Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ trong trường mầm non
Thế kỷ 21 là thế kỷ của trí tuệ, là thế kỷ của nền kinh tế trí thức. Đất nước Việt Nam tiến tới năm 2020 với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và công nghệ cùng với nó là hình ảnh người công dân Việt Nam mới với trình độ học vấn cao, năng động, sáng tạo, có khả năng xử lý thông tin, có khả năng tự lựa chọn và giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống, thích ứng với sự biến đổi không ngừng của xã hội. Trách nhiệm này đặt trên vai ngành Giáo dục, đòi hỏi ngành phải có đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên giỏi, vì đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ ở các Trường Mầm non.
Tuổi Mầm non, đặc biệt ở thời kỳ tuổi mẫu giáo nhân cách của trẻ bắt đầu được hình thành và những nét tính cách được hình thành trong giai đoạn này thường ảnh hưởng tới bộ mặt đạo đức của trẻ ở những giai đoạn sau. Đồng thời đây cũng là thời kỳ trẻ đặc biệt nhạy cảm với mọi tác động bên ngoài (tính hay bắt chước) giáo dục Mầm non tốt sẽ ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển nhân cách của trẻ, chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho trẻ vào phổ thông như kiến thức, kỹ năng kỹ xảo, thói quen học tập và ngược lại.
Chất lượng là một khái niệm trừu tượng và khó định nghĩa, thậm chí khó nắm bắt. Trong một nghiên cứu khá nổi tiếng của Havey và Green ( 1993 ) nhằm tổng kết những quan điểm chung của các nhà giáo dục, chất lượng được đinh nghĩa như tập hợp các thuộc tính khác nhau: Chất lượng là sự xuất sắc; chất lượng là sự hoàn hảo; chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu, chất lượng là sự đáng giá với đồng tiền bỏ ra; chất lượng là sự chuyển đổi về chất. Do vậy, không phải dùng một phép đo đơn giản để đánh giá và đo lường chất lượng trong giáo dục. Trong giáo dục người ta thường dùng một bộ thước đo bao gồm các tiêu chí và các chỉ số tương ứng với các lĩnh vực trong quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ cộng đồng của các trường.
Chất lượng giáo dục mầm non là sự đáp ứng của nhà trường đối với các yêu cầu về mục tiêu giáo dục mầm non được quy định tại Luật Giáo dục.
Vậy, nâng cao chất lượng giáo dục mầm non là nâng cao sự đáp ứng của nhà trường đối với các yêu cầu về mục tiêu giáo dục mầm non là điều kiện thuận lợi cho GDMN nói chung và của trường mầm non nơi tôi công tác nói riêng thực hiện đổi mới căn bản toàn diện nói chung.
chơi đối với trẻ như vậy nên tôi đã mạnh dạn chỉ đạo giáo viên dùng phương pháp trò chơi đề giảng dạy. Khi sử dụng phương pháp này, tuỳ theo từng loại bài, loại tiết và đặc thù của môn học mà chúng tôi chọn trò chơi cho phù hợp: * Với môn tạo hình: Tiết vẽ theo ý thích ở lớp lớn, để gây hứng thú cho trẻ, ở đầu tiết chúng tôi chọn trò chơi vẽ theo lời ca (các bạn ở dưới hát một bài hát theo yêu cầu của cô còn các bạn tham gia chơi thì sẽ vẽ theo nội dung bài hát, kết thúc bạn nào vẽ nhanh hơn và đúng nội dung thì sẽ được thưởng, còn trò chơi gõ trống vẽ tranh thi trẻ phải vẽ xong một bức tranh sau một hồi trống, ai xong trước và đẹp sẽ được thưởng các trò chơi này diễn ra rất nhanh, trẻ rất hứng thú chính vì vậy mà khi đến lượt cả lớp cùng thi thì trẻ rất hứng thú