Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3 - Nguyễn Văn Thi

Những thuận lợi, khó khăn

 *Thuận lợi

 - Cơ sở vật chất nhà trường đảm bảo và phù hợp với lứa tuổi học sinh.

 - Nhìn chung các em ngoan, tham gia tích cực các hoạt động của trường của lớp.

 - So với trước đây, phụ huynh đã có sự quan tâm hơn đối với việc học tập của con em mình.

 - Về phía giáo viên: Hầu hết các thầy cô đều yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với nghề nghiệp, có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao, 100% giáo viên đã đạt chuẩn và trên chuẩn.

 * Khó khăn

 - Đa số các em là con em dân tộc thiểu số phát âm chưa chuẩn nên khi đọc đầu bài còn gặp khó khăn huống chi là hiểu được yêu cầu của bài toán.

 - Nhiều em chưa được bố mẹ quan tâm, ít chú ý đến việc học tập. Hơn nữa trình độ học vấn của các bậc phụ huynh chưa tiếp cận được với phương pháp học tập theo chương trình đổi mới.

 Thực trạng của học sinh hiện nay có thể khẳng định rằng học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng còn yếu về khả năng phân tích, tư duy để giải bài toán có lời văn.

 

doc23 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 762 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở Lớp 3 - Nguyễn Văn Thi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo.
	VD: Tính diện tích và chu vi hình chữ nhật có chiều dài là 4 dm, chiều rộng là 8 cm.
	- Học sinh yếu kém nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu.
	- Học sinh yếu còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4.
	- Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tồng hợp kiến thức của các em còn kém, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai.
	VD: Bài toán
	+ Cho cạnh hình vuông tính chu vi và diện tích, học sinh nhầm giữa hai cách tính nên kết quả bị sai.
+ Cho chiều dài, chiều rộng hình chữ nhật. Tính chu vi, diện tích. Học sinh lại nhầm hai công thức tính dẫn đến kết quả sai.
Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
Dạng 1
+ Bước 1: Rút về đơn vị, tìm giá trị một phần
- Học sinh nhầm khi trả lời chưa rõ ràng
	- Sau khi thực hiện phép tính chia ghi danh số sai với câu trả lời
	VD: Bài 2 trang 128
	“Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lô-gam gạo?”
	Học sinh trả lời sai:
Danh số kết quả sau: 28 : 7 = 4 (bao)
Học sinh phải làm đúng là: 28 : 7 = 4 (kg)
Bước 2: Tìm 5 bao có số ki-lô-gam gạo là:
4 x 5 = 20 (kg)
	Học sinh hay đặt ngược phép tính là:
5 x 4 = 20 (bao)
	Như vậy:
	Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay trả lời sai hoặc sai danh số, phép tính sai vì đặt ngược.
	Dạng 2:
	Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia
	Bước 2: Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán.
	- Học sinh thường sai: Trả lời sai, ghi danh số nhầm
	VD: Bài toán 2 trang 166
	Bước 1: tìm giá trị một phần
	- Học sinh trả lời sai
7.2. 4. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
	a. Nguyên nhân khách quan
	- Do đặc thù tình hình của địa phương là vùng đất nông nghiệp 90% học sinh là con em nông dân trong đó có đến 50% là con nông dân nghèo, điều kiện 
kinh tế gia đình eo hẹp dẫn đến điều kiện học tập của các em cũng bị ảnh hưởng rất nhiều.
	- Một số gia đình chưa thực sự quan tâm động viên các em kịp thời cũng như tạo điều kiện tốt hơn để các em học tập.
	b. Nguyên nhân chủ quan
	- Giáo viên: Trong giảng dạy, một số giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, nhịp độ giảng dạy quá nhanh khiến học sinh yếu, kém không theo kịp. Một số giáo viên còn thiếu tinh thần trách nhiệm với học sinh. Việc đầu tư cho chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế, chưa nắm vững yêu cầu về kỹ thuật và kỹ năng của bài toán, chưa quan tâm đến học sinh yếu, kém.
	- Học sinh:
	+ Sự phát triển nhận thức của một số em còn chậm, không đồng đều, hoạt động tư duy logic kém. Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin.
	+ Ngoài ra, có em do sức khỏe chưa tốt, gia đình chưa quan tâm đến việc học hành của các em. Một số phụ huynh do không nắm được cách giải toán ở tiểu học nên không hướng dẫn được cho các em hoặc hướng dẫn các em những cách giải toán của bậc Trung học cơ sở.
	Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học xong đây chỉ là một số nguyên nhân mà trong chương trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học tập của học sinh, làm cho cac em thiếu tự tin cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả học tập không tốt.
	Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có biện pháp khắc phục hợp lí.
7.3. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
	Việc dạy học gải toán ở tiểu học là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, mô tả quan hệ đó bằng cấu trúc ghép tính cụ thể, thực hiện phép tính, trình bày lời giải bài toán. Giáo viên cần phải tổ chức cho học sinh nắm vững khái niệm toán học, cấu trúc phép tính, các thuật ngữTổ chức cho học sinh thực hiện các bước giải toán. Vậy qua quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài tôi xin đưa ra một số biện pháp sau đây.
7.3. 1. Trang bị những công thức, quy tắc, kỹ năng giải toán
	Đây là vấn đề vô cùng quan trọng trong việc truyền tải kiến thức cho học sinh, thay thế cho việc giáo viên áp đặt kiến thức cho học sinh buộc học sinh phải thuộc lòng những điều giáo viên thuyết trình (phương pháp dạy học truyền thống) bằng việc giáo viên là người dẫn dắt các em tự mình tìm tòi khám phá kiến thức mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết. Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài toán và cần phải được chính xác hóa nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy
	Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, các bước tính của một phép tính từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán.
	Đối với loại toán có nội dung hình học thì khả năng nhận biết các đặc điểm cảu một hình vẽ là rất quan trọng.
	Ví dụ:	 Khi dạy về “Diện tích hình chữ nhật” giáo viên cần cho học sinh nhắc lại đặc điểm của hình chữ nhật thông qua hình vẽ.
+ Khả năng cắt ghép hình tam giác thành hình chữ nhật.
	+ Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh nhớ rõ các ký hiệu hình vẽ. 
Chẳng hạn, đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính.
	Bài tập VD: Cho hình chữ nhật có cạnh dài là 8cm, cạnh ngắn là 5cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ?
	Với bài tập này học sinh chỉ cần vận dụng đúng quy tắc, công thức đã được trang bị là giải được ngay. Cũng có những bài toán đòi hỏi học sinh phải có khả năng tư duy thì mới giải được. Do vậy, giáo viên cần rèn cho các em kỹ năng này.
	VD: Bài toán: Cho hình chữ nhật có nửa chu vi là 22cm, cạnh ngắn là 9 cm. Tính diện tích hình chữ nhật đó ?
	- Khi giải bài toán không có cùng đơn vị đo thì phải biết đổi ra cùng một đơn vị đo.
	VD: Số đo cạnh theo mm, số đo diện tích theo cm2. Vậy phải đổi số đo cạnh ra cm.
	- Giáo viên cần lưu ý cho học sinh:
	+ Với hình chữ nhật có số đo chu vi là cm, thì đơn vị đo của diện tích là cm2
	+ Với hình vuông có số đo chu vi là cm thì đơn vị đo của diện tích hình vuông là cm2.
*Với bài toán liên quan đến rút về đơn vị:
	 Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết đề bài yêu càu tính cái gì? Bài toán thuộc dạng 1 hay dạng 2 để giải bài toán.
	Ví dụ:
	+ Bài toán ở dạng 1 thì phải tìm giá trị của một phần là thực hiện phép chia rồi mới tìm được giá trị của nhiruf phần (thực hiện phép tính nhân).
	+ Bài toán chia ở dạng 2 thì: Bước 1 cũng phải tìm giá trị một phần (thực hiện phép tính chia) nhưng ở bước 2 thì lại khác với bước 2 ở dạng 1 đó là biết giá trị một phần rồi lại tiếp tục thực hiện phép chia để tìm kết quả theo yêu cầu của bài toán.
	*Điều quan trọng chủ yếu khi dạy giải toán là dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không được làm thay, không được áp đặt cach giải cần phải tạo cho học sinh tự tìm ra cách giải bài toán tập trung vào 3 bước:
	+ Tính toán để biết bài toán cho gì, hỏi gì, yêu cầu gì?
+ Tìm cách giải thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa các dữ kiện của 
