Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí tình huống trong tiết thực hành môn Đạo đức Lớp 3
Thực trạng nội dung cần nghiên cứu
Những năm qua tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn Đạo đức lớp 3. Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau:
1.1. Thuận lợi
Giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có ý thức tinh thần trách nhiệm cao, biết nắm bắt đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Thường xuyên chăm lo học hỏi đồng chí đồng nghiệp, qua sách báo tài liệu, đặc biệt nhanh nhạy trong việc tiếp cận với xu thế của việc dạy học mới hiện nay.
Giáo viên sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, phát huy khá hiệu quả khả năng học tập của học sinh. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học như băng hình, truyện kể. giúp học sinh nắm được nội dung bài học.
Nhà trường đang dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, đây là một thuận lợi rất lớn vì học sinh được phát huy tính tự tin, phát huy quyền làm chủ trong quá trình học tập do đó, số học sinh tự ti, nhút nhát sẽ giảm đáng kể.
Được Ban giám hiệu nhà trường, lãnh đạo địa phương, phụ huynh học sinh. quan tâm giúp đỡ khích lệ.
Đa số các em thích chơi trò chơi, đóng vai trong các tiết học. Học sinh xác
định được động cơ và thái độ học tập đúng đắn. Các em chăm chỉ học tập, thích tìm hiểu và khám phá, thích được thầy cô giáo khen.
1.2. Khó khăn
* Về giáo viên: Trong quá trình dạy môn Đạo đức lớp 3, tôi nhận thấy giáo viên gặp khó khăn khi hướng dẫn học sinh đóng vai xử lí tình huống.
- Giáo viên cho học sinh trước “kịch bản”, học sinh chỉ cần đọc thuộc rồi lên diễn lại nên giọng nói, cử chỉ, điệu bộ còn rất cứng nhắc, chưa linh hoạt.
- Giáo viên vì sợ mất thời gian nên thường gọi hoặc chọn những em, những nhóm nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin lên thực hiện đóng vai.
- Khi tổ chức phương pháp đóng vai thì công tác chuẩn bị trang phục, đạo cụ còn gặp khó khăn bởi giáo viên cần phải chuẩn bị nhiều đồ dùng dạy học (trang phục, các đồ dùng cần thiết.) trong khi giáo viên còn phải dạy nhiều môn học khác.
- Ngoài các tình huống có sẵn trong chương trình thì giáo viên cũng mất thêm thời gian tạo ra các tình huống khác.
* Về học sinh:
Đối với học sinh, khi lên thực hiện đóng vai xử lí tình huống không phải em nào cũng muốn tham gia. Hầu hết những em nhút nhát, ngoại hình không được bắt mắt (béo quá, gầy quá,.) không dám lên tham gia vì sợ các bạn dưới lớp trêu chọc.
Các em thường hay quên mang theo những dụng cụ hóa trang cho nhân vật mình đóng dù giáo viên đã nhắc nhở hoặc phân công.
ách giải quyết đúng, hợp lí sau phần diễn ấy. Ưu điểm của đóng vai xử lí tình huống là: Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn; Gây hứng thú và chú ý cho học sinh; Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo đức và chính trị – xã hội; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Do vậy, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí tình huống trong tiết thực hành môn đạo đức lớp 3” để nghiên cứu, thực nghiệm, nhằm góp phần tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn cho bản thân, cho đồng nghiệp cũng như giúp các em học sinh lớp 3 có thêm nhiều kĩ năng đóng vai xử lí tình huống để làm cho tiết học hiệu quả. 2. Điểm mới của sáng kiến Sáng kiến của tôi ngoài việc cung cấp cho giáo viên các yêu cầu sư phạm tổ chức cho học sinh nhập vai vào các nhân vật trong những tình huống đạo đức giả định còn giúp học sinh mạnh dạn, tự tin khi lên đóng vai và đưa ra những cách ứng xử phù hợp với nội dung tình huống. 