tham gia vào quá trình “Chơi” để hoàn thành nhiệm vụ học tập một cách chủ động, sáng tạo. - Với bài xé dán đàn vịt: đây là bài tương đối khó với lớp nhỡ do đó để gây hứng thú và tạo cảm xúc cho trẻ chúng tôi đã cho trẻ chơi trò chơi xếp những hình cơ bản thành các chú vịt con xinh xắn xem ai xếp giỏi rồi hỏi trẻ những chú vịt xếp bằng hình gì. Sau đó mới dạy trẻ xé dán và tạo dáng cho những con vịt của mình, trẻ rất hào hứng tham gia xé đàn vịt con sao cho đẹp để được cô khen. - Xé dán hoa mùa xuân (lớp lớn ) trẻ đã chia thành 2 đội liền anh, liền chị chơi trò chơi đố vui về các loại hoa xem đội nào biết nhiều bài hát, bài thơ, câu đố về hoa thí hát, đọc, đố để đội kia đoán ai đố được nhiều sẽ thắng và sau cùng là hai đội thi nhau xé dán hoa màu xuân xem đội nào có nhiều người được trưng bầy tranh đội đó sẽ thắng. - Hoặc với bài vẽ tranh tặng cô giáo chúng tôi đã gây hứng thú cho trẻ bằng trò chơi nghe nhạc tìm tranh có nội sung phù hợp: Cô vẽ các bức tranh có nội dung cô giáo dạy học, các bạn tặng hoa và tranh cảnh sân trường có nhiều bạn đang chơi vào giờ học, cô lần lượt cho trẻ nghe nhạc bài hát Bông hoa mừng cô, Trường chúng cháu là trường Mầm Non Khi nghe nhạc cháu sẽ đoán là bài hát có nội dung phù hợp với bức tranh nào ? Vì sao? trẻ hứng thú tả các bức tranh sau đó cô nói rằng hôm nay cô rất muốn các cháu vẽ tặng cô những bức tranh đẹp như thế . * Môn làm quen với toán: Toán là môn học khô khan nhưng đòi hỏi sự chính xác cao. Đặc điểm của trẻ lại chóng nhớ mau quên, do đó muốn trẻ hào hứng tham gia học tập và nhớ bài, cô giáo phải biết lồng những kiến thức toán học vào câu chuyện, bài thơ, bài hát đặc biệt là các trò chơi có nội dung phù hợp với yêu cầu của bài học để gây hứng thú cho trẻ. Từ suy nghĩ đó chúng tôi đã sưu tầm, sáng tác được nhiều trò chơi phù hợp với yêu cầu của từng loại bài, loại tiết, từng phần của tiết học: - Phần ôn luyện kiến thức đã học: ở phần này cô giáo thường chọn các trò chơi mang tính tập thể, đồ dùng học tập đơn giản, không cầu kỳ để nhiều cháu được tham gia ôn luyện kiến thức bài cũ mà không tốn thời gian. VD: Tiết dạy tương ứng 1-1 ở lớp mẫu giáo bé, phần ôn các hình đã học, cô giáo vẽ những hình này xuống sàn thành con đường ẩn nấp (4 – 5 đường), cô cho trẻ làm những chú ếch nhảy trên những con đường đó, nhảy đến hình nào đọc tên hình đó hoặc chỉ được nhảy trên con đường có tên hình do cô yêu cầu như hình vuông, hình tam giáctrò chơi diễn ra nhanh, nhiều cháu được chơi. Tương tự với luật chơi như vậy ở lớp nhỡ, lớn thì chơi theo số lượng. Đối với những tiết học có ôn về số lượng và định hướng không gian, cô giáo thường tận dụng các bộ phận của cơ thể làm đồ dùng học tập. VD: Ôn khái niệm phải, trái, trên, dưới, trước, sau ở lớp mẫu giáo bé cô giáo cho trẻ hát và vận động một số động tác thể dục như hái hoa, dấu chân, cá bơitheo nhạc bài hát “dậy đi thôi” và kết hợp hỏi trẻ: Hái hoa, tay ở đâu? ( trên cao), - Cá bơi, tay ở đâu? (phía trước) Dấu chân, chân ở đâu? (phía dưới) - Dấu tay, tay ở đâu? (Phía sau) Khi ôn số lượng ở lớp mẫu giáo lớn cô chia lớp thành hai đội nam, nữ hát đối bài “dềnh dềnh dàng dàng”, sau mỗi câu hát là một câu đố để đội bạn đoán số lượng bộ phận của cơ thể: VD: Đội nam hỏi: 9 người có mấy cái