bài toán (giả thiết) với yêu cầu của bài (kết luận) để tìm ra phép tính tương ứng.
	+ Trình bày bài giải, viết câu lời giải, phép tính trung gian và đáp số.
7.3. 2. Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán điển hình	
	Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy của mình, tôi nhận thấy rèn kĩ năng giải toán cho học sinh là một biện pháp không thể thiếu trong qua trình dạy học.
	Do đặc điểm của môn toán ở tiểu học được cấu tạo theo kiểu đồng tâm các nội dung được củng cố thường xuyên và được phát triển dần từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó. Sau khi đã lĩnh hội kiến thức, kĩ năng toán học, để định hình vững chắc kiến thức ấy, học sinh cần rèn luyện vận dụng qua các dạng bài tập khác nhau, có yêu cầu cao hơn. Để giải được các bài tập ấy, giáo viên cần hướng dẫn các em tư duy từ cái đã biết để tìm cái chưa biết, rèn cho học sinh óc suy luận, phán đoán và kỹ năng.
	- Phân tích đề bài toán: Là một kỹ năng quan trọng nhất
	Ví dụ: Bài toán 1
 	“Một tờ giấy hình chữ nhật có chiều dài 72cm, chiều rộng bằng 1/8 chiều dài. Tính diện tích tờ giấy đó”.
	Để giải được bài toán này học sinh cần phải phân tích đề và dựa vào những yếu tố đã biết để giải.
	+ Bài toán đã biết chiều dài chưa?
	+ Bài toán đã biết chiều rộng chưa?
	Vậy để tính được diện tích tờ giấy thì ta phải tính gì trước?
	Qua hàng loạt câu hỏi đặt ra để phân tích yêu cầu bài toán, trả lời được các câu hỏi đó, học sinh sẽ làm được bài tập dễ dàng.
	Với các kỹ năng đã có của học sinh, giáo viên là người giúp học sinh rèn luyện và phát huy những kỹ năng ấy, cần cho học sinh nắm rõ thuật ngữ toán học”chiều rộng bằng 1/8 chiều dài nghĩa là gì?
	Biết phân tích và tóm tắt bài toán bằng cách ghi các dữ kiện đã cho và câu hỏi của bài toán dưới dạng ngắn gọn nhất. Qua tóm tắt học sinh có thể nêu lại được bài toán, từ đó lập kế hoạch giải, do vậy giáo viên cần hướng dẫn:
	+ Muốn tính được diện tích tờ giấy ta cần dữ liệu nào? (có chiều dài, có chiều rộng).
	+ Tìm chiều rộng bằng cách nào ? Lấy 72 : 8 = 9 (cm)
	Như vậy với một số câu hỏi gợi mở mà giáo viên đưa ra, học sinh có thể sẽ tìm cách giải bài toán về những kiến thức đã học để có thể áp dụng được công thức tính.
	*Bài toán liên quan đến rút về đơn vị
	Giáo viên cũng vận dụng cách hướng dẫn trên, yêu cầu học sinh phân tích kỹ yêu cầu bài toán, xem bài toán thuộc dạng toán 1 hay dạng toán 2. Vận dụng công thức tính đến việc suy luận cho nên việc xác định dạng toán là rất quan trọng.
	VD: “Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiều hàng như thế ?”.
	Để giải được bài toán này học sinh cần phải đọc kỹ bài toán phân tích tóm tắt bài toán, xem bài toán cho biết gì ? Bài toán yêu cầu những gì ?
	Tóm tắt:
	24 cúc áo: 4 cái áo
	42 cúc áo: cái áo
	Sau đó lập kế hoạch giải
	+ Bài toán đã cho biết dữ kiện nào ?(4 cái áo thì cần 24 cái cúc).
	+ Bài toán yêu cầu làm gì ? (42 cái cúc áo thì dùng cho mấy cái áo như thế)
	Vậy muốn biết 42 cúc áo thì dùng cho mấy cái áo thì ta phải đi tính gì trước? (Mỗi cái áo cần mấy cái cúc ?) 24 : 4 = 6 (cúc)
	Khi đã tính được một cái áo cần mấy cái cúc thì học sinh sẽ tìm được 42 cúc dùng cho mấy cái áo ? (lấy 42 : 6 = 7 (áo)
	Muốn giải được tốt bài toán này yêu cầu học sinh phải tìm hiểu, phân tích kỹ đầu bài (biết tóm tắt và trình bày bài toán thông qua tóm tắt) lập được kế hoạch bài giải bài toán và kỹ năng vận dụng sáng tạo những kiến thức đã học vào giải các bài toán ở mức độ phức tạp hơn. Do vậy giáo viên nhất thiết phải sử dụng biện pháp này nhằm rèn cho học sinh những kỹ năng trên giúp các em có khả năng giải mọi dạng toán khác nhau. Vận dụng kiến thức tổng hợp để giải toán xác lập mối quan hệ giữa các yếu tố và tìm đúng phép tính thích hợp.
7.3. 3. Biện pháp hướng dẫn học sinh trình bày bài giải
	Sau khi đã có những kỹ năng phân tích bài toán và lập được kế hoạch giải 
cho bài toán thì việc thực hiện cách giải và trình bày bài giải cũng là yếu tố quan trọng. Vậy làm như thế nào để câu trả lời của bài toán không bị sai, phép tính chính xác, ghi đáp số với kết quả phép tính có danh số kèm theo. Giáo viên cần hướng dẫn các em tìm ra các câu lời giải khác nhau nhưng biết trả lời ngắn, gọn mà đủ ý. Bài toán hỏi gì thì trả lời nấu nghĩa là biết dựa vào câu hỏi của bài 
