Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình ngữ văn 8

Người giáo viên bao giờ cũng muốn học trò của mình làm được những bài văn hay nhưng đó không phải là một việc dễ. Bài văn hay trước hết phải là viết đúng (đúng theo nghĩa tương đối, nghĩa là trong khuôn khổ nhà trường). Hay và đúng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Bài văn hay trước hết phải viết theo đúng yêu cầu của đề bài, đúng những kiến thức cơ bản, hình thức trình bày đúng quy cách

Xác định đúng yêu cầu của đề bài là rất cần thiết, bước này giúp học sinh thể hiện đúng chủ đề của bài văn, tránh lạc đề hay lệch đề. Xác định đúng yêu cầu của đề cũng giúp người viết lập được một dàn ý tốt và do đó cũng tránh được sự dài dòng, lan man “dây cà ra dây muống”, “ trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” tạo được sự thống nhất, hài hoà giữa các phần của bài viết. Bên cạnh đó việc viết đúng kiến thức cơ bản cũng vô cùng quan trọng, kiến thức cơ bản là “bột”, “có bột mới gột nên hồ”.

Hình thức trình bày là sự thể hiện hình thức bố cục của bài văn trên trang giấy. Một bài văn đúng quy cách là bài văn mà khi nhìn vào tờ giấy, chưa cần đọc đã thấy rõ ba phần: Mở bài, thân bài và kết bài. Muốn thế người viết không chỉ phải chú ý đến nội dung mà hình thức cũng phải rõ ràng.

Trong thực tế dạy – học tôi thấy bài văn của học sinh mình chưa đáp ứng được những yêu cầu của một văn bản trong nhà trường. Bài văn của các em vẫn còn hiện tượng lạc đề, lệch đề,sa đề do không chú ý đến việc tìm hiểu đề,các em không đọc kĩ đề. Đoạn văn trong bài thường sai quy cách,chưa có câu chủ đề chưa biết cách trình bày đoạn văn. Bên cạnh đó là việc giữa các đoạn văn chưa có sự liên kết,thiếu lo gic .

Do đó tôi thấy cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra giải pháp tốt giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn. Qua thời gian tìm tòi và vận dụng, cho đến nay tôi đã tìm được cho mình một cách làm mang lại hiệu quả cao. Trong cách làm đó vấn đề tích hợp có vai trò rất quan trọng. Đó cũng là yêu cầu của dạy học Ngữ văn hiện nay.

 

doc19 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 8254 | Lượt tải: 2Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình ngữ văn 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 học sinh thấy một cách nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập làm văn. Một bài văn lạc đề dù có những đoạn văn hay đến đâu cũng không thể đạt được điểm số cần thiết.
Đối với giáo viên, trước một đề tập làm văn việc tìm hiểu đề là đơn giản nhưng với học sinh bước này rất quan trọng. Vì vậy, trước bất cứ một đề văn nào giáo viên luôn yêu cầu học sinh thực hiện bước này.
Có thể nói rằng đây là một bước mất ít thời gian của tiết học nhưng nó mang lại hiểu quả rất tốt cho học sinh.
3.2. Viết đoạn văn trong văn bản tự sự :
Thế nào là đoạn văn? 
Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản, bắt đầu từ chữ viết hoa lùi đầu dòng, kết thúc bằng dấu chấm xuống dòng và thường biểu đạt một ý tương đối hoàn chỉnh. Đoạn văn thường do nhiều câu tạo thành. Đoạn văn thường có câu chủ đề hoặc từ ngữ chủ đề. Ngoài vai trò trung tâm của câu chủ đề còn có các hình thức liên kết các câu theo trật tự không gian,thời gian,lo-gic,tâm lý.
Ta thường có đoạn văn diễn dịch, quy nạp, song hành, 
Đoạn văn là đơn vị cấu tạo nên văn bản. Vì vậy viết tốt đoạn văn là một trong những điều kiện để có một bài văn hay.
Đoạn văn thường có từ ngữ chủ đề và câu chủ đề.Từ ngữ chủ đề để duy trì đối tượng được biểu đạt.Câu chủ đề mang nội dung khái quát, lời lẽ ngắn gọn, thường đủ hai thành phần chính,đứng ở đầu hoặc cuối đoạn văn.
