Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1

Xuất phát từ vị trí, vai trò của môn Toán ở bậc tiểu học. Một trong những bộ phận cấu thành chương trình Toán ở bậc tiểu học là "Những yếu tố hình học". Bộ môn này được dạy học ở tiểu học mang ý nghĩa chuẩn bị cho việc học môn hình học ở bậc học phổ thông cơ sở, đồng thời giúp học sinh những hiểu biết cần thiết khi tiếp xúc với những tình huống toán học trong cuộc sống hàng ngày.

 Đặc điểm cấu trúc của chương trình Toán lớp 1 thì "Các yếu tố hình học" lại nằm xen kẽ ở các nội dung khác, điều này thể hiện tính thống nhất, tích hợp trong cấu trúc nội dung nên được coi là một ưu điểm. Tuy nhiên cũng tạo ra một số khó khăn cho cả giáo viên cũng như học sinh trong quá trình truyền đạt và lĩnh hội tri thức.

 Dạy học các yếu tố hình học được tri giác như một toán thể gắn liền với hình dạng của chúng, chưa chú ý đến việc phân tích các yếu tố, các đặc điểm của hình (học sinh nhận diện phân loại hình trong một tập hợp vật thật, hình vẽ khác nhau về kích thước, màu sắc.).

 Trong thực tế, việc đổi mới phương pháp dạy học của chương trình thay sách đã có nhiều phương pháp giúp học sinh học tốt môn toán nói chung, các yếu tố hình học nói riêng. Song để phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình dạy tôi đã tìm tòi và mạnh dạn áp dụng cách truyền đạt gần nhất để các em hiểu bài. Tuy chưa phải là tối ưu nhưng cũng là tâm huyết của bản thân góp phần vào việc tháo gỡ khó khăn khi dạy các yếu tố hình học trong môn toán cho học sinh lớp 1.

 Xuất phát từ những lí do trên và cũng là để góp phần nâng cao chất lượng dạy học các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1, đề tài : "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1" được nghiên cứu.

 

doc23 trang | Chia sẻ: minhtam111 | Lượt xem: 2835 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài tập có liên quan đến các yếu tố hình học thường được sắp xếp vào cuối bài và xuất hiện rải rác nên giáo viên thường coi đó là bài tập khó dành cho học sinh khá giỏi.
	Những nguyên nhân trên tác động tổng hợp làm cho học sinh thiếu tự tin, không cố gắng vươn lên, kết quả học tập không ổn định.
	Biết được các nguyên nhân đó trước thực trạng đặt ra đòi hỏi người giáo viên phải tự xem xét qúa trình giảng dạy của mình cũng như thường xuyên theo dõi học sinh.	Đây là việc làm vô cùng khó khăn, khó khăn hơn nữa là việc tìm hiểu xem nên áp dụng biện pháp sao cho phù hợp nhất (do đó cần áp dụng hài hoà các phương pháp giảng dạy và giáo dục).
5. Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy các biểu tượng hình học cho học sinh lớp 1:
5.1. Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh hình thành các biểu tượng hình học
	Qua nhiều năm giảng dạy ở lớp 1, tôi nhận thấy việc hình thành các biểu tượng hình học là việc làm quan trọng, quyết định sự thành công trong việc dạy các yếu tố hình học. Nếu giáo viên giúp học sinh hình thành tốt các biểu tượng hình học sẽ giúp các em vận dụng tốt vào việc giải các bài tập có liên quan đến các yếu tốt hình học. Muốn làm được điều đó người giáo viên cần nắm vững mức độ cần đạt của việc hình thành biểu tượng hình học để định hướng đúng phương pháp giảng dạy, không làm quá tải các kiến thức cần truyền đạt.
	Mặt khác, con đường hình thành kiến thức cho học sinh lớp 1 tuân theo sơ đồ: Thao tác trên đồ vật à Mô hình sơ đồ à Kí hiệu (hoặc khái quát khái niệm, kiến thức) toán học. Do đó việc hình thành các biểu tượng hình học, tôi thường tuân theo quy trình sau:
	- Đặt vật mẫu hoặc nêu hình ảnh cụ thể trên màn hình.
	- Giúp học sinh tự phát hiện, hình thành biểu tượng.
	- Khắc sâu biểu tượng.
