Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để nâng cao tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đối với bộ môn Toán

Giáo dục (GD) là nền tảng của xã hội, là cơ sở tiền đề để quyết định sự phồn vinh của đất nước. Giáo dục cung cấp những hiểu biết về kho tàng tri thức của nhân loại cho biết bao thế hệ, giúp cho các em hiểu biết cơ bản cần thiết về khoa học và cuộc sống. Giáo dục còn góp phần hình thành và bồi dưỡng nhân cách tốt đẹp cho học sinh. Mặt khác giáo dục trung học cơ sở còn mang tính chất nền móng để các em học tiếp các bậc học cao hơn.

 Một trong những mục tiêu của việc biên soạn sách giáo khoa (SGK) là góp phần đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ngay trong nội dung và cấu trúc của SGK đã thực hiện biên soạn dựa trên những mục tiêu sau:

 1. Tăng cường các hoạt động của bản thân học sinh.

 2. Phát huy tính tích cực của học sinh trên tiến trình xây dựng kiến thức

 3. Giảm nhẹ ly thuyết trừu tượng .Coi trọng vai trò trực giác và coi trọng rèn luyện khả năng quan sát dự đoán.

 4. Coi trọng tính thực tiễn và quan điểm liên môn.

 5. Tạo thuận lợi cho việc sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin. Dựa trên những mục tiêu biên soạn SGK tôi tiến hành thể hiện mục tiêu “Tăng cường các hoạt động của bản thân học sinh” nhằm giúp các em học sinh hiểu hơn những mục đích và những yêu cầu của mỗi một hoạt động trong SGK.

 Hơn nữa theo định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12 - 1996), được thể chế hóa trong Luật Giáo dục (12 - 1998), được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15 (4 - 1999).

Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động.

 