Trong chương trình Ngữ văn 8, học sinh được học cách xây dựng đoạn văn ở tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản, trong đó học sinh đã nắm được kiến thức về hình thức và nội dung của đoạn văn. Trên cơ sở bài này, các em đã có kiến thức về cách xây dựng đoạn văn trong văn tự sự,đoạn văn miêu tả, đoạn văn nghị luaanjVif thế khi dạy đến bài này tôi đã tận dụng những hiểu biết và khả năng của học sinh để phát huy tích tích cực,chủ động của các em. Từ đó tôi thường xuyên cho học sinh luyện tập nhận diện đoạn văn cũng như viết đoạn văn ở trên lớp và ở nhà.
Trước hết, sau khi học xong tiết 10 – Xây dựng đoạn văn trong văn bản giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện đoạn văn xem đó là đoạn văn diễn dịch,quy nạp hay tổng- phân –hợp. Đây là bước giúp học sinh nhận biết cũng như khắc sâu kiến thức về đoạn văn. Có quan niệm cho rằng câu chốt thì đặt ở sau cùng,nhưng trên thực tế thì ngược lại: câu chốt thường đứng đầu đoạn văn Trong SGK Ngữ văn 8 có rất nhiều đoạn văn chuẩn, dựa vào ưu điểm này giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện.
Ví dụ 1: 
Sau khi dạy xong tiết 10 - Xây dựng đoạn văn trong văn bản, ở bước củng cố nêu yêu cầu: các em xem đoạn văn b trong bài tập 1, phần luyện tập ở trang 26 và đoạn văn giới thiệu về Nam Cao trong phần chú thích ở trang 45 rồi xác định các đoạn văn đó được viết theo cách nào?
Học sinh trả lời:
- Đoạn văn ở trang 26 (sgk)là đoạn văn viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu đoạn), chủ đề là nói về vẻ đẹp huyền ảo trong ngày của Ba Vì.
- Đoạn giới thiệu về Nam Cao ở trang 45 (sgk)được viết theo lối song hành (từ ngữ chủ đề là Nam Cao, ông), đối tượng là Nam Cao.
Học sinh trả lời được như vậy là đã nắm được “Thế nào là đoạn văn”. Trên cơ sở đó tôi cho học sinh đi vào thực hành kĩ năng viết đoạn văn.
Ví dụ 2: 
Tiếp tục bài tập nhận diện đoạn văn, giáo viên có thể yêu cầu các em về nhà đọc các văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế rồi yêu cầu các em xác định: văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục được viết theo kiểu nào: Trong văn bản Huế đoạn văn nào được viết theo kiểu diễn dịch? 
Học sinh trả lời:
	- Văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục là đoạn văn quy nạp (câu chủ đề nằm ở cuối đoạn – Văn bản này chỉ có một đoạn văn).
 - Trong văn bản Huế có đoạn văn thứ hai và đoạn văn thứ ba được viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu đoạn).
Khi học sinh nhận diện đúng đoạn văn tức là các em đã nắm được kiến thức về đoạn văn. Từ đây giáo viên bắt đầu cho các em thực hành viết đoạn văn.
Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó là điều kiện giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự.
Khi cho học sinh thực hành viết đoạn văn giáo viên chia làm hai giai đoạn: trước hết cho học sinh viết đoạn văn với câu chủ đề cho trước, tiếp theo mới là viết theo yêu cầu mà không có câu chủ đề (học sinh tự đặt câu).
Ví dụ 
Khi học xong văn bản “Lão Hạc” của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi cho học sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về Lão Hạc – người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão Hạc là con người nghèo khổ nhưng lão có nhiều phẩm chất đáng quý.)Từ đó mà Hs khai triển để viết thành đoạn văn .
Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài cũ xong, GV mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho thầy cùng cả lớp nghe rồi GV nhận xét. Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS.Điều ấy giúp Hs tích cực hơn trong việc học ở nhà.
Ví dụ 
Khi dạy xong tiết 21 – 22, văn bản Cô bé bán diêm, GV ra bài tập cho HS về nhà làm:
Em thử tưởng tượng mình là người chứng kiến cái chết của cô bé trong truyện” Cô bé bán diêm” của An – đéc – xen, bây giờ các bạn muốn nghe em kể lại cái chết của cô bé. Vậy em hãy viết một đoạn văn kể lại cho các bạn cùng nghe.
