Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ ở trường mầm non
Ngôn ngữ có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em. Ngôn ngữ là phương tiện giữ gìn bảo tồn, truyền đạt và phát triển những kinh nghiệm lịch sử và phát triển xã hội của loài người. Trẻ em sinh ra đầu tiên là những cơ thể sinh học, nhờ có ngôn ngữ là phương tiện giao lưu bằng hoạt động tích cực của mình dưới sự giáo dục và dạy học của người lớn trẻ em dần chiếm lĩnh được những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn.
ười và biến nó thành cái riêng của mình. Trẻ em lĩnh hội ngôn ngữ sẽ trở thành những chủ thể có ý thức, lĩnh hội kinh nghiệm của loài người xây dựng xã hội ngày càng phát triển hơn. 2.1. Thực trạng: Năm học 2018 - 2019 bản thân tôi được phân công dạy nhóm trẻ 24-36 tháng tuổi, nhận thấy việc giúp trẻ 24 - 36 tháng tuổi phát triển mở rộng các loại vốn từ, biết sử dụng nhiều loại câu bằng cách thường xuyên nói chuyện với trẻ về những sự vật, hiện tượng, hình ảnhmà trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ biết đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng từ đó hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, bản thân tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau: 2.1.1 Thuận lợi: Lớp được phân chia theo đúng độ tuổi quy định. Đa số trẻ đi học rất đều, trẻ thông minh, có khả năng tiếp thu khá nhanh. Giáo viên nhiệt tình làm đồ dùng đồ chơi sáng tạo phục vụ cho việc cung cấp và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về mầu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập các lớp chuyên đề do nhà trường tổ chức. Giáo viên trong lớp có sự phối hợp nhau trong công tác giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ. Luôn được sự ủng hộ của phụ huynh. Bản thân luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường 2.1.2. Khó khăn Nhóm trẻ 24 - 36 tháng do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, có nhiều trẻ nhút nhát rụt rè, một số cháu phát âm chưa chuẩn. Các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp. Các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và tính cách khác nhau. Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. Nhiều trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng 2.1.3. Điều tra thực tiễn: Thời gian Nội dung Số trẻ đạt Tỷ lệ % Số trẻ chưa đạt Tỷ lệ % 8/2018 Khả năng nghe hiểu ngôn ngữ và phát âm 4 28,6% 10 71,4% Vốn từ của trẻ 6 43% 8 57% Khả năng nói đúng ngữ pháp 4 28,6% 10 71,4% Khả năng giao tiếp 5 36% 9 64% 2.1.4. Nguyên nhân: Đa số phụ huynh chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của ngôn ngữ. Một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên chưa thực sự quan tâm đến việc phát triển ngôn ngữ vốn từ cho trẻ mà giao phó hoàn toàn cho cô giáo ở trường. 2.2 Các biện pháp thực hiện: Qua quá trình tiếp xúc với trẻ bản thân tôi thấy rất lo lắng về vấn đề này và tôi nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người. Từ thực trạng trên, tôi cùng với giáo viên trong lớp đã mạnh dạn tìm ra biện pháp để khắc phục. Biện pháp thứ nhất: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi * Thông qua giờ đón trẻ Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ.Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mớii có thể cung cấp, mở rộng vốn từ cho trẻ. Ví dụ: Cô trò chuyện với trẻ về bản thân, và gia đình của trẻ: + Con tên là gì? + Gia đình con có những ai? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Mẹ con đưa đi bằng phương tiện gì? Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộng và phát triển hơn. Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi luôn nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép, biết vâng lời. * Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: xích đu, cầu trượt, bập bênh. Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa, mọi vật ở vườn trường và hỏi trẻ: + Con thấy bông hoa này có màu gì? (Trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to không? (Có ạ) + Thế lá cây màu gì? (Màu xanh ạ) + Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không? (Có ạ) + Con gì vậy? (Con chim) * Giáo dục: + Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khoẻ của con người các con không được hái hoa, bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ) Qua những câu hỏi mà cô đặt racho trẻ sẽ giúp trẻ tích luỹ được những vốn từ mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có nghĩa, nói tắt. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhắc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại lời cô nói. * Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình trẻ chơi sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung khác nhau. Ví dụ: Trò chơi trong góc “đóng vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày. + Con đã cho em búp bê ăn chưa? (Chưa ạ) + Khi cho búp bê ăn con nhớ đeo yếm vào để cháo không dây ra áo của búp bê nhé! (Vâng ạ) + Trẻ đóng vai mẹ cho em búp bê ăn: Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! ! (Trẻ âu yếm em búp bê). Thông qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người. Ví dụ: Ở góc “Bé khéo tay” cũng ở chủ điểm “bé và các bạn” tôi chuẩn bị giấy, bút sáp cho trẻ tô màu bàn tay. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ: + Con đang làm gì vậy? (Con tô màu ạ) + Con đang tô hình gì? (hình bàn tay ạ) + Con chọn màu gì tô hình bàn tay đây? ( màu vàng ạ) Như vậy bằng hoạt động tô màu không những rèn cho trẻ sự khéo léo của đôi bàn tay mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Biên pháp thứ 2: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học khác. * Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là hoạt động quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 24 - 36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc. Ví dụ: Bài nhận biết “đôi dép” Khi vào bài tôi đặt câu đố: Ai muốn chân sạch Thì dùng đến tôi Nhưng phải một đôi Đôi gì thế nhỉ? (đôi dép) Trẻ trả lời đó là đôi dép tôi đưa đôi dép cho trẻ xem và hỏi: + cái gì đây? (đôi dép ạ) + Đôi dép có màu gì? (Màu vàng ạ) + Đôi dép dùng để làm gì? (Dùng để mang vào chân ạ) Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ về giữ gìn vệ sinh. * Thông qua giờ thơ, truyện Trong tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện. Để giờ hoạt động thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành ngôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo: + Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ. + Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu chuyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi. + Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc, kể phải diễn cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của các nhân vật. Ví dụ 1: Trẻ nghe câu chuyện “Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “Bới đất”. (Các con ạ, những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân để bới đất, đào đất lên để tìm thức ăn cho mình, khi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: + Hai bạn Gà và Vịt trong truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ) + Vịt kiếm ăn ở đâu? (Dưới ao) + Thế còn bạn Gà kiếm ăn ở đâu? (Trên bãi cỏ) + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? (Bới đất tìm giun) + Khi hai bạn đang kiếm ăn thì con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo) + Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? (Gà nhảy lên lưng Vịt, Vịt bơi ra xa). + Qua câu chuyện con thấy tình bạn của hai bạn Gà và Vịt ra sao? (Thương yêu nhau) + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? (Giúp đỡ bạn ạ). - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn. Ví dụ: Trong câu truyện “Cháu chào ông ạ” ngoài việc giúp trẻ thể hiện ngữ điệu, sắc thái tình cảm của các nhân vật trong truyện tôi còn sửa sai những từ trẻ hay nói ngọng để giúp trẻ phát âm chuẩn và động viên những trẻ nhút nhát mạnh dạn hơn khi trả lời. Mỗi khi trẻ nói sai tôi dừng lại sửa sai luôn cho trẻ bằng cách: tôi nói mẫu cho trẻ nghe 1-2 lần sau đó yêu cầu trẻ nói theo. Hay khi dạy chuyện “Thỏ ngoan” thể hiện sắc thái, ngữ điệu nhân vật sẽ cuốn hút rất nhiều trẻ tham gia đặc biệt những trẻ nhút nhát qua đó cũng mạnh dạn