Ví dụ: Dạy bài Hình vuông – Hình trong (hình tam giác)
	Hình vuông, hình trong, hình tam giác được giới thiệu như một “toàn thể” gắn liền với hình dạng của chúng (không yêu cầu phân tích các yếu tốt đặc điểm của hình).
	Cụ thể với bài “Hình tam giác”:
- Mực tiêu của bài này là giúp học sinh:
+ Nhận ra và nêu đúng tên hình tam giác.
+ Bước đầu nhận ra hình tam giác từ các vật thật.
- Tôi hình thành biểu tượng hình tam giác như sau:
	+ Tôi đưa tấm bìa hình tam giác và giới thiệu tên hình: “Đây là hình tam giác” nhằm giúp học sinh nhận ra một “vật mẫu”. Sau đó tôi dịch chuyển mẫu vật đến những vị trí khác nhau hoặc đưa ra một số hình tam giác khác, cho học sinh quan sát và trả lời: “Đó cũng là những hình tam giác”.
	+ Cho học sinh chọn trong hộp đồ dùng học toán một số hình tam giác. Gọi một số giơ hình tam giác lên và nói “hình tam giác”. Sau đó tìm trong thực tế những đồ vật có dạng hình tam giác như lá cờ đuôi nheo, biển báo giao thông...
	Học sinh quan sát và thao tác trên các mẫu vật đồng thời tiếp nhận thông tin của giáo viên, từ đó có biểu tượng cụ thể về “hình tam giác”.
	Tôi vẽ hình tam giác trên bảng và nói “Đây là hình tam giác” trên cơ sở đó học sinh sẽ tri giác trên những mô hình hình học. Giáo viên cần chú ý xếp đặt các hình cạnh nhau (vd: hình vuông đặt cạnh hình tròn) để học sinh tập so sánh, đối chiều các hình.
5.2. Biện pháp 2: Vận dụng tốt các phương pháp dạy học toán
	Để giúp học sinh nắm vững, khắc sâu các biểu tượng hình học cơ bản và làm được tất cả các bài tập trong sách giáo khoa, tôi đã vận dụng một số phương pháp sau vào các tiết dạy có chứa các yếu tố hình học:
* Phương pháp trực quan;
	Đối với học sinh lớp , việc nhận thức của các em còn mang tính cụ thể, luôn gắn liền với các hình ảnh và biểu tượng cụ thể nên việc sử dụng phương pháp trực quan là rất cần thiết.
	Nhờ phương pháp này, các biểu tượng hình học sẽ được hình thành qua những hình ảnh cụ thể và dễ dàng khắc sâu vào tâm trí các em. Từ đó các em được bổ sung thêm vốn hiểu biết thực tế cũng như phát triển được năng lực tư duy trừu tượng và trí tưởng tượng phong phú.
	Khi sử dụng phương pháp trực quan tôi luôn chú ý các yêu cầu sau đây;
	- Chuẩn bị chu đáo các phương triện và đồ dùng trực quan phù hợp với từng giai đoạn học tập của học sinh.
	- Xác định rõ ràng mục đích cũng như cách thức và tiến trình sử dụng, trình diễn các phương tiện, đồ dùng trực quan.
	- Xây dựng hệ thống câu hỏi và hoạt động làm mẫu nhằm giúp học sinh thực hiện các hoạt động thực hành trên các phương tiện đồ dùng trực quan. Dự kiến những khó khăn sai lầm mà học sinh có thể mắc phải.
	- Bố trí, sắp đặt vị trí các phương tiện đồ dùng trực quan một cách hợp lí để thuận tiện trong sử dụng. Với bất kì đồ dùng dạy học nào, tôi cũng cố gắng làm thật chuẩn, kích thước và màu sác có thể khác nhau những không quá cầu kì để làm nổi bật các dấu hiệu bản chất của khái niệm.
	Điều quan trọng nhất là tôi luôn động viên, hướng dẫn các em tự sử dụng bộ đồ dùng học Toán của mình để tự phát hiện, tìm tòi biểu tượng hình học của bài.
Ví dụ: Dạy bài Hình vuông – Hình tròn, tôi sử dụng phương pháp trực quan vào việc hình thành biểu tượng hình vuông như sau:
	- Gắn các tấm bìa hình vuông có màu sắc và có kích thước khác nhau lên bảng rồi yêu cầu học sinh quan sát.