Tới tiết học tiếp theo giáo viên thu bài của các em về nhà chấm, sửa và nhận xét trong bài viết cho các em.
Khi trả lại bài cho học sinh, giáo viên cho đọc một số bài viết tốt để các em rút kinh nghiệm cho bài làm của mình.
Ví dụ 
Bài Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội (tiết 17 – bài 5) có nội dung tương đối ngắn, bài tập dễ nên giáo viên cho học sinh làm bài tập ở nhà. Thời gian trên lớp giáo viên cho học sinh làm bài tập: Em hãy viết một đoạn văn ngắn kể về người mẹ (hoặc cha) của mình trong đó có sử dụng từ ngữ địa phương.
Khi học sinh viết xong, giáo viên mời 2 học sinh đọc bài rồi mời những học sinh khác nhận xét. Sau đó giáo viên kết luận về nội dung, chủ đề và hình thức trình bày.
Bài của những học sinh còn lại giáo viên thu để về nhà xem (học sinh chưa viết xong thì thu lại ở tiết sau).
Ví dụ 
Khi dạy xong tiết 25 - 26,” Đánh nhau với cối xay gió”, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà viết đoạn văn với gợi ý: Sự tương phản giữa Đôn - ki - hô - tê và Xan - chô - Pan - xa.
Đến tiết 28, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, giáo viên mời 2 học sinh trình bày đoạn văn.
Trên cơ sở đó ở tiết 28 này học sinh viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm là rất dễ.
Khi học sinh luyện viết đoạn văn có thể có lỗi về câu và chính tả do học sinh tự sắp xếp vì vậy giáo viên cũng cần hướng dẫn học sinh sửa lỗi về câu và chính tả.
Có thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt đoạn văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn. Trên cơ sở đó khi học văn bản thuyết minh và văn nghị luận học sinh sẽ viết tốt đoạn văn .Đó là một trong những tiền đề để học sinh làm tốt các kiểu văn bản khác.
3.3 Liên kết đoạn văn trong văn bản:
Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài văn là một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần có sự liên kết với nhau. Liên kết đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt nhau vừa liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản.
 Muốn vậy, phải tạo mối quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn với nhau và sử dụng các phương tiện liên kết phù hợp.Có thể sử dụng các phương tiện liên kết như:
- Dùng từ ngữ có tác dụng liên kết:
+Quan hệ từ,đại từ,chỉ từ(đó, này, ấy, ..),
+Các cụm từ thể hiện ý liệt kê (trước hết,đầu tiên,cuối cùng,sau nữa,một mặt),so sánh,đối lập,tổng kết,khái quát(tóm lại,nói tóm lại,tổng kết lại,nhìn chung),đối lập(nhưng,rái lại,tuy vậy,ngược lại,song, thế mà)
- Dùng câu nối.
Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn văn trong văn bản” ở tiết 16, bài 4.Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn do các em tạo ra.
Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên kết đoạn văn.
Ví dụ 
Khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản - tiết 16, bài 4, giáo viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An - đéc - xen) ở trang 64. Sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn trong văn bản đó.
Tới tiết 18, bài 5 - Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo viên mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác dụng nối như:
- Em quẹt que diêm thứ hai,
- Em quẹt que diêm thứ ba.
- Em quẹt que diêm nữa vào tường, 
- Thế là 
- Sáng hôm sau,
- Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy 
Cũng như ở ví dụ trên, nhưng có thể cho học sinh tìm phương tiện liên kết trong văn bản “ Đánh nhau với cối xay gió” ( Xéc - van - téc), ở văn bản này thì dễ nhận biết hơn.
Học sinh có thể tìm được các phương tiện liên kết:
- Vừa bàn tán về cuộc phiêu lưu mới xảy ra, 
- Đêm hôm ấy, 
Trên cơ sở bài tập này, giáo viên đã giúp học sinh khắc sâu kiến thức phần lí thuyết, từ đây có thể cho học sinh thực hành việc liên kết đoạn văn.
