Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh tự học
Khi đánh giá quá trình DẠY – HỌC, chúng ta đánh giá vào sản phẩm. Học sinh chính là sản phẩm và cũng là chủ thể của quá trình. Để quá trình DẠY – HỌC được thành công thì học sinh phải biết tự học. Nghĩa là học sinh phải tự nỗ lực để chiếm lĩnh tri thức. Biết tự học thì tri thức xã hội mới biến thành sản phẩm của chính mình. Sản phẩm chỉ được đánh giá một cách chính xác khi học sinh biết tự học. Nếu sản phẩm không phải là do tự học mang lại thì thành tích chỉ để trang trí.
Nguồn tri thức thì vô tận và đang bùng nổ nhanh chóng, bản thân giáo viên cũng không thể nào biết hết được và cũng không thể nào đi theo suốt cuộc đời các em học sinh mặc dù mình rất thương yêu chúng. Như vậy việc dạy tự học là rất cần thiết và cần gấp. Hôm nay, ta dạy học sinh biết tự học; ngày mai, học sinh mới biết lao động và sáng tạo. (Chứ không phải mãi đuổi theo nguồn tri thức của nhân loại một cách khó nhọc mà thậm chí còn không kịp. Như vậy thì khi nào mới lao động, khi nào mới đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới?).
DẠY – HỌC tự học mang một ý nghĩa to lớn nên chúng ta cần phải quan tâm, chú trọng ngay từ cấp tiểu học. Ở tiểu học, học sinh rất hứng thú đến tri thức và cũng dễ hình thành nên những phẩm chất tâm lý. Trong khi nỗ lực học tập, học sinh sẽ bộc lộ khả năng của mình giúp giáo viên dễ dàng nắm bắt và đưa ra những biện pháp hỗ trợ phù hợp. Và khi nỗ lực tự học, học sinh sẽ rèn luyện được ý chí, tình cảm, tư duy, trí nhớ, tạo sự tự tin, biết làm việc chủ động và độc lập , và một điều quan trọng nữa là học được phương pháp học, con đường tiếp cận tri thức. Những điều này sẽ đi theo suốt cuộc đời các em.
gặp bạn bè. Nhưng ở các em biết tự học còn có thêm nhiều niềm vui nữa. Đó là: hiểu bài, biết thêm nhiều tri thức mới, tự tạo ra sản phẩm, cảm thấy mình lớn khôn hơn, Đöùng tröôùc tình hình hoïc sinh chưa biết tự học, Toâi mong muoán laøm sao tìm ñược nguyeân nhaân vaø ñeà ra höôùng khaéc phuïc vì ñaây laø vaán ñeà caáp thieát. Vaø sau 10 naêm giaûng daïy, toâi ñaõ vaän duïng nhieàu phöông phaùp vaøo giaùo duïc cho caùc em, giuùp caùc em thaáy ñöôïc vieäc töï hoïc taäp laø caàn thieát, thaày coâ chæ laø ngöôøi hoã trôï maø thoâi. Keát quaû laø nhöõng naêm hoïc ñoù, hoïc sinh lôùp toâi ñeàu naém baét ñöôïc baøi hoïc moät caùch töï giaùc. Töø ñoù, toâi ñöa ra quyeát ñònh choïn ñeà taøi: “MOÄT SOÁ BIEÄN PHAÙP GIUÙP HOÏC SINH TÖÏ HOÏC” ñeå nghieân cöùu. II. NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: A. Những vấn đề chung: a) Giáo viên tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu và nhu cầu của các em: Đây là vấn đề đầu tiên khi tiến hành các giải pháp thực hiện. Biết được nguyên nhân và nhu cầu của đối tượng thì mới có những biện pháp tác động đúng đắn. Tôi tìm hiểu nguyên nhân theo các cách sau: quan sát thực tế học sinh của 5 lớp 5, lấy danh sách học sinh yếu của các lớp khác, phát phiếu kiểm, bảng hỏi, rồi phỏng vấn trực tiếp các em học sinh yếu. Với sự bùng nổ thông tin như hiện nay, các em có thể tiếp xúc với nhiều nguồn thông tin và được nhiều môi trường tác động đến - tốt có, xấu có, trái chiều cũng có. Bản thân các em học sinh ngày càng thể hiện cá tính mạnh mẽ Làm sao để các em tin tưởng mình? Làm thế nào phát huy tính tích cực của các em, phát huy vốn kiến thức sẵn có? Đó cũng là nghệ thuật. Dạy học sinh tự học, người giáo viên phải biết vai trò chủ đạo của mình là cần phải làm gì. b) Rèn luyện ý chí cho học sinh: Theo tôi, người giáo viên cần phải gần