	- Giới thiệu tên gọi “Đậy là hình vuông” và yêu cầu học sinh nhắc lại tên gọi đó.
	- Xoay hình vuông ở các vị trí khác nhau cho học sinh nhắc tên hình vuông.
	- Yêu cầu các em lấy đúng hình vuông trong bộ học Toán và giơ lên. Nếu em nào lấy sai, tôi sẽ cho các em khác phát hiện và nhận xét nhưng hình mẫu có màu sắc, kích thước khác nhau nhằm khắc sâu biểu tượng hình học vừa học.
	- Cho học sinh tìm trong thực tế các đồ vật có dạng hình vuông.
* Phương pháp thực hành, luyện tập:
	Phương pháp này tôi thường sử dụng khi cho học sinh lựa chọn đúng các hình theo yêu cầu, thực hành vẽ lại các hình đã học, chọn và tô màu hình theo yêu cầu hoặc làm thêm bài tập nâng cao. Khi đó, tôi thường cho học sinh làm việc cá nhân hoặc thực hành theo tổ, nhóm.
	Với những bài toán đến số đoạn thẳng, số hình tam giác, số hình vuông có hình tạo bởi nhiều hình thì trước hết tôi yêu cầu các em phải phân biệt và nhận biết chính xác từng hình rồi mới đếm.
	Nếu hình vẽ có hình tạo bởi một số hình khác thì tôi có thể cho học sinh đánh số các hình rời rạc sau đó mới nhận biết các hình ghép bằng cách vẽ riêng ra
 hoặc cắt ghép hình bằng giấy.
Ví dụ: Bài 5-trang 42-Toán 1. Hình vẽ bên có mấy hình tam giác ?
- Hướng dẫn: Giáo viên vẽ hình lên bảng à Cho học sinh đánh số vào các hình giác đơn lẻ: 1, 2.
1
2
	- Dùng phấn mầu tô vào tam giác 1 và 2 à Từ đó ta có tam giác thứ 3. Vậy hình trên có 3 hình tam giác (giáo viên có thể mô tả bằng cách cắt giấy, ghép hình cho học sinh quan sát rõ hơn).
	Với các bài sắp xếp hình theo mẫu, tôi luôn nhắc các em tìm ra quy luật rồi mới xếp.
	Việc rèn luyện thường xuyên như vậy đã giúp các em được củng cố và khắc sâu thêm từng biểu tượng hình học và không bị nhầm lẫn giữa các biểu tượng đã học.
	Để học sinh được thực hành, vận dụng kiến thức phù hợp với đối tượng học sinh khá giỏi, ngoài các bài tập trong sách giáo khoa, tôi còn đưa thêm các tiết hướng dẫn học một số bài tập như sau:
- Tô màu hình tam giác:
- Tô màu hình vuông:
- Dùng thước thẳng và nối để được 6 đoạn thẳng:
a, 	M — 	b, 	A —	— B
	— N
	P —
	— Q	D —	— C
- Hình vẽ bên:
+ Có .... đoạn thẳng.
+ Có .... hình tam giác.
+ Có .... hình vuông.
Việc thêm một số bài tập có yếu tố hình học trong các tiết hướng dẫn học như vậy giúp các em củng cố khắc sâu biểu tượng hình học, rèn luyện trí tượng hình học không gian.
* Phương pháp gợi mở, vấn đáp:
	Sử dụng phương pháp này tôi đưa một số câu hỏi để hướng dẫn cho học sinh suy nghĩ và lần lượt trả lời từng câu hỏi. Qua đó tạo cho học sinh tính tích cực, chủ động độc lập suy nghĩ giúp cho không khí lớp học thêm sôi nổi, sinh động. Khi sử dụng phương pháp này, tôi chú ý động viên các em nhận xét đúng, sai cho bạn, sau đó mới tổng kết lại. Đặc biệt, tôi còn khuyến khích các em tự đặt câu hỏi để các bạn khác trả lời.
Ví dụ: 	- Nối 3 điểm khác nhau, bạn được hình gì?
	- Muốn xếp được hình tam giác, bạn cần mấy que tính ?
	- Đố bạn, khăm mùi xoa này hình gì ? ...