toán để trả lời.
	*Khi trình bày bài giải giáo viên nên khuyến khích các em tìm ra nhiều cách giải. Sau đó hướng dẫn các em vào cách giải, cách trình bày bài giải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu nhất, lời giải hợp lý nhất để tránh cho học sinh yếu trả lời bài toán sai thì giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài để biết bài toán cho gì ? Bài toán yêu cầu làm như thế nào dựa vào câu hỏi của bài toán để ghi câu trả lời cho đúng thực hiện phép tính ghi danh số kèm theo chính xác để đáp số bài toán không bị sai theo.
	*Với bài toán trong khi giải cần đổi đơn vị đo thì giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh nhắc lại cách đổi đã học về đại lượng ấy. Qua đó củng cố những kiến thức có liên quan đến giải toán điển hình có ý nghĩa thực tiễn. Từ đó các em sẽ trình bày đúng bài giải. Chẳng hạn bài toán 1 trang 153, học sinh cần phải nhận xét: Xét 2 cạnh hình chữ nhật không cùng số đo nên phải đổi ra cùng đơn vị đo:
4 dm = 40 cm, sau đó mới trình bày bài giải:
4 dm = 40 cm
Diện tích hình chữ nhật là:
40 x 8 = 320 (cm2)
Chu vi hình chữ nhật là:
(40 + 8 ) x 2 = 96 (cm)
	 Đáp số: 320 cm2; 96 cm	
	Khi học giải toán xong thì giáo viên phải cho học sinh kiểm tra cách giải và kết quả là yêu cầu không thể thiếu khi giải toán và trở thành thói quen đối với học sinh ngay từ thiểu học. Việc này nhằm phân tích (thử lại) cách giải hay đúng sai Khi đã có những kỹ năng giải toán tốt giáo viên cần dạy cho học sinh những thủ thuật giải toán trong từng khâu, từng bước giải.
	*Ngoài ra những biện pháp đã nêu ở trên để có kết quả học tập tốt thì mỗi giáo viên cần có tâm huyết với nghề, có nghệ thuật sư phạm, có trách nhiệm trước học sinh. Đặc biệt là phải biết vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực, phải luôn tự bồi dưỡng trau dồi nâng cao trình độ nhận thức cho bản thân.
	Giáo viên cần có năng lực tổ chức các hoạt động dạy học phong phú nhằm thu hút học sinh tham gia tốt vào hoạt động học và rèn luyện cho học sinh năng lực khái quát hóa trong giải toán.
7.4. Về khả năng áp dụng của sáng kiến
- Qua nghiên cứu tôi đã đưa ra một số biện pháp và đúc kết được một số kinh nghiệm để giúp học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3.
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
*Đối với nhà trường:
 Đầu tư cơ sở vật chất thích hợp phục vụ cho giảng dạy và công tác giáo dục, tạo điều kiện cho giáo viên được đi học tập, bồi dưỡng. 
* Về cán bộ quản lý:
 Quán triệt thực hiện thực hiện nhiệm vụ năm học của PGD&ĐT. Cập nhật thường xuyên kịp thời các văn bản chỉ đạo của cấp trên về công tác giảng dạy, bồi dưỡng, các phong trào thi đua. Chỉ đạo có hiệu quả công tác giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục kiến thức, phẩm chất, năng lực học sinh. Chỉ đạo tốt công tác giảng dạy kiến thức cơ bản trên cơ sở đó phát huy tốt các khả năng để học sinh tham gia các cuộc thi giao lưu do phòng giáo dục, sở giáo dục tổ chức.
* Về giáo viên:
 Luôn có ý thức tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới phương pháp và cách đánh giá học sinh theo tinh thần đổi mới. 
 Giáo viên phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu của tiến trình giảng dạy, nâng cao chất lượng dạy học của bộ môn, phải dự giờ trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các bài giảng mẫu để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Giáo viên luôn tìm tòi những phương dạy học phù hợp với điều kiện thực tiễn, không áp đặt, không máy móc.
* Về cơ sở vật chất: 
 Để đảm bảo công tác GDTC cho học sinh đòi hỏi phải tăng cường các thiết bị dụng cụ phục vụ cho việc giảng dạy của thầy cô và của việc tập luyện của trò theo hướng:
- Mỗi năm nhà trường phải mua sắn thêm một số thiết bị dụng cụ. Thường xuyên cải tạo và nâng cao các sân tập.