gũi, thương yêu học sinh và đôi lúc cũng nên để các em tự bơi, tự lội. Có thể các em sẽ bị vấp ngã trong những bước đi đầu tiên nhưng không sao. Vì lần vấp ngã này nằm trong tầm quan sát của chúng ta, các em sẽ tự đứng dậy được và ý chí thêm mạnh mẽ. Dạy cho học sinh biết con đường thành công phải trải qua gian nan, lắm khi thất bại chứ không phải dễ dàng đạt được – Đường đời còn dài – Thất bại là mẹ thành công. Việc này, giúp các em bỏ đi tính chủ quan và mơ tưởng của mình (không phải năm trước khá thì năm nay cũng được khá, mỗi năm phải có sự thay đổi cho phù hợp. Làm như vậy, chúng ta đang xây dựng lại tư tưởng mới, suy nghĩ mới cho học sinh. Giáo viên không chỉ dạy tri thức theo sách giáo khoa mà còn phải dạy cách học, dạy cách tiếp cận tri thức, dạy cách suy nghĩ, và dạy các kỹ năng. Ví dụ: Cần phải phối hợp nhuần nhuyễn giữa hướng dẫn cách giải ở một bài cụ thể rồi suy rộng ra cách giải ở dạng điển hình (các bài tương tự các em sẽ tự làm được). Theo cách dạy mới này, bóng dáng của người thầy xem qua thì thấy có vẻ mờ nhạt hơn, bởi vì người thầy không tác động nhiều, chỉ chiếm khoảng 30%. Nhưng nghĩ kỹ, nó lại là phần then chốt. Giáo viên đã tác động bàn tay vô hình của mình vào học sinh đến nỗi các em không biết được thầy đã dạy những gì mà mình vẫn lĩnh hội được tri thức. Tôi rất tâm đắc với lời đánh giá sau: Người thầy dạy giỏi là người thầy biết giải thích; Người thầy xuất sắc là người thầy biết minh họa; Người thầy xuất chúng là người thầy biết truyền cảm hứng. Một biện pháp đơn thuần không thể có được hiệu quả cao và cũng không phải chỉ phải có thực hiện ở một lớp mà chúng ta cần phải thực hiện đồng bộ trong toàn trường, toàn xã hội và bền bỉ tác động; cần phải kết hợp chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục. B. Những biện pháp cụ thể 1. Xây dựng niềm tin và hứng thú học tập: Trong khi tiến hành một công việc, yếu tố tinh thần rất quan trọng, càng vào những lúc khó khăn, con người ta mới biết mình cần phải làm gì. Việc học tập của học sinh cũng vậy. Học quả là khó khăn và gian khổ. Nếu không tìm thấy được niềm vui, không thấy được ý nghĩ của việc học thì không thể nào học tốt được. Scheckov đã từng đưa ra tổng kết về con đường thành công trong việc học tập, nghiên cứu của mình bằng câu: “Nghệ thuật học là: Ý CHÍ – TRÌNH TỰ - THỜI GIAN” Thực tế cho thấy: Học sinh có ý chí sẽ luôn tìm cách vươn lên và trong quá trình học tập, các em sẽ tự đúc rút ra kinh nghiệm cho bản thân mình. Như vậy là đã có sự thành công. Đầu tiên, tôi tạo cho học sinh một sức ép, một tâm thế thôi thúc, chuẩn bị cho việc học tập. Tôi kiểm tra, khảo sát một cách kĩ lưỡng, đưa ra những điểm số chính xác về mức độ hoàn thành bài tập của học sinh để cho các em thấy được kết quả của mình (trên thực tế điểm số rất thấp, ngay cả đối với nhiều em khá giỏi ở năm học trước). Làm như vậy để các em thấy mình cần phải bỏ công suy nghĩ thì mới đạt kết quả cao và kết quả này cho các em biết thực chất mình đang đứng ở đâu, đạt được mức độ nào. Tình cảm của các em sẽ được hun đúc nên từ những tấm gương trong những câu chuyện kể. Những câu chuyện cảm động dễ đi vào lòng các em hơn là những mệnh lệnh. Tôi đã kể cho các em nghe về tấm gương hiếu học như: Bông sen trong giếng ngọc – Cuộc đời của Mạc Đỉnh Chi; Cậu bé viết thuê của A-mi-xi – Một cậu bé con nhà công nhân thức khuya để viết thay cha, truyện kể về ý chí, cách học tập, làm việc của Bác Hồ và nhiều vĩ nhân khác trên thế giới. Giảng cho học sinh hiểu ý nghĩa của việc học tập bằng những câu danh ngôn. Chẳng