doc22 trang | Chia sẻ: duycoi179 | Lượt xem: 2832 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Làm thế nào để nâng cao tính tích cực, tự giác học tập của học sinh đối với bộ môn Toán", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn
- Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác nhau về một số vấn đề
- Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
2. Một số giải pháp giúp học sinh trở nên tích cực, tự giác học tập	
a.Về mặt kiến thức trong tiết dạy:
Vấn đề quan trọng nhất là giáo viên phải làm cho học sinh hiểu bài, làm được bài tập về nhà và kể cả ở trên lớp. Khi học sinh đã hiểu bài rồi thì các em cảm thấy tự tin hơn, mạnh dạn hơn. Không những thế mà còn thôi thúc lòng hăng say học tập của các em. Do đó tôi đã đưa ra một số biện pháp sau:
Đối với học sinh khá - giỏi trong tiết học giáo viên không nên đưa ra bài tập quá dễ, vì như thế sẽ gây cho các em cảm thấy nhàm chán. Hơn nữa lại không kích thích được tính sáng tạo, óc tò mò tìm hiểu khám phá vấn đề mới của các em. Cho nên trong tiết dạy giáo viên nên lồng vào vài bài tập khó, bài tập mang tính chất thực tế trong cuộc sống để đố hoặc vài câu hỏi khó gây sự hứng thú tích cực đối với học sinh.
Đối với học sinh trung bình - yếu thì phải cho bài tập vừa sức để học sinh có cơ hội thể hiện bản thân. Giáo viên không nên cho bài tập quá khó, vì nếu cho bài tập quá khó so với học lực của các em thì sẽ gây sự chán nãn. Bài tập khó, học sinh thấy mình làm bài không được nên dễ dẫn đến mặc cảm, rồi cho rằng mình học không được. Ngoài ra, giáo viên khi giao bài tập về nhà cũng phải vừa sức đối với các em. Trong giờ học giáo viên nên quan tâm đến những em có học lực yếu nhiều hơn. 
Về kiến thức để giúp các em nhớ lâu và thuộc bài thì chỉ có cách là: “Mưa dầm thấm đất” nghĩa là trong giờ học nào giáo viên cũng cho học sinh nhắc lại kiến thức cũ quan trọng mỗi ngày một ít, từ đó giúp học sinh nhớ bài lâu hơn. Giáo viên khuyến khích học sinh học thuộc ngay tại lớp bằng cách cho điểm nếu đọc được nội dung kiến thức ngay sau bài vừa học.
b.Về phương pháp trong tiết dạy: Nên sử dụng đa dạng các phương pháp truyền thống lẫn hiện đại và cần để ý đến các điều sau:       
 ÃDạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
	Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, 
thực hành, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
	Dạy theo cách này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà còn hướng dẫn hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
à Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
	Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
 ÃTăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
	Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh. 
	Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ được sử dụng phổ biến. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động theo nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần tương trợ. 
 ÃKết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
	Trong dạy học, việc đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
	Trước đây giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc sống mà nhà trường trang bị cho học sinh.
	Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ không còn là một công việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.	
à Cụ thể:
²Đối với học sinh khá – giỏi thì giáo viên có thể dùng phương pháp giải quyết vấn đề hoặc nhóm nhỏ.
²Đối với học sinh trung bình – yếu thì giáo viên không thể dùng phương pháp giải quyết vấn đề được mà phải dùng phương pháp đàm thoại, thuyết trình, gợi mở, không những thế mà còn phải giảng thật kĩ thì học sinh mới nắm được vấn đề.