- Tiến tới xây dựng nhà tập đa năng để đảm bảo tập luyện khi thời tiết không thuận lợi.
 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
Sau khi áp dụng một số phương pháp trong công tác giảng dạy môn toán ở lớp như trên, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi có những chuyển biến tích cực. Nhiều năm các lớp do tôi chủ nhiệm đều đạt được thành tích nhất định và chất lượng học tập đạt được cũng rất khả quan. Điển hình là các lớp vài năm gần đây do tôi phụ trách học sinh đều có năng lực, phẩm chất được đánh giá đạt và đặc biệt không có học sinh yếu kếm về môn toán.
 	Để trở thành một người thầy có đầy đủ khả năng thì mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp cần được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật thông tin để phục vụ cho giảng dạy và điều cần thiết hơn cả là mỗi giáo viên chúng ta cần có lòng nhân ái, lòng vị tha, tấm lòng yêu trẻ, tâm huyết với nghề.
 	Thành công của người thầy phần lớn đòi hỏi người giáo viên phải hiểu được những động cơ thúc đẩy cùng những hành vi của các em. Ngoài việc dạy học, người giáo viên chủ nhiệm lớp còn phải tìm hiểu xem học sinh của mình có cuộc sống như thế nào, những hứng thú của các em ra sao, đặc điểm cùng ý chí, kết hợp với những nét thuộc về tính cách của các em. Qua đó mới có thể có những biện pháp sư phạm hợp lý nhất tác động vào các em thì việc giáo dục mới có hiệu quả. Trong quá trình dạy học, giáo viên cần kịp thời giúp đỡ học sinh khi các em gặp khó khăn, không hiểu điều gì đó (nhất là các em chưa hoàn thành các môn học). Khen thưởng động viên kịp thời, nhằm phát huy tác dụng trực tiếp đến tinh thần tự học của các em.
 	Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - xã hội trong công tác giáo dục học sinh.
*Kết quả đạt được cuối học kỳ I và năm học 2018 - 2019:Với những biện pháp trên tôi đã thu được kết quả nhất định, học sinh giải các bài toán có nội dung hình học và dạng toán liên quan đến rút về đơn vị ngày càng tiến bộ. Học sinh có tư duy sáng tạo, tìm hiểu đúng yêu cầu của đề bài, trình bày bài giải đúng theo yêu cầu của bài toán.	
Lớp
TSHS
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
Điểm yếu
TS
Tỉ lệ %
TS
Tỉ lệ %
TS
Tỉ lệ %
TS
Tỉ lệ %
3C
36
11
30,5
10
27,7
13
41,8
0
0
	Như vậy lớp tôi đã có nhiều tiến bộ trong việc giải các bài toán điển hình. Tuy kết quả này chưa thực sự đã là cao song bản thân tôi cũng thấy vui và tự tin vào việc làm của mình về sáng kiến kinh nghiệm mà mình đã thực hiện.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của các giáo viên và của Ban giám hiệu :
 Theo ý kiến của tổ chức cơ sở thì sáng kiến được coi là những biện pháp đột phá ban đầu trong công tác giảng dạy môn toán nói riêng và công tác chủ nhiệm lớp nói chung, dễ áp dụng với điều kiện của nhà trường. Nhanh chóng được đông đảo các cá nhân hưởng ứng và tham gia cùng đóng góp. Sáng kiến còn đang trong giai đoạn thực nghiệm để đánh giá tính hiệu quả cao nhất
 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu:
Số TT
Tên tổ chức/cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến
1
Trường TH Chấn Hưng
Chấn Hưng - Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Nâng cao chất lượng đại trà môn toán lớp 3
2
Tổ chuyên môn 1,2,3 
 Trường Tiểu học Chấn Hưng
Nâng cao chất lượng đại trà môn toán lớp 3
 Sáng kiến kinh nghiệm: “ Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu kém khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3”. Là một số phương pháp mà tôi đã đúc rút được trong quá trình giảng dạy nhằm giúp học sinh vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tế, nhớ lâu hơn và giúp các em học môn toán tốt hơn Và đã đạt được những thành công nhất định. Song cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng khoa học, quý thầy cô, để tôi có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh
	Xin chân trọng cảm ơn ! 
Chấn Hưng, ngày 14 tháng 2 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị
Chấn Hưng, ngày 12 tháng 2 năm 2019
Tác giả sáng kiến

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_yeu.doc
Sáng Kiến Liên Quan