 Giải pháp 7: Tổ chức tốt tiết sinh hoạt tập thể - sinh hoạt lớp
Phối hợp với Đội thiếu niên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp vui tươi, sinh động, hấp dẫn để các em thấy gần gũi hơn với mọi người.
Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, nhóm đạt duy trì sĩ số suốt cả tuần để làm gương cho lớp và khen những em có tiến bộ về mặt học tập để các em thấy nhiệm vụ học tập của mình và mỗi ngày đến trường thật sự là một ngày vui. 
	Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, nhắc nhở nhẹ nhàng kèm theo hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn.
	Ngoài ra, cần nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu năm còn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại Khá, Giỏi để củng cố lòng tin nơi các em.
	 Mời cha mẹ học sinh tham gia vào tiết sinh hoạt lớp để nắm bắt được tình hình học tập và rèn luyện của con em mình. 
	Ví dụ: Trong năm học, tôi có tổ chức tiết sinh hoạt tập thể theo nhu cầu của đông đảo học sinh trong lớp. Thay vì múa hát, tìm hiểu lịch sử, tôi tổ chức thi đấu một số nội dung thể thao theo sở thích của các em như nhảy dây, đá cầu, cầu lông,. Các em rất hào hứng và luôn mong muốn được cô tổ chức như thế nên ngoài việc hăng say học tập thì các em cũng tích cực rèn luyện ở lớp, ở nhà. Từ đó, một số em quên hắn những trò chơi vô bổ và ham đến trường hơn.
	2.2.8 Giải pháp 8: Tạo môi trường giáo dục tốt
	 Cùng học sinh trang trí lớp học, các góc học tập thật sinh động., khuyến khích lấy ý tưởng của các em. 	
 Mỗi ngày bước vào lớp, tôi đều quan sát cả lớp. Thấy các em có mặt đầy đủ là lòng tôi rất vui. Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như: mưa, gió,  Những hôm ấy, tôi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo tay để động viên khích lệ tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn giảng phân hóa theo đối tượng học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi học sinh trong lớp - nhất là những em học yếu nhằm kích thích học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh hơn. Lồng ghép những câu chuyện thực tế mang tính giáo dục vào các tiết dạy để tạo hứng thú cho các em trong mỗi giờ học.
	Tôi cũng thật sự hòa nhập cùng các em trong giờ dạy hoạt động ngoại khoá hay trò chơi của đố vui qua hình thức Giải ô chữ trong các tiết Ôn tập 
Với trường lớp khang trang như hiện nay, đội ngũ giáo viên nhiệt tình, sự quan tâm của Ban Giám hiệu, sân chơi rộng rãi thoáng mát, “lớp học như là nhà” đó là một thuận lợi rất lớn để xây dựng môi trường học tập tốt cho học sinh vui chơi, học tập. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú và được bày tỏ ý kiến của mình với bạn, với cô, không nặng nề, sợ sệt. Luôn cùng nhau chăm sóc, lao động, làm vệ sinh, trang trí trường lớp.
Giờ ra chơi, tôi tổ chức hướng dẫn các em vui chơi tập thể, đọc sách báo trong thư viện của lớp của trường để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần gũi thân mật giữa học sinh với giáo viên nhà trường.Trong những năm qua, bằng hình thức này tôi đã tạo cho các em sự vui thích, tìm tòi tham gia tích cực cho phong trào của lớp, của trường, của huyện tổ chức. 
Ngoài ra: để ngăn ngừa, khắc phục và phát huy sự thành công của nghệ thuật thuyết phục học sinh trở lại trường lớp sau khi nghỉ, bỏ học thì bản thân giáo viên cần kết hợp chặt chẽ nhiều mặt khác như: 
Lập kế hoạch giáo dục cá nhân để cung cấp kiến thức, phát triển năng lực và hạn chế tối đa những khó khăn của học sinh như đã nêu, giúp các em hòa nhập một cách tốt nhất với các bạn. 
Bố trí chỗ ngồi thuận lợi, quan tâm và dành nhiều thời gian trò chuyện tiếp xúc với các em. Đồng thời, luôn tạo ra các tình huống mà từng học sinh đều có thể thệ hiện mình trong đó, còn giáo viên thì cổ vũ, khuyến khích mọi thành công của các em dù là những thành công rất nhỏ nhất. 