Việc viết các đoạn văn có sự liên kết với nhau đối với học sinh trung bình và yếu là tương đối khó. Cho nên trong quá trình dạy tôi luôn có những đoạn văn mẫu cho các em. Bên cạnh đó là bài của các em học sinh khá giỏi luôn được giới thiệu trước lớp cho các bạn học tập. Đồng thời khích lệ tinh thần cho các em bằng những lời khen,tràng pháo tay,điểm tốt
Ở dạng bài này, giáo viên vừa cho học sinh luyện tập ở trên lớp vừa cho các em về nhà làm (giáo viên phải thu vở bài tập rồi chấm và sửa cho học sinh).
Ở bài Miêu tả và biểu cảm trong văn bản tự sư (tiết 24, bài 6), khi dạy đến phần luyện tập, giáo viện cho học sinh làm bài tập 1tìm đoạn văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm trong các văn bản đã học và đọc phần đọc thêm ở trên lớp. Còn bài tập 2 - “Viết một đoạn văn kể về những giây phút đầu tiên khi em gặp lại một người thân” thì giáo viên cho học sinh về nhà làm. Giáo viên yêu cầu học sinh viết thành 2 đoạn văn đoạn trong đó có các phương tiện liên kết.Tình huống này gần giống tình huống hai mẹ con gặp nhau trong đoạn văn của Nguyên Hồng.Gv gợi ý cho Hs:
+ Nên bắt đầu từ chỗ nào?
+ Từ xa thấy người thân như thế nào?
+ Lại gần thấy ra sao?
+ Kể hành động của mình và người thân,tả chi tiết khuôn mặt,quần áo
Đến tiết 28, bài 7 - Luyện tập viết đoạn văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm, trong phần kiểm tra bài cũ giáo viên mời 2 học sinh trình bày bài của mình rồi giáo viên nhận xét. Sau đó thu bài của vài em khác về nhà chấm và sửa cho học sinh.
Trong chương trình học có văn bản “Đánh nhau với cối xay gió” (Xéc - van - téc) có hai nhân vật Đôn - ki - hô - tê và Xan - chô - Pan - xa tương phản nhau về mọi mặt. Vậy sau bài học đó giáo viên yêu cấu học sinh viết 2 đoạn văn nói về hai nhân vật (hai đoạn có quan hệ đối lập).
Học xong văn bản “ Lão Hạc “của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4), học sinh biết rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn văn nói về số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão Hạc và chị Dậu).
Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngoài việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm lứa tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên phải có biện pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng tốt được.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
 Để đánh giá kết quả đã đạt được, giáo viên dựa vào bài kiểm tra chất lượng học kì và bài khảo sát
 Kết quả khi chưa áp dụng:
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu-kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
34
0
0
06
18
8
23
20
59
 Kết quả khi áp dụng:
Tổng số
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
34
4
12
15
44
12
35
3
9
Sau một thời gian nhận thấy thực trạng bài làm văn của học sinh lớp 8 trường THCS Đỗ Động. Tôi đã kịp thời tìm ra nguyên nhân bài làm văn của các em đạt kết quả chưa cao. Tôi nhanh chóng tìm ra giải pháp của bản thân ,cá nhân tôi mong rằng chất lượng bài làm của các em từng bước nâng cao dần lên. So với chất lượng những năm trước thì chất lượng năm học này đã có bước chuyển biến đáng kể cụ thể giảm tối đa hoc sinh yếu kém.
Tuy nhiên kết quả như vậy chưa phải là cao nhưng đó cũng là một sự thay 
đổi chất lượng bài làm của các em.Tôi hy vọng rằng thời gian tiếp theo các em sẽ những bài văn tự sự tốt hơn, kết quả môn văn sẽ cao hơn trước.
III. KẾT LUẬN:
1. Một số lưu ý:
Để trở thành người thợ giỏi ở bất cứ một ngành nghề nào người thợ cũng phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện lâu dài. Để viết tốt một bài văn cũng vậy, học sinh phải trải qua quá trình rèn luyện nghiêm túc có sự hướng dẫn của giáo viên.
Trong quá trình dạy, giáo viên giúp học sinh nhớ lại những kiến thức cũ 
đã học về văn tự sự đã học ở lớp 6,bằng các tình huống có vấn đề trong các tiết lí thuyết ,các em được giải quyết ,được tìm hiểu nâng dần lên các em sẽ có phương pháp làm văn tốt.