3. Phạm vi áp dụng sáng kiến Nghiên cứu đề tài này, tôi nghiên cứu thực tiễn khả năng đóng vai xử lí tình huống cho học sinh trong các tiết thực hành ở lớp 3. Từ đó đưa ra các biện pháp để giúp giáo viên cũng như học sinh thực hiện tốt những bước cần thiết để tổ chức phương pháp đóng vai xử lí tình huống. II. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu Những năm qua tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn Đạo đức lớp 3. Qua quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau: 1.1. Thuận lợi Giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có ý thức tinh thần trách nhiệm cao, biết nắm bắt đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, lấy học sinh làm trung tâm. Thường xuyên chăm lo học hỏi đồng chí đồng nghiệp, qua sách báo tài liệu, đặc biệt nhanh nhạy trong việc tiếp cận với xu thế của việc dạy học mới hiện nay. Giáo viên sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, phát huy khá hiệu quả khả năng học tập của học sinh. Sử dụng có hiệu quả các phương tiện dạy học như băng hình, truyện kể..... giúp học sinh nắm được nội dung bài học. Nhà trường đang dạy học theo mô hình trường học mới VNEN, đây là một thuận lợi rất lớn vì học sinh được phát huy tính tự tin, phát huy quyền làm chủ trong quá trình học tập do đó, số học sinh tự ti, nhút nhát sẽ giảm đáng kể. Được Ban giám hiệu nhà trường, lãnh đạo địa phương, phụ huynh học sinh... quan tâm giúp đỡ khích lệ. Đa số các em thích chơi trò chơi, đóng vai trong các tiết học. Học sinh xác định được động cơ và thái độ học tập đúng đắn. Các em chăm chỉ học tập, thích tìm hiểu và khám phá, thích được thầy cô giáo khen. 1.2. Khó khăn * Về giáo viên: Trong quá trình dạy môn Đạo đức lớp 3, tôi nhận thấy giáo viên gặp khó khăn khi hướng dẫn học sinh đóng vai xử lí tình huống. - Giáo viên cho học sinh trước “kịch bản”, học sinh chỉ cần đọc thuộc rồi lên diễn lại nên giọng nói, cử chỉ, điệu bộ còn rất cứng nhắc, chưa linh hoạt. - Giáo viên vì sợ mất thời gian nên thường gọi hoặc chọn những em, những nhóm nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin lên thực hiện đóng vai. - Khi tổ chức phương pháp đóng vai thì công tác chuẩn bị trang phục, đạo cụ còn gặp khó khăn bởi giáo viên cần phải chuẩn bị nhiều đồ dùng dạy học (trang phục, các đồ dùng cần thiết......) trong khi giáo viên còn phải dạy nhiều môn học khác. - Ngoài các tình huống có sẵn trong chương trình thì giáo viên cũng mất thêm thời gian tạo ra các tình huống khác. * Về học sinh: Đối với học sinh, khi lên thực hiện đóng vai xử lí tình huống không phải em nào cũng muốn tham gia. Hầu hết những em nhút nhát, ngoại hình không được bắt mắt (béo quá, gầy quá,.....) không dám lên tham gia vì sợ các bạn dưới lớp trêu chọc. Các em thường hay quên mang theo những dụng cụ hóa trang cho nhân vật mình đóng dù giáo viên đã nhắc nhở hoặc phân công. 2. Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành môn Đạo đức lớp 3. Biện pháp 1: Giáo viên vần đưa ra các tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học. Mỗi bài đạo đức lớp 3 là một chủ đề khác nhau. Vì thế mỗi giáo viên cần xác định nội dung đóng vai phải phù hợp, gần gũi với học sinh, làm sao giúp học sinh có khả năng tự hình thành một kịch bản phù hợp để thực hiện đóng vai. Vì thế khi đưa ra các tình huống giáo viên cần: a) Tình huống không nên quá dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép. Khi đưa ra các tình huống, bản thân giáo viên là người trực tiếp hướng dẫn cho học sinh thực hiện xử lí tình huống cần đưa ra tình huống phù hợp với nội dung bài học, gắn với những hành vi ứng xử của học sinh trong cuộc sống hằng ngày. Tình huống phải đảm bảo thời gian học sinh thực hiện và chia sẻ trước lớp. Ví dụ: Bài tập 5: Em đã hứa cùng bạn làm một việc gì đó, nhưng sau đó em hiểu ra việc làm đó là sai. Khi đó em sẽ làm