Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng trong trường mầm non

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp của con người, mỗi một dân tộc có một ngôn ngữ riêng. Tiếng dân tộc là một bộ phận trong hệ thống ngôn ngữ nhân loại đồng thời còn là tài sản vô giá, vốn quý báu của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Chính vì vậy, việc dạy trẻ tập nói tiếng Việt là một việc khó khăn đối với cô giáo mầm non nói riêng và sự nghiệp giáo dục nói chung.

 Ở lứa tuổi 24 - 36 tháng, sự phát triển tâm sinh lý của trẻ rất mạnh, ảnh hưởng đến cả quá trình phát triển của trẻ sau này, đây là giai đoạn tập nói của trẻ. Ở giai đoạn này, trẻ phát âm còn chưa chuẩn, nói ngọng, nói lắp nhiều, trẻ chưa nói được thành câu chọn vẹn. Chính vì vậy cần có sự uốn nắn kịp thời của người lớn, nhất là cô giáo.

Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng điều đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.

 Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.

 

doc19 trang | Chia sẻ: duongthao25 | Ngày: 08/10/2022 | Lượt xem: 1148 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 - 36 tháng trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
+ Con chọn màu gì để di? Màu đỏ ạ .
+ Con cầm bút bằng tay nào? Tay phải ạ .
+ Khi ngồi di màu con phải ngồi như thế nào? Ngồi ngay ngắn ạ .
- Cô giáo luôn luôn đặt ra câu hỏi để kích thích trẻ trả lời. Như vậy sẽ giúp trẻ sử dụng ngôn ngữ của mình và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp .
 VD2: 
 Trò chơi trong góc “Bé chơi với búp bê” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. 
 + Chị đã cho búp bê ăn chưa? (Chưa ạ)
 + Khi ăn chị nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! (Vâng ạ) 
 + Ngoan nào chị cho búp bê ăn nhé!
 + Bột vẫn còn nóng lắm để chị thổi cho nguội đã ! (Giả vờ thổi cho nguội)
 Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương , gắn bó của con người
3. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời:
(Hình ảnh giáo dục ngôn ngữ cho trẻ qua hoạt động ngoài trời)
 Hàng ngày đi dạo chơi với trẻ tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ vật, đồ chơi xung quanh, tên bố mẹ, tên cô giáo, tên các bạn, nhà con ở đâu?
+ Cây gì đây? Lá cây màu gì? Lá cây to hay nhỏ? Thân cây sần sùi hay nhẵn 
VD1: Cô cho trẻ quan sát cây hoa giấy
- Cô hỏi trẻ :
+ Cây gì đây?
+ Cây có lá màu gì? 
+ Cây có nhiều hoa hay ít hoa?
+ Những bông hoa này màu gì?
+ Các bạn có được ngắt hoa bẻ cành không?
* Giáo dục: 
 + Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ)
 - Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn.
 - Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại.
4. Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học:
(Hình ảnh giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ học)
a. Thông qua giờ nhận biết tập nói:
 Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ.
 Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc.
 VD1: Trong bài nhận biết ” Con cá” cô muốn cung cấp từ “ đuôi cá ” cho trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả ( được làm bằng bìa) để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn..nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích.
 - Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi:
 + Đây là con gì? (“Con cá ạ”)
 + Các con nhìn xem cá muốn bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây? (Cái đuôi ạ)
 + Các con ơi, cá đang nhìn chúng mình đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? (Nằm ở trên đầu con cá)
 + Đố các bạn biết cá sống ở đâu? (Sống ở dưới nước)
 + Trên mình cá có gì mà lấp lánh thế ? (Có vẩy)
- Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo yêu cầu câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc , thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ.