²Chúng ta đã biết trong toán học thì sử dụng đa dạng các phương pháp:
Chẳng hạn trong hình học thì phương pháp trực quan quy nạp có thể nói là không thể thiếu được. Chính vì vậy trong bài dạy giáo viên phải đưa vào các mô hình hay các hình ảnh trực quan để giúp học sinh hiểu bài một cách dễ dàng nhất có thể kể như sau:
Khi dạy về đoạn thẳng giáo viên phải chuẩn bị một đoạn thẳng là que hình 	trụ dài có hai đầu là hình hai chấm tròn nhỏ.
Dạy đường thẳng thì giáo viên phải chuẩn bị một sợi chỉ, rồi đem sợi chỉ đó căng thẳng ra về hai phía. 
Dạy về mặt phẳng thì cần chuẩn bị trên máy chiếu hình ảnh như sau: Cho máy chiếu hình chữ nhật có nền màu xanh, sau đó cho màn hình trãi rộng ra bốn phía đều là màu xanh lúc đó hoc sinh mới cảm nhận sâu hơn về mặt phẳng.
Dạy về tia cũng vậy ta phải chuẩn bị một vật có một đầu là hình một chấm tròn nhỏ (viên phấn được mài tròn) trên đó có gắng một que gỗ nhỏ hình trụ dài. 
 .
c. Về tâm lý – tình cảm: 
	Trong khi dạy học chúng ta cũng cần khuyến khích động viên các em bằng một lời khen dù đó chỉ là một câu trả lời đơn giản. Để học sinh thấy rằng bản thân mình cũng có ưu điểm, từ đó thôi thúc lòng hăng say học tập của các em. Tuy nhiên giáo viên không quên nhắc nhở hoặc phê bình các em đúng lúc, để các em nhận thấy việc mình làm là chưa đúng cần phải khắc phục.
	Ví dụ:
Em A thường ngày là một học sinh học trung bình hoặc yếu nhưng trong tiết học em đã trả lời đúng một câu hỏi hoặc phát biểu đúng ý một mệnh đề toán học thì chúng ta nên khen một câu “Chà hôm nay em có tiến bộ hơn rồi đó hoặc hôm nay em có chuẩn bị tốt, giỏi” cả lớp tặng cho bạn một tràn pháo tay nào. Như thế sẽ làm cho tinh thần học tập của em đó lập tức có sự thay đổi ngay trong giờ học và cả hôm sau nữa.
Em B thường ngày học khá tốt nhưng hôm nay trả lời câu hỏi không tốt, ta có thể nhắc nhở nhẹ nhàng như: Mọi hôm em trả lời rất tốt nhưng sao hôm nay lại trả lời như vậy, em cần phải cẩn thận hơn nhé.
d. Hướng dẫn sử dụng dụng cụ: 
	Chọn dụng cụ sao cho phù hợp nhất chẳng hạn: để đo góc thì nên chọn loại thước đo góc sao cho có độ chia nhỏ nhất là 1 độ (không nên dùng loại thước đo độ có độ chia nhỏ nhất là 2 độ ,vì độ chính xác không cao). 
Loại thước có độ chia nhỏ nhất là 2 độ.
Loại thước có độ chia nhỏ nhất là 1 độ.
e. Kể chuyện về các nhà toán học trong và ngoài nước: 
Trong tiết dạy có thể kể một vài câu chuyện vui, kể về tiểu sử các nhà toán học nổi tiếng hoặc vài thông tin quan trọng trong đời sống mang tính giáo dục thực tế, để làm giảm sự căng thẳng, giúp các em tiếp thu bài nhanh hơn. Sau đây là một số câu chuyện về các nhà toán học:
Nhà toán học: Cauchy
	Cauchy sinh ngày 21 tháng 8 năm 1789. Nhà Toán học đầy óc sáng tạo này có rất nhiều công trình toán học, chỉ thua Euler mà thôi. Ông là anh cả của 6 em trong một gia đình Thiên Chúa Giáo. Thời niên thiếu ông trải qua cuộc cách mạng ở Pháp. 
	Bố Cauchy phải đem cả gia đình về quê, phải thường xuyên sống bằng hoa quả và rau tự trồng. Do đó mà Cauchy luôn ốm yếu vì suy dinh dưỡng nhưng bộ não của ông thì ngược lại. Cauchy qua đời đột ngột vào ngày 23 tháng 5 năm 1857 lúc 68 tuổi. Một vài giờ trước khi mất, Cauchy để lại câu nói nổi tiếng: “Những con người sẽ mất, nhưng những công trình của họ vẫn ở lại”.
Nhà toán học: Fermat