gì? a) Vẫn thực hiện lời hứa b) Không làm việc đó và cũng không nói gì với bạn c) Không làm và giải thích lí do mình không muốn làm d) Không làm, giải thích lí do và khuyên bạn cũng không nên làm điều sai trái. (Bài 2: Giữ lời hứa trang 4) Với các nội dung tình huống trên, giáo viên cần đưa ra sẵn nội dung gợi mở cho học sinh. Trong bài tập trên thì tình huống có thể vẫn xảy ra hằng ngày trong cuộc sống và chắc chắn các em cũng đã gặp rất nhiều. Ví dụ như: các em trốn học đi chơi điện tử; lấy trộm tiền của bố mẹ, người thân để mua đồ chơi; .... b) Tình huống phải có nhiều cách giải quyết. Khi đưa ra tình huống, giáo viên nên cho học sinh đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Nhóm này có thể đưa ra cách giải quyết này thì nhóm khác có thể có những cách giải quyết khác để giải quyết vấn đề đặt ra, như vậy bản thân học sinh dễ dàng vận dụng. Ví dụ: Bài 3: Em sẽ làm gì trong tình huống sau: - Bà Năm ở cạnh nhà em là mẹ liệt sĩ. Mấy hôm nay bà bị ốm (Bài 8: Biết ơn thương binh, liệt sĩ trang 31) Giáo viên có thể chọn tình huống này để cho học sinh thảo luận đóng vai bởi tình huống này có nhiều cách giải quyết khác nhau. Học sinh có thể thảo luận xử lí tình huống này như sau: + Đi mua thuốc giúp bà. + Rủ một số bạn trong lớp đến giúp bà làm việc nhà, trò chuyện với bà. + Báo cho chính quyền địa phương biết để có hướng giải quyết. c) Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp; không cho trước “ kịch bản”, lời thoại. Khi đưa ra tình huống, giáo viên cần để mở để học sinh biết tự tìm phương án giải quyết tình huống đó. Học sinh tự tìm kịch bản phù hợp để đưa ra cách giải quyết thấu đáo nhất đối với vấn đề được đưa ra. Biện pháp 2: Cho học sinh quan sát các cách ứng xử trong đời sống hằng ngày. Để đi đến xây dựng một kịch bản phù hợp với nội dung tình huống đưa ra, giáo viên cần yêu cầu học sinh quan sát các hành vi ứng xử của bản thân, bạn bè, thầy cô, gia đình để có những ngữ liệu cần thiết trong việc đưa ra cách thể hiện của mình trước những vấn đề mà các em đã thấy hoặc đã nghe. Mỗi cách ứng xử của mọi người chính là bài học mà học sinh có thể rút ra và làm theo. Theo tôi, khi xây dựng một kich bản, giáo viên nên cho học sinh tập quan sát, tập lắng nghe để học sinh biết việc làm nào đúng, việc làm nào sai và vận dụng một cách linh hoạt trong việc tạo ra một kịch bản hay để đóng vai xử lí tình huống. Ví dụ : Bài 2: Xử lí các tình huống sau: a) Bác Hai ở cạnh nhà em bị cảm. Bác nhờ em đi gọi con gái bác đang làm ngoài đồng (Bài 7: Quan tâm, giúp đỡ hàng xóm láng giềng trang 25) Ở bài tập này, tôi có thể cho học sinh thảo luận để đóng vai. Đối với tình huống đưa ra, tôi nhận thấy đây là tình huống mà tất cả chúng ta ai cũng bắt gặp. Việc giúp đỡ mọi người là một việc làm mà chúng ta thường xuyên thực hiện trong đời sống hằng ngày. Như vậy, vấn đề đưa ra gần gũi với các em. Tôi hướng các em nhớ lại cách ứng xử của mình khi giúp đỡ mọi người, được mọi người giúp đỡ lại mình để đưa ra cách xử lí cho phù hơp. Tôi luôn nói với các em rằng, mỗi ngày, các em hãy dành cho mình một ít thời gian để quan sát, lắng nghe những việc xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó không những giúp mình có nhiều hiểu biết hơn mà việc làm đó còn giúp mình biết lắng nghe và chia sẻ. Và các em hãy luôn quan niệm rằng “Cho đi là còn mãi” để thấy cuộc đời luôn có nhiều niềm vui. Hay như bài: Quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em, tình huống đưa ra như sau: Đang ngồi học bài trong nhà thì em nhìn thấy có mấy em nhỏ đang chơi trò chơi nguy hiểm ngoài sân (như trèo cây, nghịch dao, chơi ở bờ ao,......) Đây là tình huống mà em nào cũng có thể gặp trong cuộc sống. Tình huống rất gần gũi đối với các