mũi? 4 người có mấy cái tay? Đội nữ trả lời: phải chọn đủ 9 bạn đứng lên phía trước sau đó cả lớp cùng đếm kiểm tra xem có đúng số lượng 9 người: 9 cái mũi, 4 người: 8 cái tay như đội bạn yêu cầu Khi đưa trò chơi vào tiết toán bao giờ chúng tôi cũng quan tâm đưa kèm theo những câu văn vần, các câu hát có nội dung phù hợp hoặc cải biên để trẻ dễ nhớ như bài những em bé học toán, dềnh dềnh dàng dàng, tập tầm vông, múa cho mẹ xem, các bài đồng dao VD: Khi dạy bài tương ứng 1-1 ở lớp mẫu giáo bé cô giáo yêu cầu bạn có hình vuông tìm bạn có hình tam giác để ghép thành nhà ( tương ứng 1-1) cô giáo đã cho trẻ hát bài “múa cho mẹ xem” mà cô đã cải biên lời “Nào các bạn cùng ra đây, ta ghép cho thành nhà nào. Mời các bạn cùng chung tay ta xếp cho thành nhà nào” Trẻ vừa hát vừa chạy đi tìm bạn rất vui. (Hình ảnh hoạt động học) (Hình ảnh hoạt động học) Tuy nhiên khi đưa các bài hát, các câu văn vần vào tiết học chúng tôi không lạm dụng mà thường thay đổi câu hát ở mỗi lần chơi để tránh sự nhàm chán ở trẻ. Ngoài việc sưu tầm và sáng tác các trò chơi mang tính tập thể chúng tôi còn quan tâm đến các trò chơi học tập như các loại bàn cờ, đô mi nô, trò chơi tạo hình, vì vậy mà giáo viên đã cải tiến ra nhiều loại bàn cờ hình thức đẹp, nội dung phù hợp với yêu cầu bộ môn, đặc biệt đã cải tiến hệ thống bài tập thêm bớt để chơi lôgicô đảm bảo cho 100% trẻ được luyện tập ngay trên tiết học. Chúng tôi còn quan tâm đưa nội dung toán học vào các trò chơi dân gian để trẻ ôn luyện như: Chơi ô ăn quan: Cô ghi số lên mặt quân, khi chơi cháu giải đến quân nào phải đọc số trên mặt quân đó. Cờ gánh: Cô ghi số lên mặt quân cờ, khi ăn, trẻ phải đọc được số trên hai quân ăn. Chơi đồ: Khi cái đến gần người nào, người đó phải nói được một số bất kỳ và giơ chữ số đó hoặc ngón tay tương ứng. Nếu là trò chơi thêm bớt thì trẻ phải nói được hai số bất kỳ để thêm hoặc bớt trong phạm vi các số đã học. (Ví dụ 5,3 trẻ sẽ nói 5 thêm 3 bằng 8, hoặc 5 bớt 3 bằng 2..) Một số trò chơi khác như nhảy lò cò ( ô có ghi số, nhảy đến đâu trẻ đọc tên số đến đó), bịt mắt bắt dê (sờ và đọc số bạn đeo trên cổ) Như vậy việc chỉ đạo giáo viên sử dụng phương pháp trò chơi để nâng cao chất lượng dạy học đạt được hiệu quả rất cao. Trẻ rất hứng thú tham gia vào các hoạt động. Các hoạt động giáo dục không còn nhàm chán, căng thẳng. Tạo cho trẻ tính cực tham gia vào các hoạt động. 3. 5 Biện pháp 5: Quan tâm đến việc dạy trẻ mọi lúc mọi nơi: Đặc điểm của trẻ mẫu giáo là dễ nhớ nhưng mau quên do đó nếu giáo viên chỉ quan tâm đến giờ dạy trên lớp mà không cho cháu ôn luyện thì dù có dạy hay mấy cháu cũng quên. Chính vì vậy tôi lưu ý giáo viên tận dụng tốt giờ sinh hoạt chiều để cháu làm quen bài mới và cho cháu được ôn luyện những kiến thức mà trẻ đã học khi tham gia hoạt động ngoài trời. Đặc biệt là phát huy thế mạnh của hoạt động vui chơi. Ngay từ đầu năm học khi HĐVC ( hoạt động vui chơi) đã đi vào nề nếp tôi yêu cầu giáo viên giành thời gian của giờ chơi dài buổi sáng để bồi dưỡng kiến thức cho trẻ. Ví dụ như kiến thức toán ở trò chơi xây dựng (cháu xây nhà, xếp đường đi theo số lượng, hình dạng, màu sắc mà cô qui định). Bồi dưỡng kiến thức về dân số, dinh dưỡng và giao tiếp ở trò chơi phân vai (gia đình bác có mấy con? hôm