	Pierre de Fermat sinh ngày 17 tháng 8 năm 1601 tại Pháp, ông mất lúc 63 tuổi vào năm 1665. Fermat là một học giả vĩ đại, một nhà toán học nổi tiếng và là cha đẻ của lý thuyết số hiện đại. Fermat xuất thân từ một gia đình khá giả, ông học ở Toulouse và lấy bằng cử nhân luật dân sự rồi làm chánh án nhưng lại vô cùng say mê toán học với thói quen nổi tiếng: “ Ghi các ghi chú bên lề các quyển sách”. Đặc biệt, ông được nhớ đến qua sự khám phá một phương pháp đầu tiên để tìm cực đại và cực tiểu của tung độ của đường cong. Ông cũng nghiên cứu về lí thuyết số và có nhiều đóng góp trong các lĩnh vực hình học giải tích, xác suất và quang học. Sau đây là định lý cuối cùng của Fermat“Không thể tách rời bất kỳ lũy thừa bậc lớn hơn hai nào của một số nguyên thành hai lũy thừa cùng bậc của hai số nguyên khác”.
Nhà toán học: Ơ-clit
	Euclid sinh ở Athena, sống khoảng 330-275 trước Công nguyên, được hoàng đế Ptolemy I mời về làm việc ở Alexandria, một trung tâm khoa học lớn thời cổ trên bờ biển Địa Trung Hải.
	Bằng cách chọn lọc, dùng các tính chất trước để suy ra tính chất sau, bộ sách cơ sở đồ sộ của Euclid đã đặt nền móng cho môn hình học cũng như toàn bộ toán học cổ đại. Bộ sách gồm 13 cuốn: Sáu cuốn đầu gồm các kiến thức về hình học phẳng, ba cuốn tiếp theo có nội dung số học được trình bày dưới dạng hình học, cuốn thứ mười gồm các phép dựng hình có liên quan đến đại số, 3 cuốn cuối cùng nói về hình học không gian.
Trong cuốn thứ nhất, Euclid đưa ra 5 định đề:
	1. Qua hai điểm bất kì, luôn luôn vẽ được một đường thẳng
	2. Đường thẳng có thể kéo dài vô hạn.
	3. Với tâm bất kì và bán kính bất kì, luôn luôn vẽ được một đường tròn.
	4. Mọi góc vuông đều bằng nhau.
	5. Nếu 2 đường thẳng tạo thành với 1 đường thẳng thứ 3 hai góc trong cùng phía 	có tổng nhỏ hơn 180 độ thì chúng sẽ cắt nhau về phía đó.
Và 5 tiên đề:
	1. Hai cái cùng bằng cái thứ ba thì bằng nhau.
	2. Thêm những cái bằng nhau vào những cái bằng nhau thì được những cái bằng 	 nhau.
	3. Bớt đi những cái bằng nhau từ những cái bằng nhau thì được những cái bằng 	 nhau.
	4. Trùng nhau thì bằng nhau.
	5. Toàn thể lớn hơn một phần.Nhà toán học Ơ-clit
Nhà Toán Học Việt Nam: Lê Văn Thiêm
Tính toán nổ mìn buồng mỏ đá Núi Voi lấy đá phục vụ xây dựng khu gang thép Thái Nguyên (1964).
Phối hợp với Cục Kỹ thuật Bộ Quốc phòng lập bảng tính toán nổ mìn làm đường (1966).
Phối hợp với Viện Thiết kế Bộ Giao thong Vận tải tính toán nổ mìn định hướng để tiến hành nạo vét kênh Nhà Lê từ Thanh Hóa đến Hà Tĩnh (1966-1967).
 	Lê Văn Thiêm là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học toán học đầu tiên của Việt Nam, một trong số các nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam trong thế kỷ 20. Lê Văn Thiêm là nhà toán học Việt Nam được chính phủ Việt Nam phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1 vào năm 1996 về những công trình toán học đặc biệt xuất sắc. Ông sinh ngày 29 tháng 3 năm 1918 tại xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình có truyền thống khoa bảng.
	Ông là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án tiến sĩ toán học ở Đức năm 1944 về giải tích phức, Luận án Tiến sĩ Quốc gia ở Pháp năm 1948 và cũng là người Việt Nam đầu tiên được mời làm giáo sư toán học và cơ học tại Đại học Tổng hợp Zurich, Thụy Sĩ vào năm 1949. 	Ông mất ngày 3 tháng 7 năm 1991 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Giáo sư Lê Văn Thiêm là một tài năng toán học xuất sắc, tầm cỡ quốc tế, là người có công đầu đặt nền móng xây dựng và phát triển nền toàn học Việt nam.Ông là một trong những người đầu tiên giải được bài toán ngược của lý thuyết phân phối giá trị hàm phân hình, hiện nay trở thành kết quả kinh điển trong lý thuyết này. Năm 1963, nghiên cứu công trình về ứng dụng hàm biến phức trong lý thuyết nổ, vận dụng phương pháp Lavrentiev, giáo sư Thiêm cùng các học trò tham gia giải quyết thành công một số vấn đề thực tiễn ở Việt Nam như:
Nhà Toán Học Việt Nam: Vũ Hà Văn.