em. Các em thường ứng xử như thế nào thì có thể đưa vào để giải quyết tình huống này. Hay như tình huống " Bác Nam có việc vội đi đâu từ sớm. Bác nhờ em trông nhà giúp". Tình huống này thực sự là tình huống rất gần gũi đối với các em. Các em đã trải qua trong thực tế hàng ngày. Tôi cho các em tự quan sát, tự ứng xử để áp dụng. Biện pháp 3: Giúp học sinh xây dựng kịch bản đóng vai Sau khi học sinh đã xác định được nội dung cần đóng vai thì người giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh xây dựng một kịch bản vừa giải quyết được vấn đề, vừa áp dụng được trong cuộc sống. Để thực hiện được biện pháp này giáo viên cần: a) Mỗi tình huống có thể phân công một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai Đối với các tình huống đưa ra, tôi luôn lựa chọn một tình huống và phân công các nhóm xây dựng kịch bản để đóng vai. Việc làm này giúp học sinh tập trung vào môt vấn đề nhưng đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Như vậy, mỗi nhóm sẽ học hỏi những bài học mà các nhóm khác đưa ra và các em sẽ có nhiều hành vi ứng xử để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống. Ví dụ ở bài 12: Tôn trọng thư từ, tài sản của người khác Em hãy cùng các bạn trong nhóm thảo luận xử lí các tình huống sau: a) Giờ ra chơi, thấy Mai đang ngồi đọc thư của bà ở quê gửi lên, Linh liền giật thư từ tay Mai và chạy ra sân rủ Quang mở ra xem. Em sẽ làm gì nếu là Quang? b) Bình và Nguyên sang nhà Dung chơi. Trong lúc Dung ra phòng ngoài nghe điện thoại, Bình rủ Nguyên lấy sổ nhật kí của Dung để trên bàn ra xem Dung viết những gì. Em sẽ làm gì nếu là Nguyên? Đối với các tình huống này, tôi sẽ phân công 3 nhóm thực hiện tình huống a, ba nhóm còn lại thực hiện nhiệm vụ b. Như vậy, sẽ có ba nhóm đưa ra các cách giải quyết các tình huống khác nhau. Học sinh có thể dễ dàng nhận thấy tất cả các hành vi ứng xử khác nhau để vận dụng trong cuộc sống. b) Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị đóng vai Theo tôi, để học sinh xây dựng được một kịch bản hay thì giáo viên cần cho học sinh thời gia thảo luận. Trong quá trình dạy học, tôi thường yêu cầu học sinh tìm hiểu kĩ tình huống trước. Các em có thể thực hiện công việc này ở nhà và xem nó như một dự án cần thực hiện. Khi học sinh xem là dự án thì bản thân các em sẽ tìm hiểu kĩ càng tình huống, xác định các cách giải quyết, xác định các nhân vật tham gia xử lí các tình huống trên. c) Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần đưa ra thời gian cụ thể để học sinh thảo luận, tạo cho học sinh biết cách làm việc khoa học. Cần quy định thời gian đóng vai để học sinh xây dựng kịch bản giải quyết một cách ngắn gọn, súc tích. d) Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết. Giáo viên không nên để cho học sinh tự thực hiện. Mỗi nhóm sẽ có tiến độ thực hiện khác nhau. Vì thế, trong quá trình học sinh xây dựng kịch bản đóng vai, giáo viên cần quan sát các nhóm một cách kĩ càng để phát hiện nhóm nào đã biết xử lí, nhóm nào còn lúng tùng, chưa đưa ra được kịch bản giải quyết. Trong quá trình dạy học, bản thân tôi xem công việc này rất quan trong. Tôi luôn luôn theo dõi tiến độ hoàn thành để có biện pháp can thiệp kịp thời đối với các nhóm. Biện pháp 4: Giáo dục học sinh biết cách hợp tác nhóm Trong dạy học, giáo viên cần kết hợp phát triển tất cả các năng lực cho học sinh. Một trong những năng lực cần cho học sinh là năng lực hợp tác nhóm. Với mỗi tình huống khác nhau, học sinh trong nhóm phải biết cùng nhau đưa ra cách giải quyết. Trong đó tôi luôn quan tâm bồi dưỡng cho nhóm trưởng, người trực tiếp điều khiển các hoạt động của nhóm. Tôi luôn yêu cầu các nhóm trưởng cắt cử người đóng vai phù hợp, có sự phân công hợp lí giữa các thành viên