nay bác nấu món gì cho gia đình ăn? có đủ chất dinh dưỡng không? ). Với trò chơi cô giáo thì bồi dưỡng trẻ môn tạo hình và làm quen chữ cái như chọn cháu khá làm cô giáo để hướng dẫn các bạn vẽ, nặn, xé dán. Các cháu còn yếu về chữ cái thì chơi bàn cờ, ô ăn quan hay tô chữ. (Hình ảnh hoạt động vui chơi) (Hình ảnh hoạt động vui chơi) Khi đi dạo, đi thăm : Khi cho trẻ ra hoạt động ngoài trời chúng tôi luôn cho trẻ chơi các trò chơi ghép hình như hãy chọn lá,cỏ để xếp thành cây,con vật, đồ vật hoặc chọn lá để thả thuyền . Khi có sự thay đổi của thời tiết,cảnh vật xunh quanh cô giáo thường gọi mở để trẻ phát hiện ra sự thay đổi sau đó khuyến khích trẻ thi đua nặn, xếp , vẽ một cách thoải mái bằng phấn xuống sàn, bằng que trên cát. Hoặc có những hôm trời mát mẻ chúng tôi đã vẽ sẵn các ô vuông lớn sau đó chia lớp theo tổ để thi. Mỗi tổ xếp, vẽ thành 1 bức tranh có nội dung khác nhau. (Hình ảnh hoạt động ngoài trời) Một số cháu thật yếu và hay nghỉ học tôi yêu cầu giáo viên giành thời gian của giờ trả trẻ để bù kiến thức cho cháu đặc biệt là bồi dưỡng các cháu tập tô yếu (lớp mẫu giáo lớn). Giáo viên phải để riêng vở của cháu nghỉ và tô chưa xong bài để kèm cháu vào các buổi. Qua 2 năm thực hiện nghiêm biện pháp này trường tôi không còn cháu tô yếu. Chất lượng môn tạo hình cũng được tăng lên rõ rệt. Để nâng cao chất lượng môn văn học và âm nhạc chúng tôi tận dụng tốt các buổi đi dạo, giờ nêu gương chiều thứ sáu và các buổi tổ chức sự kiện. Theo kế hoạch các cháu sẽ biểu diễn văn nghệ theo khối lớp vào buổi học cuối cùng trong tháng có cả kể chuyện và đọc thơ, bạn nào biểu diễn hay sẽ có phần thưởng. Còn các buổi nêu gương cuối tuần ở lớp thì cháu tập các tiết mục chuyện thơ, hát múa, đóng kịch theo nội dung chương trình. Do đó chất lượng của 2 môn này cũng đạt tốt hẳn lên. Trong việc chỉ đạo nâng cao chất lượng học sinh tôi còn quan tâm đến số học sinh lớp nhỡ và lớn mới bắt đầu đi học. Những cháu này bao giờ nhà trường cũng xếp riêng vào một lớp, để có biện pháp chỉ đạo riêng như hạ thấp yêu cầu của bài dạy ở những tháng đầu năm học để các cháu tiếp thu được bài và tận dụng những ngày có một tiết để dạy bù những kiến thứ cơ bản ở lớp dưới. Ở những lớp này bao giờ nhà trường cũng bố trí những giáo viên nhiệt tình, có nhiều kinh nghiệm phụ trách. 3. 6 Biện pháp 6: Chỉ đạo giáo viên tuyên truyền phụ huynh nhận thức đúng về việc học tập của trẻ. Đóng ở một địa bàn đông dân cư nhưng hầu như là nhân dân lao động và buôn bán nhỏ, kinh tế khó khăn, trình độ hạn chế nên đa số phụ huynh chưa quan tâm đến việc học tập của trẻ. Họ gửi con đến trường chủ yếu là để có người trông chứ không phải để học, mặt khác một số gia đình do kinh tế khó khăn nên khi có điều kiện là cho con nghỉ đỡ tốn kém chính vì quan niệm đó nên rất nhiều cháu nghỉ học tự do. Việc chia sẻ trách nhiệm giữa gia đình và nhà trường là điều kiện để thúc đẩy quá trình thực hiện quá trình chăm sóc trẻ đạt kết quả tốt. Vì vậy, chúng tôi xây dựng kế hoạch về việc thực hiện nội dung giáo dục của nhà trường tới giáo viên ngay từ đầu năm học. Trên cơ sở đó giáo viên sẽ có những định hướng cụ thể để trao đổi và tuyên truyền với phụ huynh trong các buổi họp phụ huynh hoặc trao đổi hàng ngày trong giờ đón và trả