	Trong mỗi tiết dạy có chứa các yếu tố hình học, tôi đều cố gắng kết hợp khéo léo cả ba phương pháp trên để tiết dạy đạt kết quả cao nhất. Tuy nhiên, phương pháp trực quan vẫn được tôi áp dụng nhiều nhất. Trong giai đoạn hình thành biểu tượng cho học sinh, ngoài việc đồ dùng trực quan một cách hợp lí, tôi còn chú ý nâng cao kiến thức bằng cách gợi ý để học sinh tìm ra nhiều ví dụ minh họa trong thực tế cuộc sống hàng ngày như: Điểm (đầu đinh, đầu mũi kim...), đoạn thẳng (một sợi chỉ, một sợi dây chun (căng giữa hai đầu đinh)), hình tròn (miệng giếng, nắp lọ mực, bánh xe đạp...), hình vuông (viên gạch lát nền, khăn mùi xoa...).
5.3. Biện pháp 3: Tổ chức dạy học theo nhóm
Dạy học theo nhóm là hình thức giảng dạy học sinh vào môi trường học tập tích cực, trong đó học sinh được khuyến khích thảo luận và hướng dẫn làm việc hợp tác với nhau.
- Tác dụng của dạy học hợp tác theo nhóm trong môn Toán:
+ Góp phần tạo ý thức tự chủ, độc lập cho học sinh.
+ Tạo cơ hội để học lắng nghe ý kiến của người khác, tập thể hiện ý kiến của bản thân.
+ Tạo cơ hội để học sinh nâng cao năng lực hợp tác, biết đánh giá ý kiến của bạn, xác định trách nhiệm của cá nhân trong tập thể.
	- Muốn hoạt động nhóm đạt kết quả tốt cần đảm bảo các yêu cầu sau:
	+ Mỗi thành viên trong nhóm đều biết và hiểu công việc của nhóm, của bản thân (làm bài tập, đo, vẽ, gấp...), không ỷ lại vào thành viên khác trong nhóm.
	+ Mọi thành viên đều lắng nghe ý kiến của nhau, thoải mái khi phân tích và nói ra những điều mình suy nghĩ.
	+ Vai trò của từng thành viên trong nhóm được thực hiện luân phiên.
	+ Tránh lạm dụng chia nhóm một cách tự nhiên không cần thiết, không mất thời gian.
	Chính vì thế giáo viên cân có sự chuẩn bị kĩ càng trước khi lên lớp từ cách tổ chức, gio việc để tránh gây lộn xộn hoặc học sinh không nắm bắt được yêu cầu kiến thức của tiết học. Muốn vậy giáo viên cần chú ý:
	- Mệnh lệnh đưa ra rõ ràng, ngắn gọn (chia nhóm nhỏ, lớn).
	- Giao việc cụ thể cho từng nhóm.
	- Phân công nhiệm vụ cho các em.
Ví dụ: Dạy bài Luyện tập chung (Tiết 23-Tuần 6)
	Với bài 5: Xếp các hình theo mẫu:
	Tôi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi để tìm ra quy luật sắp xếp: Cứ xếp hai hình vuông lại xếp 1 hình tròn theo hàng ngang. Sau đó học sinh xếp theo mẫu.
	Như vậy với việc sử dụng hình thức thảo luận nhóm trong dạy học các yếu tố hình học, học sinh được trao đổi, bày tỏ ý kiến, hợp tác với bạn bè để tìm ra cách kẻ, vẽ, xếp hình... để giải quyết một bài tập. 
Không những thế học sinh còn biết nhiều cách kẻ, vẽ, xếp hình... với cùng một bài tập. Từ có phát huy được trí tưởng tượng hình học không gian, phát triển được ngôn ngữ toán học.
5.4. Biện pháp 4: Tăng cường sử dụng các trò chơi học tập
	Một trong các yêu cầu dạy toán ở lớp 1 là phải “hấp dẫn’ được trẻ, tạo hứng thú học tập cho trẻ, phải phù hợp lứa tuổi của trẻ mới qua “mẫu giáo” bước vào “phổ thông”.
	Đối với lớp 1, chơi cũng là một nhu cầu không thể thiếu được. Vì vậy việc sử dụng các trò chơi học tập trong giờ học toán là hết sức cần thiết và có ích.
* Trò chơi học toán có tác dụng giúp học sinh:
	- Thay đổi hình thức hoạt động trên lớp, làm không khí lớp học thoải mái, dễ chịu, học sinh tiếp thu kiến thức tích cực hơn.