Để áp dụng có hiệu quả những biện pháp này, người giáo viên thực sự tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm, dành thời gian nhiều cho chuẩn bị bài học. Do học sinh phải thực hiện phần bài tập ở nhà nhiều nên giáo viên phải thu vở bài tập về nhà để chấm, sửa nhận xét cho các em.
Giáo viên thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, theo dõi quá trình học sinh làm bài. Điều quan trọng là giáo viên biết động viên, khuyến khích, tuyên dương học sinh đúng lúc, kịp thời. Bên cạnh đó, với học sinh điểm số rất quan trọng nên khi chấm bài tập hoặc khi các em trình bày thì giáo viên nên cho học sinh điểm số và có điểm cho tinh thần tự giác xây dựng bài.
Nếu giáo viên làm tốt điều đó thì các em sẽ rất tự giác và có hứng thú làm bài tập ở nhà cũng như trên lớp. Trong trường hợp giáo viên có quên thu bài thì cũng sẽ được các em “nhắc nhở”.
Bên cạnh việc động viên, khuyến khích, giáo viên cũng cần có biện pháp đối với những học sinh còn có tư tưởng trông chờ, ỷ lại như yêu cầu các em ở lại sau buổi học để làm bài tập, mượn bài của bạn chép lại nhiều lần 
Trong khi dạy tiết luyện tập, trong thực hành giáo viên có những bài tập dễ hơn cho học sinh yếu. Khi các em làm được giáo viên mới nâng độ khó lên dần.
2. Lời kết:
Trên đây là một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài làm văn tự sự trong chương trình Ngữ văn 8. Đó cũng là những gì tôi tích luỹ được trong quá trình dạy văn tự sự trong thời gian qua.
Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu, trao đổi với đồng nghiệp, thông qua tiết dự giờ, tham khảo tài liệu  tôi đã tích luỹ được cho mình một số kinh nghiệm, nó được tôi áp dụng vào bài dạy khi khi lên lớp tại trường THCS Đỗ Động.
Khi áp dụng những kinh nghiệm trên vào bài dạy, sau một thời gian chất lượng bài viết của học sinh đã được nâng lên rõ rệt, giảm được số bài không đạt yêu cầu, và số bài tốt cũng tăng lên.
Những biện pháp trên được tôi rút ra từ thực tế cũng như thông qua trao đổi với đồng nghiệp, chắc chắn rằng nó vẫn còn hạn chế. Vậy tôi mong được tiếp thu ý kiến đóng góp của BGH, Hội đồng khoa học nhà trường và Hội đồng khoa học của Phòng giáo dục - đào tạo để từ đó có thể trao đổi, rút kinh nghiệm giúp tôi nâng cao chất lượng giảng dạy ở bộ môn.
3. Bài học kinh nghiệm:
Trong dạy học nói chung và dạy học môn Ngữ văn nói riêng, người giáo viên phải luôn không ngừng tìm tòi học hỏi để nâng cao trình độ nhận thức và trình độ chuyên môn. Sự sáng tạo là yêu cầu cần phải có của người giáo viên khi làm công tác dạy học. Trên cơ sở đó giúp học sinh của mình tiếp thu bài, hình thành kĩ năng, kĩ xảo tốt hơn.
Tuy nhiên khi áp dụng những biện pháp nào đó thì giáo viên phải tìm hiểu kĩ những hạn chế của học sinh mình. Nếu thành công sẽ là động lực rất lớn làm cho người giáo viên tự tin hơn, mạnh dạn hơn trong việc sáng tạo.
Người giáo viên cần ý thức được vai trò của mình. Khi lên lớp giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao. Như vậy mới có thể tận tâm, mới vui buồn khi học sinh làm bài tốt hay không tốt. Đó là động lực giúp giáo viên tìm tòi, sáng tạo trong công tác của mình. Nhờ vậy mà học sinh lĩnh hội tri thức tốt hơn. Trong những biện pháp đó, việc động viên khích lệ về tinh thần cũng như vật chất (điểm số) là rất quan trọng.
Phải nói rằng qua việc thực hiện đề tài này tôi đã rút ra được cho mình rất nhiều bài học từ việc xác định kiến thức bổ sung, soạn giáo án cho đến việc giảng dạy trên lớp.