trẻ, Ngay từ đầu năm học tôi có kế hoạch đưa nội dung chương trình giáo dục của từng lứa tuổi vào buổi họp phụ huynh, nói rõ tác dụng của việc đi học đều để phụ huynh nắm được, bên cạnh đó chúng tôi lại đưa tiêu chuẩn đi học đều vào thi đua để các cháu có ý thức phấn đấu. Trong năm học nhà trường mời phụ huynh thăm lớp dự giờ của giáo viên vào dịp 20 - 11. Với các tiết học đón phụ huynh dự giờ, tôi gợi ý cho giáo viên chọn những môn học mang tính phát triển trí tuệ cao như toán, tạo hình, làm quen chữ cái . Để mời phụ huynh đến dự đông đủ chúng tôi đã có kế hoạch thông báo từ buổi họp phụ huynh đầu năm học, tháng 11 thì có giấy mời gửi đến tay phụ huynh. Sau khi dự đều có những nhận xét rất tốt về nhà trường, do đó phụ huynh rất phấn khởi cho con đi học đều. Tỉ lệ chuyên cần tăng lên rõ rệt. Theo thường lệ cứ cuối năm là các cháu lớp lớn giảm rất nhiều nhưng những năm gần đây số học sinh trường tôi không giảm, một phần cũng do phụ huynh rất yên tâm khi thấy con đến lớp được chăm sóc chu đáo, được học hành, vui chơi một cách khoa học. Nhà trường còn có các góc tuyên truyền chung toàn trường để thông báo các nội dung về sức khoẻ, dinh dưỡng, các kiến thức nuôi dạy trẻ để phụ huynh đọc. Ở lớp cô giáo thường xuyên nêu gương khen ngợi và động viên kịp thời những cháu có nhiều tiến bộ trong học tập, trưng bày những sản phẩm đẹp của cháu như vở vẽ, vở thủ công, vở tập tô hoặc những bài nặn ở góc tuyên truyền để phụ huynh theo dõi, đồng thời giáo viên có kế hoạch thông báo hàng tuần những nội dung học tập của trẻ. Với một số cháu yếu giáo viên trao đổi với phụ huynh để có kế hoạch rèn thêm cháu ở nhà đặc biệt là môn làm quen chữ cái và môn toán ở lớp mẫu giáo lớn. Bên cạnh việc tuyên truyền các nội dung giảng dạy để phụ huynh hiểu thêm về chương trình giáo dục mầm non, nhà trường còn phối hợp chặt chẽ với ban phụ huynh để thông báo các chỉ tiêu phấn đấu của năm học, công khai kế hoạch thu - chi. Bổ sung cơ sở vật chất để lấy ý kiến đóng góp của phụ huynh đồng thời vận động tuyên truyền phụ huynh hỗ trợ nhà trường hoàn thành nhiệm vụ năm học. 4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm: Trong thời gian qua bản thân tôi đã cùng với tập thể giáo viên nhà trường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu để xây dựng nhà trường đi lên trong mọi hoạt động. Sau một năm thực hiện đề tài, tôi đã thu được một số kết quả sau: - Trẻ có sức khỏe tốt, trẻ nhanh nhẹn, tự tin trong các hoạt động, có ý thức kỷ luật tốt, trẻ tích cực và chủ động tham gia Trẻ mạnh dạn tự tin, hồn nhiên, sức khoẻ tốt, có hiểu biết về nhận thức và các kỹ năng xã hội trong các HĐ ngoại khóa. - Giáo viên triển khai các hoạt động giáo dục chuyển biến một cách rõ rệt, giáo viên có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc tổ chức các hoạt động và trò chơi vận động. - Giáo viên tự tin khi thực hiện các hoạt động giáo dục cho trẻ, nâng cao nghệ thuật lên lớp. - 100% giáo viên trong trường đã hưởng ứng cao với phong trào làm đồ dùng đồ chơi, số lượng ĐDĐC trong toàn trường tăng lên rõ rệt. - Trong năm học, toàn trường đã làm được 50 thể loại đồ dùng tự tạo phục vụ cho hoạt động của các chủ đề. Với số lượng là khoảng 600 đồ dùng tự tạo các loại. Tiết kiệm được khoảng 10.000.000 (Mười triệu đồng) so với đồ dùng đồ chơi mua sẵn. - 100% các nhóm lớp trang trí lớp phong phú, nổi bật góc phát triển vận động cho trẻ. Đồ dùng đồ chơi phong phú hấp dẫn trẻ. Những đồ dùng này kích thích trí tưởng tượng và sự sáng tạo của trẻ. Trẻ có ý thức trân trọng, giữ gìn đồ chơi trong lớp hơn. - Chất lượng các hoạt động của giáo viên và của trẻ cao hơn so với đầu năm học. - Phụ huynh ủng hộ nhiệt tình, cung cấp nhiều nguyên vật liệu, phế liệu để làm đồ dùng đồ chơi. Trong năm nay trường đã tạo niềm tin, sự tín nhiệm cho các bậc phụ huynh, đã vinh dự được đón nhận nhiều thành tích đáng ghi nhận. Kết quả cụ thể : - Về chất lượng học sinh: + Số học sinh đạt các lĩnh vực: 96% + Số học sinh chưa đạt: 4% - Về giáo viên Stt Nội dung Đầu năm Cuối năm Tăng so với đầu năm Đạt % Chưa Đạt % Đạt % Chưa đạt % 1 Nắm vững phương pháp môn học. 95 5 100 0 5 2 Khả năng sư phạm của giáo viên khi tổ chức hoạt động. 89 11 98 2 9 3 Khả năng làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng hiệu quả trong hoạt động giáo dục. 90 10 98 2 8 4 Khả năng ứng dụng công nghệ thông tin. 85 15 96 4 11 5 Khảo sát cơ sở vật chất, đồ dùng đồ chơi tối thiểu để cô cháu hoạt động 87 13 95 5 12 Với những kết quả đã đạt được bản thân tôi nỗ lực phấn đấu không ngừng để chỉ đạo tập thể nhà trường ngày càng đạt nhiều thành tích cao trong chăm sóc và giáo dục trẻ. III. KẾT LUẬN , KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận: Qua thời gian thực hiện đề tài " Nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non". – là một việc làm thiết thực giúp cho trường có một môi trường sáng, xanh - sạch - đẹp phù hợp với đặc điểm hoạt động và tâm lý trẻ. Nâng cao được chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Qua đó tuyên truyền với các ban ngành, phụ huynh hiểu rõ hơn được ý nghĩa và vai trò của giáo dục Mầm non đối với sự phát triển của trẻ. Giáo viên được chủ động sáng tạo trong việc tìm tòi, đổi mới, vận dụng các phương pháp giáo dục phù hợp với trẻ. Sáng tạo trong việc xây dựng môi trường, làm các sản phẩm tự tạo, sử dụng các đồ dùng tự tạo hiệu quả tạo cơ hội cho trẻ được tham gia một cách tích cực. Qua đó giáo dục trẻ phát triển một các toàn diện. Xây dựng được mối quan hệ tốt giữa cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên và phụ huynh trong nhà trường. Mọi người cùng đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. 2. Bài học kinh nghiệm: Để chất lượng việc thực hiện chuyên đề " Nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ mầm non" đạt kết quả tốt, đòi hỏi người cán bộ quản lý phải linh hoạt, áp dụng các biện pháp vào thực tế phù hợp với trường và lớp. - BGH phải nắm vững khả năng, trình độ giảng dạy của từng giáo viên để bồi dưỡng cho phù hợp. - Có kế hoạch, biện pháp chỉ đạo các nội dung chuyên đề đúng trọng tâm, nâng cao được chất lượng giảng dạy của giáo viên. Quan tâm việc tăng cường bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên, đi thăm quan học hỏi các trường điểm Thành phố, triển khai và tiến hành dự giờ các tiết dạy tại trường. - Nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên môn hàng tháng, nhấn mạnh những điểm đã làm và chưa làm được trong việc thực hiện chuyên đề. Lấy ý kiến từ những giáo viên có kinh nghiệm, có khả năng trong công tác giảng dạy để trao đổi với các giáo viên khác trong quá trình nâng cao những hoạt động dạy trẻ vận động. - Cán bộ quản lý phải nắm vững mục đích yêu cầu, tầm quan trọng của việc phát triển vận động trong nhà trường. - Phải biết xây dựng kế hoạch sát với thực tế của nhà trường, điều kiện của địa phương. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo làm đồ, dùng đồ chơi một cách cụ thể, chi tiết, giao chỉ tiêu tới từng giáo viên và thường xuyên đôn đốc, kiểm tra, đánh giá kết quả của giáo viên. Có động viên khen thưởng kịp thời. - Cần phải chịu khó nghiên cứu, học hỏi để phổ biến cho giáo viên, chỉ đạo giáo viên biết phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh . - Chỉ đạo hướng dẫn giáo viên làm ĐDĐC từ nguyên vật liệu thiên nhiên và phế liệu. - Tổ chức tốt hội thi “Đồ dùng đồ chơi tự làm” nhằm phát huy tính tích cực, khả năng sáng tạocủa giáo viên - Luôn động viên khích lệ, tạo cơ hội để tập thể nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ đề ra. - Có kế hoạch đầu tư, bồi dưỡng, trao đổi, góp ý để giáo viên, nhân viên để thực hiện tốt nội dung của mình. - Nhân rộng các lớp, cá nhân đạt kết quả tốt thông qua các buổi họp sinh hoạt chuyên môn và các ngày hội, ngày lễ. - Cán bộ quản lý luôn những người bạn đồng hành chia sẻ, hợp tác với tất cả các thành viên trong nhà trường. 3. Khuyến nghị - đề xuất: - Mong được sự quan tâm của các ngành, cấp trên tạo điều kiện về cơ sở vật chất kinh phí cho nhà trường mua sắm thêm đồ dùng đồ chơi cho trẻ để trẻ được học ở môi trường tốt nhất. - Đề nghị với cấp trên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo viên cách làm những đồ dùng tự tạo phục vụ cho các hoạt động giáo dục của nhà trường. Trên đây là một số biện pháp trong quá trình chỉ đạo "giáo viên nâng cao chất lượng giáo dục cho trẻ trong trường mầm non" bản thân tôi mong được sự góp ý của hội đồng khoa học nghành để nhà trường chỉ đạo tốt hơn trong những năm học tiếp theo. Xin chân thành cảm ơn! IV/TÀI LIỆU KHAM KHẢO: Để có thể hoàn thành xong bài sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã lên mạng Internet để tham khảo tài liệu phù hợp với đề tài , nghiên cứu 1 số sách về phương pháp dạy trẻ.. Chương trình giáo dục mầm non –NXBGD Việt Nam Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non (nhà trẻ 3-36 tháng)- TS. Trần Thị Ngọc Trâm-TS. Lê Thu Hương- PGS.TS Lê Thị ánh Tuyết-NXBGD Việt Nam Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo bé (3-4 tuổi)- TS. Trần Thị Ngọc Trâm-TS. Lê Thu Hương- PGS.TS Lê Thị ánh Tuyết-NXBGD Việt Nam Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo bé (4-5 tuổi).- TS. Trần Thị Ngọc Trâm-TS. Lê Thu Hương- PGS.TS Lê Thị ánh Tuyết-NXBGD Việt Nam Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo bé (5-6 tuổi).- TS. Trần Thị Ngọc Trâm-TS. Lê Thu Hương- PGS.TS Lê Thị ánh Tuyết-NXBGD Việt Nam Hướng dẫn làm đồ chơi cho trẻ bằng vật liệu dẽ tìm- Phạm Việt Hà-NXBGDVN. Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục mầm non - NXB giáo dục 1998 - Đào Như Trang; Điều lệ trường Mầm non; Tư vấn giáo dục – tư duy dạy và học – phong cách học của chuyên gia giáo dục Vương quốc Bỉ;
File đính kèm:
- Quanly_NguyenThiPhuongHoa_mntuoihoa.doc..doc