 VD2 : Nhận biết “Ô tô”
 Khi vào bài tôi đặt câu đố: 
 “Xe gì bốn bánh
 Chạy ở trên đường
 Còi kêu bim bim 
 Chở hàng chở khách” (Ô tô)
- Trẻ trả lời đó là ô tô tôi đưa chiếc ô tô cho trẻ xem và hỏi: 
 + Xe gì đây? (Ô tô ạ )
 + Ô tô có màu gì? (Màu đỏ ạ )
 + Ô tô đi ở đâu? (Ô tô đi ở trên đường ạ)
 + Ô tô dùng để làm gì? (Dùng để đi ạ)
 + Còi ô tô kêu như thế nào? (Bíp bíp..)
 + Đây là cái gì? (Cô hỏi từng bộ phận của ô tô và yêu cầu trẻ trả lời)
 - Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường.
b. Thông qua giờ thơ, truyện:
 Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện.
 Để giờ thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo :
 + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo an toàn và vệ sinh cho trẻ.
Phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi.
 + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật.
	Không những trẻ được tìm hiểu về nội dung của truyện. Mà trẻ còn có thể bước đầu biết kể chuyện cùng cô và cùng cô đóng kịch. Muốn vậy cô cần giúp trẻ nhớ được và nói lời của các nhân vật, biết thể hiện ngữ điệu giọng của nhân vật.
 VD1: Truyện: Bác cá Sấu tốt bụng (Loại tiết đa số trẻ đã biết)
- Tôi cho trẻ nghe lại truyện qua màn diễn rối nước “Bác cá sấu tốt bụng”
+ Hỏi trẻ để trẻ nhắc lại tên truyện? Tên nhân vật trong truyện?
+ Tôi đặt câu hỏi để trẻ nói lại lời của các nhân vật: “Khỉ con gọi Bác cá sấu như thế nào?”
	Bác cá sấu nói gì với khỉ con?
	Bạn khỉ nói cảm ơn bác cá sấu thế nào?
Với những câu hỏi như vậy tôi cho cả lớp nói nhắc lại lời của nhân vật, và gọi các nhân trẻ nói.
+ Sau đó trẻ sẽ kể chuyện cùng cô. Cô vừa là người dẫn truyện và nhắc trẻ nói lời của nhân vật. Cô động viên, khuyến khích trẻ nói rõ ràng lời của nhân vật.
+ Cuối cùng trẻ cùng cô đóng kịch.
 - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn và biết nói lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ từ người khác..
- Trong câu truyện “Bác cá sấu tốt bụng” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời.
Trẻ hay nói khỉ con -> hỉ con
 nói cá sấu -> cá ấu 
 - Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo.
 - Thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên , khích lệ trẻ kịp thời.
 - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Bác cá sấu tốt bụng” + Giọng bác cá sấu thì ồm ồm.
 + Giọng khỉ con thì trong trẻo. 
-> Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức . 
VD2: Qua bài thơ “Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “Sắp vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một chiếc bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được nhìn, sờ, ngửi..và qua vật thật tôi sẽ giải thích cho trẻ từ “Sắp vòng quanh”.
 - Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. Các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá càng cuộn thành vòng tròn xếp trồng lên nhau lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời:
 + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? (Cây bắp cải ạ)
 + Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào?
 (Xanh man mát)
 + Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ)
 + Búp cải non thì nằm ở đâu? ( Nằm ở giữa ạ)
- Như vậy qua bài thơ ngoài những từ ngữ trẻ đã biết lại cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
c. Thông qua giờ âm nhạc:
- Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn thôi thúc tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ. 
- Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. 
- Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
- Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát.
 VD: Hát và vận động bài “Con voi”
 + Câu đầu tiên : Con vỏi con voi
 Cái vòi đi trước.
 (Trẻ đưa tay ra phía trước giả làm vòi con voi)
 + Câu thứ hai : Hai chân trước đi trước
 Hai chân sau đi sau.
 (Hai tay chống hông , hai chân nhấc lên nhấc xuống)
 + Câu cuối : Còn cái đuôi đi sau rốt 
 Tôi xin kể nốt
 Câu chuyên con voi. 