hạn: Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống, học để làm người; Học để xây dựng quê hương đất nước Quan trọng hơn, tôi đã dựa vào thực tế trong làng xóm. Nếu không học, ta sẽ không có việc làm, không có cuộc sống ổn định. Và tôi cũng lấy chính những lời tâm sự của mẹ cha các em về cuộc đời mình: Không học buồn tủi lắm; Hối hận vì ngày xưa không tiếp tục đi học; Mình như vậy nên bây giờ cũng cố gắng tạo điều kiện cho con mình học hành đầy đủ Tôi động viên tinh thần cho học sinh cảm lớp bằng cách viết lên góc bảng trong khi học sinh làm bài những cụm từ như: Cố lên; Tự suy nghĩ mới thông minh; 1 điểm của mình = 10 điểm do người khác cho; Kết quả, học sinh cũng hiểu ra được mình cần phải tự cố gắng, nếu trông chờ các bạn thì điểm cao cũng không có ý nghĩa gì. Viết lên bảng như vậy, học sinh tập trung hơn và còn có một khoảng thời gian tuy không dài nhưng cũng đủ để tĩnh tâm suy xét, chuẩn bị cho hoạt động mới một cách nhẹ nhàng, không hối hả. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú không nặng nề, sợ sệt. Tôi luôn lưu ý xem tài sản lớp học, chăm sóc lớp như nhà của mình để cùng nhau trang trí, là học sinh lớp 5 tôi tự cho học sinh chọn những tranh vui tươi treo trên tường có tính cách giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Giờ ra chơi, tôi tổ chức vui chơi tập thể để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần guõi thân mật giữa học sinh với giáo viên. Trong chương trình giảng dạy tôi tổ chức những buổi vui học cuối tuần trong tiết sinh hoạt với hình thức đố vui, ôn tập, hái hoa để chuẩn bị cho các kỳ khảo sát và kiểm tra học kỳ. Trong những năm qua, bằng hình thức này tôi đã ôn tập cho các em thi đạt kết quả cao, và các em cũng vui thích tham gia tích cực cho phong trào của lớp sôi động trong các hoạt động ngoại khóa như thi kể chuyện, thời trang, vẽ tranh, hát . Vì vậy cứ đến ngày cuối tuần là các em rất buồn vì sắp phải xa không khí học tập, hứng thú ấy và mong gặp nhau trong những tuần học tới. 2. Lập nhật ký học tập: Học tập cũng phải mang tính khoa học, cần phải có trình tự, cần phải có sự đánh giá kết quả và đưa ra hướng học tập mới thích hợp. Ai là người đánh giá quá trình học của các em? – Đó là giáo viên, là bạn bè, là phụ huynh. Nhưng quan trọng hơn đó là chính bản thân các em. Bởi vì các em là chủ thể của hoạt động. Khi các em biết đánh giá chính bản thân mình thì không còn điều gì khó khăn trong học tập nữa, các em sẽ tự điều chỉnh mình. Đó là vấn đề mà các lực lượng giáo dục đang mong mỏi. Tôi cho học sinh viết “Nhật ký học tập”. Việc làm này có nhiều em rất thích bởi vì các em đó có sự tự tin. Nhưng nhiều em ban đầu rất sợ viết vì trong đó có nêu cả những việc chưa làm được của chính mình rồi từ đó khắc phục. Sau một thời gian, các em biết cách ghi và có nhiều tiến bộ. Các em biết mình còn thiếu kiến thức nào rồi tìm cách học lại kiến thức đó. Khi đến trường, các em tự tin hơn, không phải thụ động như trước mà chủ động tiếp thu kiến thức và thực hành. Tôi động viên các em viết nhật ký hàng ngày. Cuối mỗi tuần, các em đưa cho cha mẹ xem rồi nộp lại cho tôi nhận xét. Những lời nhận xét ngắn gọn nhưng rõ ràng, đúng trọng tâm vấn đề có tác dụng rất lớn. Trong nhiều năm đi dạy, tôi thấy: ghi nhận xét và lời động viên ra giấy để các em đọc có tác dụng và hiệu quả hơn lời nói trực tiếp. Các em vui mừng trao cho nhau đọc những lời nhận xét; và cũng có nhiều em xấu hổ không dám để các bạn đọc. Cả hai đều có tác dụng tốt, tạo động lực cho các em phấn đấu. Nhật ký học tập Trang 1: Điều