	- Tăng cường khả năng thực hành, vận dụng các kiến thức đã học.
	- Phát triển hứng thú, tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận.
	- Trò chơi chứa đựng các yếu tố hình học trò chơi còn giúp cho học sinh phát huy tính tích cực, phát triển trí tưởng tượng.
	Chính vì vậy trong các tiết học có liên quan đến các yếu tố hình học hoặc các tiết hoạt động tập thể, tôi thường đưa ra các trò chơi có chứa đựng các yếu tố hình học.
* Khi tổ chức trò chơi giáo viên cần lưu ý:
	- Công tác chuẩn bị phải chu đáo. Dụng cụ của trò chơi phải đơn giản, dễ làm, đẹp mắt.
	- Tổ chức cách chơi cần đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, thu hút được nhiều học sinh tham gia.
	- Luôn quan tâm, khích lệ, động viên, khuyến khích tinh thần “thi đua” của học sinh tham gia, nhưng phải tránh làm lúng túng những học sinh không hoàn thành nhiệm vụ.
* Cách tổ chức trò chơi:
	- Giới thiệu và nêu cách chơi.
	- Tiến hành chơi.
	- Đánh giá kết quả chơi.
Ví dụ: Trò chơi Ghép hình (dạy cuối bài Luyện tập – Trang 9)
* Mục đích: Rèn luyện trí tưởng tượng, linh hoạt, sáng tạo cho học sinh.
* Chuẩn bị:
- Mỗi học sinh chuẩn bị 1 hình vuông, 2 hình tam giác (trong bộ đồ dùng học Toán) như sau:
- Giáo viên vẽ sẵn các hình sau trên bảng:
* Cách chơi:
	- Chơi theo nhóm, mỗi nhóm 6 học sinh.
	- Mỗi nhóm sẽ dùng các hình vuông và hình tam giác để ghép thành 6 hình mà giáo viên đã vẽ mẫu ở trên (mỗi hình đều được ghép bởi 2 hình tam giác và 1 hình vuông). Nhóm nào làm xong trước sẽ thắng cuộc.
6. Kết quả:
	Với việc áp dụng thường xuyên các biện pháp trên, việc học các yếu tốt hình học của học sinh lớp tôi đã đạt được một số tiến bộ, tiết học đạt hiệu quả hơn thể hiện qua một số điểm sau:
	- Học sinh chăm chú say mê học Toán, các em không ngại khi giải các bài toán có chứa các yếu tố hình học. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. 
	- Trong mỗi tiết học, giáo viên và học sinh dễ phối hợp làm việc nhịp nhàng, tạo ra không khí học tập sôi nổi, hào hứng, thu hút được cả những em còn mải chơi, lười suy nghĩ.
	- Các bài tập đến, nhận dạng hình, xếp hình... đa dạng, phong phú trong suốt chương trình học Toán đã giúp các em luôn được củng cổ và khắc sâu các biểu tượng hình học, tạo điều kiện thuận lợi cho việc học các khái niệm mới ở lớp trên.
	Kết quả cụ thể như sau:
Các đợt khảo sát
Đầu năm
Cuối HK I
SL
TL
SL
TL
Số HS nắm chắc các biểu tượng hình học cơ bản
08
16%
45
90%
Số HS mơ hồ các biểu tượng hình học cơ bản
35
70%
05
10%
Số HS chưa nắm được các biểu tượng hình học cơ bản
07
14%
0
0
7. Giáo án minh họa:
ĐỘ DÀI ĐOẠN THẲNG
I. Mục tiêu:
	- Giúp học sinh có biểu tượng về "Dài hơn - ngắn hơn" từ đó có biểu tượng về độ dài đoạn thẳng thông qua đặc tính dài ngắn của chúng.
	- Học sinh biết so sánh độ dài hai đoạn thẳng tuỳ ý bằng hai cách : So sánh 
trực tiếp hoặc so sánh gián tiếp qua độ dài trung gian.
	- Học sinh có ý thức tham gia tích cực các hoạt động học tập.
II. Đồ dùng:
	- Giáo viên: 2 băng giấy xanh - đỏ dài ngắn khác nhau, 2 bút chì.
	- Học sinh: Bút màu xanh - đỏ ( để chơi trò chơi), VBT.