 (Một tay chống hông, một tay đưa ra đằng sau vờ làm đuôi con voi)
d. Thông qua giờ vận động: 
- Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn:
 + Vòng này có màu gì hả con? (Màu đỏ ạ)
 + Thế còn vòng này có màu gì đây? (Màu xanh ạ)
 + Vòng để làm gì con có biết không? (để học, để chơi trò chơi ạ)
 + Con sẽ chơi gì với vòng ? (Con lái ô tô ạ)
5. Giáo dục ngôn ngữ hông qua các trò chơi.
(Hình ảnh giáo dục ngôn ngữ cho trẻ qua trò chơi)
 Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái
- Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ , từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. (Trò chơi: Cái gì dùng để làm gì; Trò chơi trò chuyện cùng cô; Trò chơi con muỗi; Trò chơi về các sự kiện quen thuộc)
* Trò chơi: “ Con muỗi ”
 * Cách chơi:
- Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
 + Có con muỗi vo ve, vo ve (Trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy lại theo nhịp đọc)
 + Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (Lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối diện , chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).
 + úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay. 
 (Nhún vai 2 lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay vào nhau vờ rửa tay) 
- Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3- 4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trọn vẹn hơn .
* Trò chơi: “ Cái gì? Dùng để làm gì?
- Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển :
* Chuẩn bị:
 + Đồ dùng để ăn uống (Bát , thìa, cốc , ca)
 + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ)
 + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.
 * Tiến hành:
 - Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì?
 - Cô nói:
 + Cái bát dùng để làm gì? ( Cái bát đựng cơm)
 + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước)
 - Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng. 
6. Phối kết hợp với phụ huynh 
(Hình ảnh cô giáo trao đổi với phụ huynh về phát triển ngôn ngữ cho trẻ)
 Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được.
* Tôi trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải dành nhiều thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
 * Với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm , sửa ngọng
* Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét , nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp.
4/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC KHI THỰC HIỆN ĐỀ TÀI :
 Sau khi áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24- 36 tháng trong trường MN” ở lớp D2 ( nhóm trẻ 24- 36 tháng) trường Mầm Non Đặng Xá , Xã Đặng Xá - Gia Lâm - Hà Nội. (Thời gian thực hiện: Từ tháng 7 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019), tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt , phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc , rõ ràng được thể hiện như sau:
Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp.
Trẻ khi giao tiếp biết nói đủ câu hoàn chỉnh.
Trẻ không còn nói ngọng, nói lắp nữa.
 Ngôn ngữ của trẻ đã phong phú hơn và trẻ đã biết vận dụng vốn từ vào cuộc sống hàng ngày. 
 Bằng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ (độ tuổi 24 - 36 tháng) trong năm học vừa qua thì sự phát triển ngôn ngữ của trẻ đến thời điểm đánh giá so với đầu năm học được thể hiện như sau:
*Kết quả đạt được cuối năm như sau:
Khảo sát đầu năm
Khảo sát cuối năm
Phân loại khả năng
Tốt
Khá
TB
Yếu
Tốt
Khá
TB
Yếu
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Sl
%
Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn
5
14
10
29
15
43
5
14
15
43
15
43
5
14
0
0
Vốn từ
 5
14
10
29
15
43
5
14
20
57
10
29
5
14
0
0
Khả năng nói đúng ngữ
pháp
 5
14
15
43
10
29
5
14
20
57
10
29
5
14
0
0
Khả năng giao tiếp
5
29
10
29
10
29
5
14
15
43
15
43
3
 9
2
5
III: KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ.
 * Kết luận: 
 “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
 “Phát triển ngôn ngữ” giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển tâm lý nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng khả năng ngôn ngữ phát triển rất nhanh.
 Tôi nhận thấy rằng việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các con, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước.
 * Ý kiến đề xuất:
 Để nâng cao hiệu quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 -36 tháng trong trường mầm non theo hướng tích cực hóa, tôi có một số kiến nghị sau:
 Đối với phòng giáo dục:
- Tổ chức nhiều buổi kiến tập chuyên đề về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên có cơ hội học tập.