	Vũ Hà Văn sinh ngày 12/06/1970 tại Hà Nội trong những năm tháng ác liệt nhất của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Giữa những năm tháng giặc Mỹ điên cuồng đánh phá miền Bắc, cuộc sống của anh ngay từ khi còn nhỏ đầy vất vả, thiếu thốn. 
	Bố của anh là nhà thơ nối tiếng Vũ Quần Phương, còn mẹ là bà Đào Thị Hường là một dược sĩ.
	Một câu chuyện cảm động về mẹ anh Văn vẫn còn nhớ mãi khi trước hôm thi đại học Bách khoa Hà Nội, mẹ đã thức cùng anh để “Truy bài” môn Hóa.Thật tình cờ, rất nhiều câu trong đề thi lại rơi đúng vào phần đã được hai mẹ con ôn tập từ tối hôm trước. Vì vậy, không khó để Vũ Hà Văn có thể kiếm được điểm 10 tròn trĩnh môn Hóa. Nhờ công sức của mẹ, anh đã đỗ Á khoa của đại học Bách Khoa Hà Nội.Trong quãng thời gian học tập tại Hungary của Vũ Hà Văn tất cả các đồ dùng cần thiết cho cuộc sống như quần áo, sách vở, radio... Ông đều phải mua lại của những sinh viên tốt nghiệp về nước với giá chỉ bằng 20% - 30% so với đồ mới. Những năm ông học ở Hungary thiếu thốn lắm, học bổng chỉ đủ ăn thế mà sau 3 năm học đầu, Văn vẫn tiết kiệm được 100 USD mang về cho bố mẹ.
Nhà Toán Học Việt Nam: Ngô Bảo Châu
Sinh năm 1972, GS Ngô Bảo Châu từng là học sinh Chuyên toán - tin thuộc Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội. Trong hai năm 1988 và 1989 (học lớp 11 và 12), Ngô Bảo Châu đã giành 2 Huy chương Vàng Olympic Toán quốc tế (IMO) ở Canada và Đức và là học sinh Việt Nam đầu tiên giành được 2 Huy chương Vàng IMO.
Năm 18 tuổi, Ngô Bảo Châu được Chính phủ Pháp cấp học bổng để theo học Đại học Paris 6. Hai năm sau, Ngô Bảo Châu quyết định thi vào hệ đào tạo tiến sĩ của Đại học Sư phạm Paris, trường đại học danh tiếng nhất nước Pháp, nơi đã từng đào tạo nên những nhà khoa học Việt Nam nổi tiếng như: Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Thiêm, Trần Đức Thảo... và đã đậu thủ khoa.
Năm 25 tuổi, Ngô Bảo Châu bảo vệ luận án Tiến sĩ về Bổ đề cơ bản của Jacquet. Sau đó, làm việc trên một số bài toán khác và bảo vệ luận án habilitation (tương đương Tiến sĩ khoa học) ở độ tuổi 31.
Năm 2005, Hội đồng chức danh GS Nhà nước Việt Nam đã xét đặc cách công nhận chức danh GS đối với Tiến sĩ toán học Ngô Bảo Châu. Vào thời điểm đó, ông là vị giáo sư trẻ nhất Việt Nam.
Nhà toán học Pythagoras 
 Nhà toán học Hy Lạp Pythagoras là người phát minh ra những định lý hình học cơ bản, nổi tiếng nhất là định lý Pythagoras và định lý tổng ba góc của một tam giác. Pythagoras sinh trưởng trong một gia đình quý tộc ở đảo Xa-môt, một đảo giàu có ven biển Ê-giê thuộc Địa Trung Hải. Ông ta theo học nhà toán học Ta-let.
	Ông để lại nhiều câu châm ngôn hay trong đó có câu “Hoa quả của đất chỉ nở một hai lần trong năm, còn hoa quả của tình bạn thì nở suốt bốn mùa”
 Truyền thuyết kể rằng đậu là một phần nguyên nhân gây ra cái chết của Pythagoras. Sau khi bị kẻ thù tấn công phải chạy ra khỏi nhà, ông đã gặp một cánh đồng trồng đậu, nơi ông bị cho rằng thà chết chứ không chạy vào cánh đồng trồng đậu, và kẻ tấn công đã nhanh chóng cắt cổ của ông (ghi chép lịch sử không nói rõ vì sao ông bị kẻ thù tấn công).
 Nhà Toán Học: Archimedes 
Theo lời tường thuật thường được kể lại của Plutarch, Archimedes đang suy ngẫm về một biểu đồ toán học khi thành phố bị chiếm. Một binh sĩ La Mã ra lệnh cho ông tới gặp Tướng Marcellus nhưng ông từ chối, nói rằng mình phải giải quyết xong vấn đề. Người lính nổi giận, và dùng kiếm giết Archimedes. Plutarch cũng có một lời tường thuật ít được biết hơn về cái chết của Archimedes cho rằng có thể ông đã bị giết khi đang tìm cách đầu hàng một binh sĩ La Mã. Theo câu chuyện này, Archimedes mang theo các dụng cụ toán học, và đã bị giết bởi người lính cho rằng chúng là những đồ có giá trị. Tướng Marcellus đã nổi giận vì cái chết của Archimedes, bởi ông ta coi Archimedes là một tài sản khoa học có giá trị và đã ra lệnh không được làm hại ông.