hơn. Đối với những trẻ đó tôi động viên, khích lệ trẻ kịp thời. - Tôi cho trẻ thể hiện ngữ điệu của các nhân vật trong truyện “Thỏ ngoan” + Giọng Bác Gấu bị mưa rét thì ồm ồm và run, nét mặt buồn. + Giọng con Cáo thì gắt gỏng, nét mặt kênh kiệu. + Giọng Thỏ thì ân cần, niềm nở. - Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ mà còn phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách toàn diện. Trẻ nhớ nội dung câu truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện để tiếp thu kiến thức. *Thông qua giờ âm nhạc: Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật (Trống, lắc, phách tre, xúc xắc, xắc xô và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích luỹ và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc. Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát. Ví dụ: Hát và vận động bài “đôi dép” Đôi dép xinh Đôi dép xinh xinh. Cháu giữ cho Hai chân trắng tinh Đôi dép xinh Đôi dép xinh xinh. Chân cháu trắng tinh Đôi dép xinh xinh. (Trẻ nhún đong dưa theo nhịp) * Phát triển ngôn ngữ thông qua một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng “số vốn từ” đó một cách thành thạo. Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái. Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. * Trò chơi: “Cái gì? Dùng để làm gì?” Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển: * Chuẩn bị: + Đồ dùng để ăn uống (Bát, thìa, cốc, ca) + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ) + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau. * Tiến hành: Tôi cho trẻ ngồi xúm xít xung quanh cô. Cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì? Cô nói: + Cái bát dùng để làm gì? (Cái bát đựng cơm) + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước) + Cái mũ để làm gì? (Cái mũ để đội) + Cái áo để làm gì? (Cái áo để mặc) Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng. * Thông qua giờ vận động: Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành tàu hoả cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một toa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát: “Đoàn tàu tí hon”, “Tàu vào ga”...vận dụng vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn: + Cái vòng này có màu gì hả con? (Màu đỏ ạ) + Thế còn cái vòng này có màu gì đây? (Màu vàng ạ) + Cái vòng dùng để làm gì con có biết không? (để học, để chơi trò chơi ạ) + Con sẽ chơi gì với vòng? (Con lái ô tô ạ) Biện pháp thứ 3: Trang trí lớp học, các góc chơi, làm đô dùng đồ chơi theo từng chủ đề phong phú, bắt mắt, hấp dẫn trẻ. Trẻ nhà trẻ hoạt động với đồ vật, việc trang trí lớp học, các góc chơi, làm đồ dùng đồ chơi theo từng chủ đề phong phú, bắt mắt, hấp dẫn trẻ là một nội dung quan trọng để từ đó thông qua việc cùng trẻ chơi với các đồ chơi đồ vật sẽ phát triển vốn từ, ngôn ngữ cho trẻ. Ví dụ: Giáo viên tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thế sử dụng làm đồ dùng đồ chơi như lịch cũ, ống lon, chai nhựa ... giáo viên làm ra những đồ dùng chơi như bức tranh, mũ, dép, bát, chén, bình hoa, cây xanh.... khi trẻ chơi cô đến gần trò chuyện hỏi trẻ qua đó cung cấp vốn từ thêm cho trẻ. Dựa vào từng chủ đề lên kế hoạch làm đồ dùng, đồ chơi một cách cụ thể. Mỗi chủ đề đều có bộ đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc học, vui chơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Biện pháp thứ 4: Phối hợp tuyên truyền với phụ huynh: Trao đổi tuyên truyền với phụ huynh cố gắng dành thời gian để trò chuyện, tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng, mạnh lạc, tốc độ vừa nghe để trẻ nghe cho dễ. Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng, không nên bắt trước những từ trẻ nói ngọng mà cần phải sửa sai ngay những từ trẻ nói sai cho trẻ để trẻ bắt chước được cho đúng. Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, tập cho trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác... Ví dụ: Bố mẹ khi đón trẻ về nhà thường xuyên trò chuyện cùng trẻ như: Hôm nay con đi học cô cho con ăn gì? Đến lớp con có ngoan không? Hôm nay cô dạy con bài thơ gì?....Từ những câu hỏi trò chuyện đơn giản như vậy cũng đã góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Qua quá trình thực hiện và áp dụng những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả đáng phấn khởi như sau: *Đối với giáo viên: Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ trong trường mầm non thông qua các hoạt động, các bài thơ, câu chuyện, các trò chơi và bằng trải nghiệm thực tế. Luôn tìm tòi các kiến thức chăm sóc - giáo dục trẻ để nắm vững các nội dung, phương pháp, kỹ năng để truyền đạt cho trẻ giúp trẻ lễ phép, tự tin, tự lập và biết hợp tác với cô giáo và các bạn. Thường xuyên dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Nghiêm túc thực hiện các tiết dạy, đặc biệt lồng ghép giáo dục phát triển ngôn ngữ thông qua các tiết dạy. Xây dựng góc tuyên truyền giáo dục phát triển ngôn ngữ và tích cực phối hợp với phụ huynh qua giờ đón, trả trẻ hàng ngày cùng giáo dục trẻ. *Đối với trẻ: Trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong lớp, với mọi người xung quanh. Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với đầu năm học. Trẻ đã phát âm được cả câu trọn vẹn. Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất nhiều. Trẻ có ý thức trong các giờ học. Trẻ có thái độ tích cực, đoàn kếtthích tham gia vào các hoạt động cùng cô. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao tiếp. Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ đã tiến bộ rõ rệt. * Đối với phụ huynh: Phụ huynh có nhận thức đúng đắn về chuyên đề. Phụ huynh rất phấn khởi, yên tâm khi thấy con em mình lễ phép, tự tin, biết tự phục vụ bản thân không những ở trường cũng như ở nhà nên đã đóng góp tranh ảnh, một số trang thiết bị cơ bản cho cô và trẻ có tương đối đầy đủ đồ dùng học tập, thực hành tốt hơn. 3- KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: “Phát triển ngôn ngữ” cho trẻ ở trường mầm non là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. “Phát triển ngôn ngữ” giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống giao tiếp hàng ngày và hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển tâm lý nhận thức của trẻ nói riêng, đặc biệt là trẻ lứa tuổi 24 - 36 tháng khả năng ngôn ngữ phát triển rất nhanh. Việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiện cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các con, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và trường mầm non nơi tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đề xuất như sau: *Đối với Nhà trường: Nhà trường luôn tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề phát triển ngôn ngữ để giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ. * Đối với giáo viên: Trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ, giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo. Thường xuyên thay đổi các hình thức và sử dụng các thủ thuật, giúp trẻ hứng thú và hoạt động một cách tích cực. Biết vận dụng biện pháp lồng ghép tích cực các hình thức tổ chức một cách khoa học, nhẹ nhàng, thoải mái để khai thác tối đa hoạt động phát triển ngôn ngữ. Bản thân mỗi giáo viên không ngừng học tập, trau dồi kiến thức để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và trình độ nhận thức. * Đối với phụ huynh: Đưa đón con em đi học đúng giờ và chuyên cần để đảm bảo trẻ được tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống, liên tục.Trao đổi, phối hợp với giáo viên trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ để có biện pháp giáo dục mềm dẻo, phù hợp với trẻ ở nhà. Phụ huynh cần tạo điều kiện giúp đỡ cho giáo viên trong việc sưu tầm các nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương để giáo viên làm đồ dùng đồ chơi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ mà tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp trẻ phát triển về mọi mặt đạo đức, nhân cách, phẩm chất, thẩm mỹ, trí tuệ và ngôn ngữ. Đồng thời trong quá trình viết vẫn còn những thiếu sót nhất định, tôi rất mong được sự góp ý xây dựng để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG MẦM NON TÂN THỦY XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT LỆ THỦY
File đính kèm:
- SK PHAT TRIỂN NGÔN NGỮ 24-36 TH.doc