- Có nhiều đợt tập huấn bồi dưỡng về chuyên môn cho giáo viên
Đối với nhà trường- tổ chuyên môn: 
- Có sự định hướng chỉ đạo giáo viên các lớp nhà trẻ thực hiện tốt việc giáo dục rèn ngôn ngữ cho trẻ.
- Huy động sự đóng góp hỗ trợ về cơ sở vật chất của các cấp, các ngành, hội cha mẹ học sinh.
- Tạo không khí thi đua trong tập thể giáo viên, giúp giáo viên không ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, tạo mọi điều kiện thuận lợi để giáo viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
- Thiết lập các kênh thông tin về chăm sóc giáo dục trẻ để giáo viên trong nhà trường cập nhật nhanh nhất những tri thức, khoa học hiện đại về quá trình nuôi dạy trẻ, vận dụng có hiệu quả những tri thức đó phục vụ trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Thực hiện sinh hoạt chuyên môn đều đặn theo đúng kế hoạch đề ra. Chú trọng phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong mọi hoạt động giảng dạy.
 Đối với giáo viên
- Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn.
- Làm giàu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, vui chơi, kể truyện và đọc truyện cho trẻ nghe.
- Củng cố vốn từ cho trẻ.
- Tích cực hoá vốn từ cho trẻ.
- Tích cực làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo hấp dẫn với trẻ và phù hợp với nội dung của bài dạy.
- Luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, dành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
- Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa cô giáo và phụ huynh để nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ từ đó có kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ.
- Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
- Tích cực cho trẻ làm quen với thiên nhiên để phát triển khả năng quan sát, giúp trẻ củng cố và tư duy hoá các biểu tượng bằng ngôn từ.
- Không ngừng nâng cao, hoàn thiện về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện tốt chương trình đổi mới trong giáo dục.
- Chuẩn bị môi trường giáo dục, sưu tầm, làm đồ dùng, đồ chơi từ những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương phục vụ cho các tiết dạy để trẻ hứng thú.
- Thường xuyên đánh giá hoạt động dựa trên các mục tiêu yêu cầu đề ra trong từng chủ đề - sự kiện để giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Tiếp cận các kênh thông tin, các phương tiện kỹ thuật hiện đại làm tăng thêm hiệu quả cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
- Phối hợp với nhà trường và gia đình, cha mẹ học sinh, bản thân giáo viên nghiên cứu tài liệu để giáo viên nắm vững các biện pháp “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24 -36 tháng”.
 Là một gíao viên mầm non phải cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và vai trò trách nhiệm với cái tên người mẹ thứ hai của trẻ. Thật sự yêu mến trẻ, nhiệt tình và say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương trẻ thực sự.
 Xuất phát từ thực tiễn, nhằm đáp ứng yêu cầu của ngành học mầm non theo định hướng đổi mới hình thức tổ chức. Với những biện pháp tôi đã thực hiện trên trẻ ở độ tuổi 24 - 36 tháng trong năm học 2018 - 2019.
 Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ, vì thế một số kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Qua đây tôi rất mong được các cấp lãnh đạo và bạn đồng nghiệp đọc, góp ý, xây dựng bổ sung thêm để giúp tôi có được bài học kinh nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc biệt nâng cao chất lượng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói chung, trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hiệu trưởng
(Ký tên, đóng dấu)
Tôi xin cam đoan SKKN này là của tôi. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội , ngày.tháng..năm 2019
Người viết
 Lê Thu Trang
IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO
Điều lệ trường Mầm non.
Tuyển chọn những trò chơi, bài hát, thơ ca, câu đố.
 Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non trẻ 24-36 tháng.
Tạp chí giáo dục mầm non.
Các trò chơi và hoạt động cho trẻ 24-36 tháng.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_phat_trien_ngon_ngu_c.doc
Sáng Kiến Liên Quan