Một hình cầu có thể tích và diện tích bề mặt của hình trụ bao quanh nó đã 	 được đặt trên mộ của Archimedes theo yêu cầu của ông.
Góc đã vẽ
III/ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Sau khi nghiên cứu ba vấn đề trên 3 lớp 7a1 (có 34 học sinh) và 7a2 ( có 37 học sinh) và 7a3 (có 34 học sinh) tôi thu được kết quả như sau:
{ Số lượt học sinh không chuẩn bị bài trong một tuần chiếm tỉ lệ 14,3% .
{ Số lượt học sinh không phát biểu ý kiến trong giờ học và số học sinh rụt rè trong giờ học trên một tuần chỉ chiếm tỉ lệ khoảng 17,7% 
{ Chất lượng môn toán học lỳ 1: số học sinh trên trung bình đạt 92 em trong tổng số 105 em, chiếm tỉ lệ 88% .
IV/ ỨNG DỤNG
	Tài liệu này được áp dụng cho môn nhiều môn mà chủ yếu là toán 6, 7.
Phần C. KẾT LUẬN
–— ² ˜™ ² –—
I/ KẾT LUẬN
Sau khi áp dụng một số phương pháp mà tôi đã nêu ở trên, tôi nhận thấy rằng học sinh học tập tích cực, hăng hái phát biểu ý kiến và đặc biệt là chất lượng môn nâng cao rõ rệt.
II/ BÀI HỌC KINH NGHIỆM
	Thông thường, học sinh chỉ thích học những môn học mà không đòi hỏi sự tư duy nhiều như: Âm nhạc, mĩ thuật, thể dục . Đối với môn toán thì rất ít học sinh yêu thích nó, vì vốn dĩ toán học trừu tượng, khô khan, đòi hỏi các em phải tư duy nhiều. 
	Với sự nổ lực không ngừng của bản thân, tôi đã thu được những kết quả đáng mừng. Điều trước tiên tôi thấy được là học sinh hăng say học tập trong những giờ mà tôi giảng dạy. 
	Tôi nhận thấy rằng các phương pháp này đã đạt được hiệu quả tốt, khả thi tôi sẽ cố gắng tiếp tục phát triển và tìm tòi các phương pháp mới để hiệu quả dạy học ngày càng cao hơn, có chất lượng tốt hơn.
	Sự tiến bộ và hăng say học tập của các em luôn là nguồn sức mạnh tiếp thêm cho tôi ngọn lửa nhiệt huyết, yêu nghề. Từ đó thôi thúc tôi tìm ra những phương pháp dạy học ngày một tốt hơn.
	Mỗi người giáo viên chúng ta cần phải tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp giảng dạy đa dạng sao cho tạo được hứng thú cho học sinh. Chúng ta phải quan tâm, yêu thương học trò, tạo được mối quan hệ gần gũi giữa giáo viên và học sinh. Có như vậy thì hiệu quả giáo dục ngày đạt cao hơn.
	Qua những năm giảng dạy, tôi đã cố gắng suy nghĩ, học hỏi và nghiên cứu nhiều tài liệu để tìm ra được phương pháp nêu trên. Tuy rất ngắn và có thể dể thực hiện nhưng không kém phần quan trọng bởi nó giúp cho học sinh có một nền tảng vững chắc, làm đòn bẩy cho các lớp học tiếp theo, và cũng là hành trang giúp ích rất nhiều cho các em trong đời sống hằng ngày.
	Dù đã cố gắng rất nhiều song không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Mong sao góp phần nhỏ bé của mình trong việc nâng cao chất lượng dạy học.
III/ TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách giáo viên toán 6,7 ; Sách giáo khoa 6,7.
Sách chuẩn kiến thức môn Toán THCS.
Các sáng kiến năm trước và một số tài liệu trên mạng.
Phước tín: Ngày. ThángNăm.
	Người viết
	Nguyễn Thị Thùy Dương
NHẬN XÉT CỦA TỔ CHUYÊN MÔN
–— ² ˜™ ² –—
	Tổ trưởng
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG NHÀ TRƯỜNG
–— ² ˜™ ² –—
	Ban giám hiệu 
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG PHÒNG GIÁO DỤC
–— ² ˜™ ² –—
	Trưởng phòng giáo dục
 PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THỊ XÃ PHÖÔÙC LONG
 TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ PHƯỚC TÍN
 ›š²›š²›š²›š²›š
	 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
;;
“LÀM THẾ NÀO ĐỂ NÂNG CAO TÍNH TÍCH CỰC, 
TỰ GIÁC HỌC TẬP 
 CỦA HỌC SINH ĐỐI VỚI BỘ MÔN TOÁN ”
 @&?
NGƯỜI THỰC HIỆN:
 NGUYỄN THỊ THÙY DƯƠNG 
NĂM HỌC 2013-2014

File đính kèm:

  • docSang_kien_KN_lam_the_nao_de_tich_cuc_hoc_tap_cua_hoc_sinh.doc