kiện học tập của em: Em có đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập chưa (thiếu thứ gì): ------------------- Nơi học tập của em: ----------------------------------------------------------- Công việc của em ở nhà: ----------------------------------------------------------- Những người giúp đỡ cho em trong việc học tập: -------------------------------- Những tác động khác ảnh hưởng đến việc tự học của các em: ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Trang 2: Kế hoạch học tập Buổi sáng: ----------------------------------------------------------------------------- Buổi trưa: ----------------------------------------------------------------------------- Buổi tối: ----------------------------------------------------------------------------- (Dựa vào thời khóa biểu trong ngày để lên kế hoạch; ghi thời gian nghỉ ngơi, phụ giúp gia đình) Trang 3 (trở đi): Tuần học: -------------- Những vấn đề em đã học được trong tuần: ------------------------------------------ Những vấn đề em chưa hiểu: ------------------------------------------------------- Những việc em đã làm được trong tuần: ------------------------------------------ Những việc em cần phải sửa chữa: ------------------------------------------------ 3. Hướng dẫn cách học tốt cho từng môn Mỗi môn học có những yêu cầu riêng và cần phải có cách học riêng thì mới có hiệu quả. Bất cứ một môn học nào, tôi cũng cố gắng tạo một hứng thú, một bất ngờ về nội dung mà nó cung cấp để cho các em thấy nội dung thật lý thú, chứ không phải là dạy xong nội dung này rồi sang nội dung khác. Việc củng cố nội dung ở từng bài tập cũng được tôi áp dụng trước khi chuyển sang bài tập khác. * Phân môn Luyện từ và câu: Tôi cho học sinh tự cho thêm ví dụ rồi cả lớp cùng phân tích. Làm như vậy sẽ phát huy được tính sáng tạo và học sinh thấy nội dung thật sống động, thật gần gũi, thiết thực và không bị nhàm chán kể cả những em có điều kiện đi học thêm, hay đã học trước từ sách hướng dẫn giải. * Phân môn tập làm văn: Cả lớp cùng nhận xét bài văn để rút kinh nghiệm; hoặc có khi tôi viết một câu văn hay của một học sinh nào đó lên bảng rồi mỗi em viết thêm một câu khác sao cho mạch nội dung được liên tục. Làm được điều này, học sinh sẽ rất nhanh trí và phải tích cực động não, các em học được nhiều cái hay ở mỗi bạn. * Ở các môn Khoa học, Địa Lý, Lịch sử: Tôi thường ghi một câu lệnh lên bảng. Chẳng hạn: Tự nghiên cứu vấn đề này trong 5 phút; và tôi thường nêu những câu hỏi trước để cho học nghiên cứu. Làm như thế, tất cả học sinh đều phải tự mình làm việc. Dần dần, học sinh sẽ rèn được kĩ năng đọc - đọc là phải hiểu, phải nắm bắt được những yếu tố trọng tâm. * Ở môn Toán: Do học sinh quên nhiều kiến thức cũ nên tôi đã ôn lại cặn kẽ các kiến thức ấy. Ở những dạng toán có lời văn, tôi thường hay ghi đề bài lên bảng và hỏi học sinh: Chúng ta cần chú ý vào những từ ngữ nào? Tôi cũng ghi lên góc bảng cách suy nghĩ một bài toán: Bài toán hỏi gì? Bài toán cho biết điều gì, mối quan hệ? Muốn tìm được điều này thì ta tìm điều gì trước và bằng cách nào? Tôi hướng học sinh tập trung chú ý vào những từ ngữ then chốt, dựa trên những từ ngữ này mà giải bài tập chứ tôi không vội vàng giảng giải các bước. Và dần dần, học sinh cũng biết cách đọc đề, cũng biết suy luận. 4. Phối hợp cùng phụ huynh, tạo môi trường giáo dục tốt: Gia đình là nơi gần gũi với các em nhất, việc biết cách dạy con của cha mẹ đóng góp một phần quan trọng cho việc thành công. Đổi mới nội dung cuộc họp phụ huynh là điều cần thiết. Cha mẹ học sinh sẽ thực sự là một lực lượng giáo dục quan trọng và hiệu quả. Cho nên, trong những cuộc gặp mặt, những lần họp phụ huynh, tôi đều lồng ghép nội dung, cách giáo dục con em họ. Cụ thể là: ñònh höôùng cho phuï huynh veà caùch giaùo duïc tình caûm, cách quaûn lyù thôøi gian ôû nhaø cuûa con em mình; cách dạy tự học và lồng ghép các yêu cầu của thời đại, câu chuyện giáo dục ở một số nước tiên tiến Tôi cũng đề nghị phụ huynh nên tạo không gian tự học tại nhà cho học sinh. Đó là một nơi yên tĩnh, thoáng mát. Ngồi tĩnh tâm mới có thể tập trung suy nghĩ và rèn luyện được trí nhớ. 5. Giáo dục kĩ năng tư duy độc lập, tư duy nhóm. Học sinh có nhiều nguồn tri thức khác nhau lấy từ thực tế cuộc sống, từ gia đình, bạn bè, xã hội nên tôi đã chú ý tới việc học theo nhóm tại nhà. Đầu tiên, tôi hướng dẫn cách học theo nhóm, hướng dẫn cách hướng dẫn cho các bạn. Vì tôi hiểu: “Học thầy không tày học bạn”, “Biết dạy người khác là học hai lần”. Dạy học sinh rèn luyện kĩ năng nói, kĩ năng diễn giải. Tôi gọi học sinh lên lớp giảng giải về vấn trong đề bài học. Qua quan sát, tôi thấy các em có hứng thú hơn khi tôi trực tiếp giảng. Em học sinh đứng lên giảng sẽ rèn được tính tự tự tin còn các em ở dưới mong ước mình cũng giảng bài được như bạn, từ đó mà cố gắng phấn đấu. Các em học kém, yếu có tâm trạng sợ sệt, không tự tin làm bài. Sau khi kiểm tra chất lượng đầu năm nắm được tình hình học tập của từng em trong lớp mình, tôi phân cụ thể cho những em học giỏi hỗ trợ các em yếu kém cùng tiến bộ tạo thành một phong trào “Đôi bạn cùng tiến” Khi phân công làm việc này, tôi phải liên hệ gia đình các em để nhờ sự hỗ trợ, kiểm soát việc học tập của các em ở nhà, tôi lập phiếu theo dõi và đưa ra những hướng dẫn , biện pháp để các em học tập ở nhà dưới sự quản lý của nhóm trưởng. Hàng tháng đều phải đúc kết việc phong trào “Đôi bạn cùng tiến” baèng moät baøi kieåm tra daønh cho hoïc sinh yeáu. III. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN 1. Kết quả : Trong 10 năm đầu tôi đi dạy, có khi tôi dạy hai lớp trong một năm, học sinh lớp tôi đã biết tự học và sẵn sàng học ở các lớp sau. Đó là điều thành công lớn nhất và tôi cảm thấy thích điều này. Phụ huynh cũng hiểu được cách dáo dục con cái từ đó mà nhân rộng ra toàn xã hội. Đồng thời cũng tạo được sự tin tưởng ở phụ huynh. Vì bây giờ, trong ngành Giáo dục cũng có nhiều đáng phải bàn. 2. Bài học kinh nghiệm : Muốn việc giáo dục tự học được thành công, giáo viên cần phải kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với Đoàn thể, với địa phương, tạo những điều kiện, môi trường giáo dục tốt. Quan trọng hơn là phối hợp giáo viên toàn trường để có được phương pháp dạy đồng bộ. Cần phải phối hợp đồng bộ cả 3 môi trường giáo dục. Hiện tại, cả ba môi trường Gia đình - Nhà trường - Xã hội đã có sự phối hợp với nhau nhưng chưa thực sự hiệu quả. Chẳng hạn như: Gia đình cần dạy những gì cho con em mình? - Có gia đình rất quan tâm thì ép con em mình học quá nặng khiến các em không thể học thêm những kiến thức, kĩ năng khác. Có gia đình lại quan tâm chưa đúng mức thì học sinh lại không thể có những rèn luyện tiếp nối để củng cố kiến thức, kĩ năng. Cộng đồng xã hội là nơi mà các em sinh sống, tham gia và trải nghiệm. Các em chịu tác động ở nhiều mặt, có tốt, có xấu. Vậy khi các em đứng trước những cái xấu thì người lớn đã có tác động gì để góp phần giáo dục các em? Nhà trường truyền thụ kiến thức, kĩ năng ở trên lớp. Nhưng khi hết giờ học, nhà trường có thể quán xuyến được các hành vi của các em hay không? Do đó, cần phải có sự hợp