 Ý kiến đề xuất:
Thư viện nhà trường nên có thêm tranh ảnh phục vụ tốt cho quá trình dạy học bài giảng Ngữ văn 8.
 Bổ sung các tác phẩm có đoạn trích được học. Đặc biệt là các tác phẩm nước ngoài, chân dung của một số nhà thơ lớn. Các tài liệu tham khảo, sách nâng cao cho giáo viên học sinh còn ít
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường, tổ Khoa học Xã hội trường THCS Đỗ Động đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Hà Nội, ngày 09 tháng 4 năm 2015
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
 Người thực hiện
 Hoàng Thị Thúy
Tài liệu tham khảo:
 1. Giáo trình tâm lí giáo dục.
 2. Tài liệu giáo dục học.
 3. Sách giáo khoa lớp 8.
 4. Sách giáo viên và thiết kế bài giảng lớp 8.
	 5. Các bài văn mẫu lớp 8 THCS.
 6. Sách tham khảo.
	MỤC LỤC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ: ........
 1. Lí do chọn đề tài ......
 2. Mục đích nghiên cứu................................................................
 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................
 3.1 Đối tượng nghiên cứu.........................................................
 3.2 Phạm vi nghiên cứu..........................................................
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:............
1. Cơ sở lí luận của vấn đề 
2. Thực trạng của vấn đề................................................................
3. Các biện pháp thực hiện ........
 3.1. Tìm hiểu đề (phân tích đề)...............
 3.2. Viết đoạn văn trong bản tự sự.........
 3.3. Liên kết đoạn văn trong văn bản tự sự.........
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm ............
III. KẾT LUẬN: .....................
 1. Một số lưu ý...............................................................................
2. Lời kết .......
2. Bài học kinh nghiệm .........
	___________________________________
2
2
2
3
3
3
3
3
4
5
5
7
10
11
12
12
13
13
PHÒNG GD&ĐT THANH OAI
 TRƯỜNG THCS ĐỖ ĐỘNG
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN CHẤM VÀ XÉT DUYỆT 
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên SKKN: Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình 
 ngữ văn 8
Tác giả : Hoàng Thị Thúy
Môn (hoặc Lĩnh vực): Ngữ Văn
Đơn vị :Trường THCS Đỗ Động
Đánh giá của Hội đồng chấm (Ghi tóm tắt những đánh giá chính):
Tính sáng tạo : .......... / 4 điểm
Tính KH, SP : .......... / 4 điểm
Tính hiệu quả : ......... / 6 điểm
Tính Phổ biến, ứng dụng : ......... / 6 điểm
 Tổng số : ....... điểm 
Xếp loại :...............
(Xếp loại A: Từ 17 đến 20 điểm
 Xếp loại B : Từ 14 đến <17 điểm
 Xếp loại C : Từ 10 đến <14 điểm
 Không xếp loại: < 10 điểm) 
 Ngày tháng năm 2015
 Người chấm 1 Người chấm 2 Chủ tịch Hội đồng xét duyệt 
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) 
Đánh giá của hội đồng khoa học trường:
	.
Đánh giá của hội đồng khoa học PGD:
	.
TÊN CƠ QUAN CHỦ QUẢN
Đơn vị
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT 
 NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN CHẤM VÀ XÉT DUYỆT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tên SKKN :	
Tác giả :	
Môn (hoặc Lĩnh vực):	
Đơn vị :	
Đánh giá của Hội đồng chấm (Ghi tóm tắt những đánh giá chính):
 Tính sáng tạo : .......... / 4 điểm
Tính KH, SP : .......... / 4 điểm
Tính hiệu quả : ......... / 6 điểm
Tính Phổ biến, ứng dụng : ......... / 6 điểm
 Tổng số : ....... điểm 
Xếp loại :...............
(Xếp loại A: Từ 17 đến 20 điểm
 Xếp loại B : Từ 14 đến <17 điểm
 Xếp loại C : Từ 10 đến <14 điểm
 Không xếp loại: < 10 điểm) 
 Ngày tháng năm 2015
 Người chấm 1 Người chấm 2 Chủ tịch Hội đồng xét duyệt 
(Ký, ghi rõ họ tên) (Ký, ghi rõ họ tên) 

File đính kèm:

  • docSKKN mon Ngu van 8.doc
Sáng Kiến Liên Quan