III. Các hoạt động dạy – học:
TL
Nội dung
Hoạt động 
của giáo viên
Hoạt động 
của học sinh
5'
1'
12'
A. Kiểm tra bài cũ:
B, Bài mới.
* HĐ1: Giới thiệu bài:
* HĐ2: Nội dung
a) Dạy biểu tượng "Dài hơn - ngắn hơn" và so sánh độ dài qua hai đoạn thẳng.
b) So sánh độ dài bằng cách đo dán tiếp qua độ dài trung gian ( Gang tay ).
* Trò chơi giữa giờ:
* HĐ3: Thực hành.
Bài 1.
 Bài 2.
 Bài 3.
Bài 4.
c) Củng cố - dặn dò.
- Giáo viên vẽ 4 điểm lên bảng
- Gọi hai học sinh lên bảng vẽ hai đoạn thẳng lên bảng (AB,CD)
- Lớp nhận xét, giáo viên nhận xét chung đánh giá.
Để biết cách so sánh dộ dài hai đoạn thẳng. Hôm nay các em học bài: Độ dài đoạn thẳng.
Giáo viên dán 2 băng giấy xanh - đỏ lên bảng ( như hình vẽ).
Hỏi: Làm thế nào để biết băng giấy nào dài, băng giấy nào ngắn?
- Giáo viên gợi ý học sinh để hai đầu bằng nhau...
- Gọi học sinh nêu kết quả so sánh: Băng giấy mầu xanh ngắn hơn băng giấy mầu đỏ và ngược lại.
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát cách đo trong sách giáo khoa.
Giáo viên : Người ta có thể so sánh độ dài đoạn thẳng với độ dài gang tay.
Hỏi: Đoạn thẳng đã cho dài mấy gang tay? 
 Giáo viên chốt: Có thể so sánh độ dài 2 đoạn thẳng bằng cách tính số khoảng (hay ô li) có trong mỗi đoạn.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi:
Phổ biến luật chơi: Có 2 đội mỗi đội 2 em. Có 2 bút xanh và 2 bút đỏ - Tô màu xanh vào hai băng giấy, băng giấy ngắn tô màu đỏ, băng giấy dài tô màu xanh. Từng em tô một.
- Giáo viên nhận xét tuyên dương đội thắng.
- Giáo viên làm mẫu phần a.
- Giáo viên chữa bài
- Nhận xét chung kết quả, kích lệ một số em làm tốt.
- Giáo viên treo bảng phụ vẽ sẵn hình (như sách)
- Gọi 3 em lên bảng - lớp làm VBT.
Gv kết luận chung.
- Thực hện như bài tập 2 xong 2 em lên tô màu xem em nào đúng và nhanh hơn.
- Giáo viên động viên, tuyên dương.
- Giáo viên kiểm tra trong lớp ai đúng , ai sai
Hỏi: Có mấy cách để biết đoạn thẳng nào dài, đoạn thẳng nào ngắn?
- Dặn học sinh về nhà tập so sánh độ dài các cạnh của quyển sách, vở, bàn..
- 2HS vẽ 
- HS lắng nghe
- Học sinh so sánh.
- HS thực hành so sánh 2 đoạn thẳng AB và CD trong sách.
- 2 HS lên bảng so sánh 2 que tính (bút chì) khác màu nhau.
- HS quan sát
- HS trả lời : 3 gang tay
- HS quan sát hình cón lại trong sách , tự rút ra kết luận: Đoạn trên dài 1 ô li, đoạn dưới dài 3 ô li (Đoạn trên ngắn hơn đoạn dưới - Ngược lại)
- HS tiến hành chơi: Gv treo 2 bảng dán sẵn băng giấy. Dứt hiệu lệnh 2 bên lên tô.
- Đội nào tô nhanh ngắn, gọn sẽ thắng.
- HS lắng nghe
- Học sinh tự làm vào vở.
- Các cặp đổi vở kiểm tra, báo cáo.
- 3 HS lên bảng
- Hs nêu nhận xét. 
- Học sinh làm vào vở.
- Đổi vở kiểm tra, chữa bài.