tác mới, rõ ràng giữa ba môi trường thì công tác giáo dục thế hệ trẻ mới thành công. Phải tạo sự đoàn kết, yêu thương giúp đỡ của học sinh trong lớp qua các phong trào. Tạo cho các em động cơ ham học, trong việc uốn nắn các em, giáo viên chủ nhiệm phải luôn giữ thái độ bình tĩnh, không nóng vội, không dùng lời lẽ nặng nề với các em, hòa hợp với các em, biết lắng nghe ý kiến học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp . Nên tổ chức vui chơi tập thể trong các giờ ra chơi, giờ sinh hoạt lớp để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và giáo viên. Trong chương trình giảng dạy nên tổ chức những buổi vui học, học vui dưới hình thức ôn tập. * Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ trong việc giúp đỡ học sinh biết tự học.. Trong bài viết chắc không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong quí thầy, cô đóng góp, sửa chữa. Tôi xin chân thành cảm ơn. 3. Hướng phát triển của đề tài: Tôi tin rằng đề tài của tôi hoàn toàn có thể áp dụng đặc biệt là về phía phụ huynh. Phụ huynh hoàn toàn có thể tham gia vào việc giáo dục con em mình theo các cách mà tôi đã nêu. Như vậy là ta đã có thêm một lực lượng tham gia vào giáo dục có hiệu quả. IV. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ: Phía nhà trường cần phải có những kế hoạch cho tất cả giáo viên thực hiện một cách đồng bộ. Vì cả trường thực hiện thì sẽ thành công hơn. Đối với ngành, sau này, khi thay sách, đổi mới chương trình cần đưa những nội dung giáo dục tình cảm là chính. Mặc dù đó là những câu chuyện quá cũ không hiện đại nhưng đối với học sinh đó vẫn là một điều mới mẻ. Hơn nữa, tiểu học là bậc nền tảng, chúng ta chỉ cần xây dựng vững chắc nền tảng là đã thành công, sự phát triển sẽ dành cho ở các bậc học, cấp học sau. Khi học sinh đã được hun đúc những tình cảm, ý chí thì tự các em sẽ tìm hiểu nền tri thức của nhân loại để phát triển mà không cần chúng ta phải khổ công hướng dẫn. Cùng với việc thay đổi nội dung sách giáo khoa. Chúng ta cần thay đổi thời gian dạy học. Vẫn chia thành 4 kì. Học xong mỗi kì, ta sẽ ôn tập 2 tuần rồi mới thi. Hiện nay, chúng ta đã tăng thời gian học lên rất nhiều bằng cách học ngày 2 buổi. Vậy ta chỉ tăng thêm 2 tuần thì có ý nghĩa gì hay không? Theo tôi là rất lớn. Học sinh đến trường trong 2 tuần này sẽ có một tâm thế khác. Vì nội dung học các em chưa biết trước - do giáo viên tự quyết định kế hoạch giảng dạy của mình: có thể là kể chuyện, tâm sự, thầy trò vui vây bên nhau, có thể là giáo dục kĩ năng sống, có thể là tự suy nghĩa về những gì mình học được, làm được, chưa làm được để đưa ra phương hướng cho kì học tiếp theo, cũng có thể là ôn tập, Các em không bị áp lực. Đây là khoảng thời gian các em hồi tĩnh - rất cần thiết - không ai có thể tiến lên mà không ngừng lại nghỉ ngơi. Hơn nữa, giáo viên chủ nhiệm là người hiểu học sinh của mình nhất, hiểu các em còn khuyết chỗ nào, mạnh chỗ nào và cần những gì, Từ đó đưa ra nội dung ôn tập phù hợp. Như vậy là học sinh sẽ có thời gian tự học. Phía xã hội và phía phụ huynh nên coi sự nghiệp giáo dục cũng là việc của mình. Trong các cuộc họp khu phố, thôn xóm nên cùng nhau bàn bạc, lồng ghép nội dung, cách thức giáo dục con em mình. Phước Dân, ngày 16 tháng 3 năm 2015 NGƯỜI VIẾT Phaïm Huy Chöông Nhận xét của Hội Đồng Sáng kiến cơ sở Trường Tiểu học Vĩnh Thuận Chủ tịch ------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ -------------------------------------------------------------------------------------------------
File đính kèm:
- Giúp học sinh tự học.docx