Phối hợp với Đội Thiếu niên, Công đoàn trong nhà trường để có sự hỗ trợ và thường xuyên trao đổi với phụ huynh về kế hoạch giáo dục, thuyết phục các em. Động viên các em tham gia vào các câu lạc bộ văn nghệ, thể thao của lớp, của trường để tạo sự thích thú cho các em .
Hợp tác với Ban tự quản lớp lập ra “Đôi bạn cùng tiến” và đề ra những hình thức thi đua khen thưởng để khích lệ tinh thần học tập của các em. 
2.3. Kết quả đạt được
 *Qua thời gian áp dụng các biện pháp như đã nêu ở trên. Tôi nhận thấy việc đi học chuyên cần của các em học sinh lớp tôi ngày càng tiến bộ rõ rệt từ lúc các em hay nghỉ học mà đến nay các em không chỉ đi học đều mà còn thích đi học. Các em đã có thói quen đi học đều và đúng giờ. Đáp ứng được sự mong muốn của GV đang từng ngày mong đợi. Điều đó đã thể hiện như sau:
 Chẳng hạn 1 tuần của tháng 10 là
Thứ
Ngày
Sĩ số
Hiện diện
Hai
7/1
16
16
Ba
8/1
16
16
Tư
9/1
16
16
Năm
10/1
16
16
Sáu
11/1
16
16
 Như vậy, diễn biến qua đối chứng thống kê về sĩ số học sinh của lớp tôi. Tuần cuối của tháng 9 cho thấy việc đến lớp hàng ngày của học sinh luôn đạt từ 96- 100% . Đặc biêt từ sau tháng 12 cho đến cuối tháng 1 đây là giai đoạn mùa làm rẫy của dân bản nhưng sĩ số học sinh của bản luôn đạt 100% 16/16 em, những trường hợp vắng do đau ốm cũng được bố mẹ đến xin phép. Nhờ làm tốt công tác duy trì sĩ số học sinh hàng ngày mà chất lượng học tập của các em đã được tăng lên rõ rệt. Chất lượng học tập của lớp tôi luôn luôn nằm trong tốp đầu của nhà trường.
 Với các giải pháp và biện pháp duy trì sĩ số học sinh đã phát huy tính tự giác, tích cực trong việc thực hiện chuyên cần, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của lớp lên một cách rõ rệt. Học sinh đạt thành tích cao hơn về mặt kiến thức; có năng lực và phẩm chất ngày càng phát triển đáp ứng được nhu cầu học tập ở các lớp học cao hơn. Các em ngày càng hào hứng mỗi khi đến trường, tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn bày tỏ các ý kiến của bản thân trước tập thể,
 Những giải pháp đề ra nhằm duy trì sĩ số học sinh, nâng cao chất lượng giáo dục. Với những giải pháp đó còn có tác dụng tranh thủ sự tham gia của phụ huynh vào quá trình giáo dục học sinh. Và theo đánh giá của bản thân, tôi thấy các giải pháp này có thể áp dụng vào tất cả các lớp học, cấp học; theo chương trình VNEN hay hiện hành đều tốt, nó sẽ mang lại một kết quả giáo dục tốt. 
Cần tạo được môi trường thân thiện trong nhà trường. Sự gắn bó mật thiết giữa thầy với thầy, thầy với trò, giữa học sinh với học sinh,...tạo được không khí vui vẻ học tập, vui chơi trong suốt thời gian ở trường thì chắc chắn các em sẽ đến lớp đến trường đều đặn, bằng sự tự giác, tích cực và sẽ cảm thấy tiếc nuối khi phải bỏ học, nghỉ học.