ĐỀ KIỂM TRA (PHIẾU)
Yêu cầu: Học sinh làm loại toán các yếu tố hình học 
Bài 1: Đúng ghi (đ), sai ghi (s) vào ô trống:
 1
2
 3
 4
1- Đoạn 1 ngắn nhất 
	2- Đoạn 4 dài hơn đoạn 1 
	3- Đoạn 4 ngằn hơn đoạn 3 
	4- Đoạn 3 dài hơn đoạn 2 
	5- Đoạn 3 dài bằng đoạn 2 
	6- Đoạn 4 dài nhất 
Bài 2: Dùng bút và thước để nối:
	1) Thành đoạn thẳng
2) Có đoạn thẳng
Bài 3:
	Đoạn thẳng AB dài cm.
	Đoạn thẳng CD dài cm.
	Cả hai đoạn thẳng AB và CD dài cm.
	Đoạn thẳng AB dài hơn đoạn thẳng CD cm.
ĐÁP ÁN BIỂU ĐIỂM
Bài 1: 3 điểm (Mỗi ý đúng 0,5 điểm)
	Đúng: 1, 2, 5, 6
	Sai: 3, 4
Bài 2: 3 điểm (Mỗi ý đúng 0,5 điểm)
	1- Có 6 đoạn thẳng (thiếu 1 đoạn thẳng trừ 0,25 điểm)
	2 - Có 6 đoạn thẳng (thiếu 1 đoạn thẳng trừ 0,25 điểm)
Bài 3: 4 điểm (Mỗi ý đúng 1 điểm)
	- Đoạn thẳng AB dài 4 cm.
	- Đoạn thẳng CD dài 2 cm.
	- Cả 2 đoạn thẳng AB và CD dài 6 cm.
	- Đoạn thẳng AB dài hơn đoạn thẳng CD 2 cm.
PHẦN III - KẾT LUẬN 
	Vấn đề khắc phục khó khăn trong học toán với học sinh lớp 1 không phải là việc đơn giản, có thể đổi mới ngay trong thời gian ngắn. Đứng về phía giáo viên, muốn khắc phục khó khăn này trước hết phải đổi mới tư duy và phương pháp giảng dạy, phải có lòng yêu nghề, mến trẻ và luôn luôn tìm tòi cách giảng dạy sao cho dễ hiểu nhất đến học sinh, tích cực chủ động tổ chức các trò chơi học tập, gây hứng thú học tập cho các em hơn nữa. Phải có sự kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, giúp học sinh hiểu rõ tầm quan trọng của việc học.
	Do thời gian còn hạn chế nên tôi chưa kịp thực nghiệm được nhiều, song qua tiết dạy phần nào cũng thấy được nhiều mặt tích cực của phương án mà mình đã đề ra. Điều này khẳng định nếu người giáo viên cố gắng, nhiệt tình và nỗ lực trong việc giúp học sinh khắc phục khó khăn khi học các yếu tố hình học. Không chỉ cải tiến về giáo án mà cả cách tổ chức giờ dạy, cho học sinh thường xuyên được thực hành trong lớp cũng như ngoài lớp, tự mình phát hiện, tìm ra kiến thức từ đó có lòng yêu thích, say mê học toán cũng như các môn học khác.
	Mặc dù phương pháp mà tôi đề xuất ở trên thu được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy vậy, các phương pháp giảng dạy đó chưa hẳn là duy nhất và tối ưu. Vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của Ban giám hiệu nhà trường và Hội đồng khoa học giáo dục.
	Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA 
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ 
Hà Nội, ngày 08 tháng 3 năm 2019
Người viết
Cao Thị Thu Hà
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP QUẬN
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
TÊN TÁC GIẢ
TÊN TÀI LIỆU
NHÀ XUẤT BẢN
1
Vũ Quốc Chung
Phương pháp 
 dạy các yếu tố hình học ở tiểu học 
Nhà xuất bản Giáo dục
2
Đỗ Đình Hoan
Sách giáo khoa toán 1
Nhà xuất bản Giáo dục
3
Đỗ Đình Hoan
Sách giáo viên toán 1
Nhà xuất bản Giáo dục
4
Đỗ Đình Hoan
Vở bài tập toán 1
Nhà xuất bản Giáo dục
5
Đỗ Đình Hoan
Một số vấn đề về môn toán bậc tiểu học 
Nhà xuất bản Giáo dục
6
Trần Trọng
 Thuỷ
Tâm lí học
Nhà xuất bản Giáo dục

File đính kèm:

  • docToan 1 Ha THTrungTu.doc.doc
Sáng Kiến Liên Quan