trong nhóm. Mỗi cá nhân trong từng nhóm cần góp ý kiến phù hợp với nội dung, sát với yêu câu. Trong nhóm cần phụ giúp nhau đưa ý tưởng, xây dựng và hoàn thiện kịch bản, phân công nhân vật, chuẩn bị đạo cụ để thực hiện. Trong thực tế các lớp tôi dạy, tôi thấy các nhóm đã hoạt động nhóm khá tốt. Các em đã biết phân công công việc hợp lí giữa các thành viên. Biện pháp 5: Cần khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia. Trong lớp học, có những học sinh rất mạnh dạn, năng nổ nhưng cũng có nhưng học sinh nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia các hoạt động. Đối với việc diễn kịch thì càng khó hơn cho những em chưa tự tin. Tôi thấy hoạt động đóng vai giúp cho học sinh tự tin hơn lên rất nhiều. Những em học sinh nhút nhát được tham gia làm việc nhóm, được đóng vai cùng các bạn làm tăng khả năng giao tiếp cho các em. Vì thế, giáo viên cần yêu cầu tất cả các học sinh cùng tham gia. Khi đóng vai, không nên hạn chế số lượng học sinh tham gia. Giáo viên nên quan tâm hơn đến các em học sinh thiếu tự tin, yêu cầu các nhóm phân công nhiệm vụ, nhân vật thích hợp để các bạn đó được tham gia. Các em được tham gia, được trao đổi đóng góp y kiến sẽ giúp các em tăng thêm các năng lực của bản thân. Biện pháp 6: Nên có hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của tiểu phẩm đóng vai. Đối với mỗi tiểu phẩm, ngoài kịch bản hay thì đạo cụ, hóa trang sẽ làm tăng tình hấp dẫn của tiểu phẩm. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị từ trước các đạo cụ cần thiết. Các em có thể hóa trang để hóa thân thành các nhân vật như người già, bác trưởng thôn, bà cụ, thầy cô giáo, chú công an, anh thương binh,... Tất cả sẽ tạo hiệu ứng rất tốt, giúp các em tự tin để diễn, và tình huống đó sẽ sát hơn với thực tế cuộc sống của các em. Ví dụ tình huống "Sâm đang chơi với các bạn ở đầu ngõ thì thấy bà ngoại ở quê ra chơi" (Bài 4: quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em). Với kịch bản của mình, tôi nhận thấy một số lớp tôi dạy, các em đã hóa trang thành bà ngoại rất dễ thương, một số em ở các lớp còn hóa trang bà cầm thêm một cái gậy, lưng các em hơi còng xuống, các em còn đưa thêm cái nón đội lên đầu rất ra dáng bà già. Như vậy với cách diễn xuất và phục trang đạo cụ như vậy thì việc đóng vai sẽ rất thú vị. 3. Kết quả, bài học kinh nghiệm: a. Kết quả: Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực hiện ở các lớp tôi dạy thì kết quả khả quan hơn so với cách dạy thông thường và đây là kết quả thu được sau khi áp dụng phương pháp đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành. Số học sinh khối 3 Số học sinh được tham gia đóng vai Số học sinh thích tham gia đóng vai Số học sinh nhút nhát, không tự tin Lớp SL SL TL SL TL SL TL 3A 32 32 100 % 26 82,8 % 6 20,7 % 3B 29 29 100 % 24 83,3 % 5 16,7 % 3C 29 29 100 % 23 79,3 % 6 20,7 % 3D 29 29 100 % 24 82,8 % 5 17,2 % Tổng 119 119 100 % 97 81,5 % 22 18,5 % b. Bài học kinh nghiệm: Qua quá trình áp dụng thực hiện ở các lớp đã dạy thì tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau: 1. Cần phải nghiên cứu kỹ các văn bản chỉ đạo chuyên môn dạy học môn Đạo đức của cấp trên. 2. Không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 3. Thường xuyên cập nhật các tình huống, các câu hỏi liên quan đến nội dung môn học trên các phương tiện thông tin đại chúng. 4. Giáo viên cũng cần phải là một tấm gương sáng về xử lý các tình huống trong cuộc sống hằng ngày để học sinh noi theo. III. PHẦN KẾT LUẬN 1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của sáng kiến: Môn đạo đức ở trường Tiểu học sẽ giúp cho học sinh có những hiểu biết ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó. Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh. Theo chuẩn mực đã học, kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp với chẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống. Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai, cái xấu. Và quan trọng hơn cả đó là người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em đang trong quá trình hoàn thiện vốn sống của bản thân. Người giáo viên cần có phương pháp giảng dạy làm sao để các em dễ hiểu nhất, tìm được kết quả với con đường ngắn nhất, cải tiến góp phần cho lớp học có chất lượng đồng đều, giảm hẳn lượng học sinh không đủ tự tin lên tham gia đóng vai trong giờ học. Qua việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp dạy học giúp học sinh nạnh dạn, tự tin tham gia đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành môn đạo đức cho thấy việc lên tham gia đóng vai đối với học sinh không khó. Sau quá trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp trên vào thực tiễn thì tôi thấy học sinh đã mạnh dạn hơn, tự giác lên tham gia đóng vai góp phần làm cho giờ học phong phú sôi nổi, hấp dẫn và tăng hiệu quả của tiết dạy. Với quá trình nghiên cứu, tham khảo tài liệu và ý kiến đóng góp của bạn bè đồng nghiệp. Tôi tự tìm ra con đường để tháo gỡ những vướng mắc giúp học sinh nắm vững bài học. Tuy các biện pháp tôi đưa ra chưa thật đầy đủ do điều kiện về năng lực cũng như về thời gian nghiên cứu thực hành nhưng tôi hi vọng rằng nó góp một phần không nhỏ trong việc dạy học môn đạo đức trong trường tiểu học. 2. Kiến nghị: Sau khi tìm hiểu thực trạng của việc vì sao học sinh không mạnh dạn, tự tin lên tham gia đóng vai hóa thân vào các nhân vật trong các tiểu phẩm, tình huống cũng như xác định được một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó, nhằm giúp học sinh yêu thích phương pháp đóng vai ở môn học đạo đức, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau: 2.1. Đối với nhà trường: - Cần có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao cho giáo viên và học sinh để bổ sung phương pháp dạy, đáp ứng nhu cầu dạy – học. - Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp. - Duy trì tốt việc thao giảng, thăm lớp, dự giờ giáo viên trong trường. - Với yêu cầu tiết dạy môn Đạo đức sử dụng đồ dùng dạy học minh họạ nhiều, thường xuyên để tạo cảm hứng cho học sinh học tập, tiết dạy đạt hiệu quả cao. Vì thế nhà trường nên phân công cho giáo viên chuyên phụ trách dạy môn học này để giáo viên có điều kiện đầu tư vào việc chuẩn bị kĩ đồ dùng dạy học, sử dụng được cho nhiều lớp. 2.2. Đối với giáo viên: Giáo viên phải luôn đổi mới phương pháp dạy theo mô hình trường học mới phù hợp với đối tượng học sinh của mình: “Lấy học sinh để hướng vào hoạt động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động trong việc học''. Giáo viên cần phải chịu khó tìm tòi, sưu tầm thêm nhiều tình huống xảy ra hằng ngày trong cuộc sống để cho các em thực hiện đóng vai trong các tiết học, ít nhất trong một bài học thì có một tình huống đóng vai. Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa, giáo viên có thể chủ động lồng ghép dạy đạo đức cho nhiều lớp, tổ chức trò chơi thi đua giữa các lớp với nhau nhằm tạo điều kiện cho các em giao lưu, học hỏi kiến thức từ các bạn lớp khác. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã và đang thực hiện. Tuy các biện pháp này còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhưng nếu chúng ta biết phối kết hợp và vận dụng chúng sao cho phù hợp với thực tế đối tượng học sinh của mình thì nó sẽ góp phần không nhỏ vào việc làm cho các em học sinh yêu thích môn học đạo đức. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các bạn đồng nghiệp./.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_dong_va.doc