 3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Duy trì sĩ số hàng ngày đối với học sinh đồng bào ở trong làng bản là một việc làm còn nhiều khó khăn vất vả .Vì thế trách nhiệm của giáo viên dạy trong làng bản nặng nề hơn bao giờ hết. Bởi yêu cầu về chất lượng dạy và học của ngành giáo dục đòi hỏi ngày càng cao mà nhu cầu học tập của học sinh dân tộc lại chưa có chuyển biến là bao. Vì thế với những nội dung đã nêu ở trên, bản thân tôi rút ra được kết luận như sau:
 - Mọi việc làm của giáo viên phải thường xuyên, liên tục trong từng ngày, từng giờ trên lớp. Việc duy trì sĩ số học sinh hàng ngày không chỉ đơn độc một mình giáo viên chủ nhiệm mà phải kết hợp với lực lượng khác
 - Mọi việc mang tính kiên trì, bền vững, đầy tình thương và trách nhiệm, gần gũi thân mật với từng học sinh, để chia sẻ, động viên, uốn nắn kịp thời. Thực tế đã cho ta thấy việc dạy học là một nghệ thuật đầy tính sáng tạo, đòi hỏi giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp. Từ đó tìm ra 1 phương pháp thích hợp để giúp học sinh đi học đều, đúng giờ.
- Giáo viên phải nhiệt tình không ngại khó, ngại khổ thực sự yêu thương, gần gũi và tôn trọng học sinh.
- Thường xuyên kiểm tra nhắc nhở, uốn nắn kịp thời từng hành vi nhỏ.
- Hàng ngày đầu giờ kiểm tra sĩ số luôn có lời khen với các em. Tổ chức các giờ học tự nhiên, thoải mái ( Có tính kỷ luật)
- Thường xuyên tuyên dương những học sinh đi học đều, đúng giờ. Việc nhắc nhở học sinh phải nhẹ nhàng, dịu dàng, tế nhị vì học sinh dân tộc rất dễ tự ái.
- Có hình thức khen, thưởng để động viên kích thích để học sinh đi học đều, đúng giờ.
* Qua quá trình áp dụng các biện pháp để duy trì sĩ số học sinh bản tôi công tác đã đem lại kết quả thiết thực. Điều đó nói lên rằng: Việc tuân thủ các nguyên tắc và vận dụng tốt các phương pháp trong công tác chủ nhiệm là có hiệu quả, có tính khả thi trong việc dạy học hiện nay.Tuy nhiên vì nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có nguyên nhân về hình thành thói quen cho học sinh dân tộc đi học chuyên cần, vì vậy giáo viên cần tiếp tục rèn luyện ở tháng cuối năm học để kết quả đạt cao và có tính bền vững.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Để đảm bảo được công tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục và tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Cần có sự quan tâm hỗ trợ đúng mức của toàn xã hội. Tôi xin mạnh dạn có một số đề xuất như sau: 
	* Đối với Đội thiếu niên: 
	- Tổng phụ trách Đội cần tăng cường hơn nữa những buổi sinh hoạt ngoài giờ cho các điểm trường lẻ (phân hiệu)
* Đối với nhà trường: 
 	- Có hình thức khen thưởng kịp thời đối với lớp, đối với giáo viên chủ nhiệm không có học sinh bỏ học.
* Đối với chính quyền các cấp: 
 	Luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh nghèo và những em có hoàn cảnh khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và tham gia vận động học sinh bỏ học đi học lại cùng với giáo viên chủ nhiệm. 
 Với sáng kiến này tôi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo để việc duy trì sĩ số học sinh dân tộc hàng ngày trên lớp không là nỗi lo, trăn trở của các giáo viên khi được phân công dạy học sinh dân tộc thiểu số. Đồng thời làm phong phú kinh nghiệm trong việc huy động và duy trì sĩ số học sinh trên lớp đối với các lớp trong làng bản.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã đúc kết được trong quá trình công tác. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng Giám khảo và toàn thể đồng nghiệp để đề tài của tôi tiếp tục được hoàn thiện hơn./. 
 Xin chân thành cảm ơn!
Xác nhận của hội đồng khoa học
MỤC LỤC
Phần mở đầu
Trang 1
Lý do chọn đề tài
Trang 1 
Điểm mới của đề tài
Trang 2
Phạm vi áp dụng của đề tài
Trang 3
Phần nội dung
Trang 3
Thực trạng về giáo dục kĩ năng sống của học sinh lớp 5 tại trường
Trang 3 
2.2. Các giải pháp
Trang 6
2.3. Kết quả đạt được 
Trang 12
Phần kết luận
Trang 13
Ý nghĩa của đề tài
Trang 13
Kiến nghị, đề xuất
Trang 14
Phụ lục
Trang 16

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_huy_dong_va_duy_tri_s.doc
Sáng Kiến Liên Quan