Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn Lớp 1

Chương trình toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn toán ở tiểu học, chương trình này kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy toán lớp 1 ở nước ta. khắc phục một số tồn tại của dạy học toán lớp 1 trong giai đoạn vừa qua, thực hiện những đổi mới về giáo dục toán học lớp 1 nói riêng, ở tiểu học nói chung, để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh xã hội 2001 đến 2010 đại hội IX của Đảng CSVN đã khẳng định “ Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng thấp kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước CNH- HĐH hoà nhập với các nước trong khu vực”

Trước những đổi mới kinh tế XH đòi hỏi ngành giáo dục phải làm tốt chức năng Nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Do đó về mục tiêu, nội dung chương trình và phương pháp giáo dục đã được thiết lập lại ở bậc tiểu học nói chung và ở môn toán lớp 1 nói riêng cho phù hợp với yêu cầu phát triển của nhân loại cùng sự phát triển chung đó- môn toán lớp 1 cũng đã cố nhiều sự thay đổi đáng kể về nội dung, cấu trúc chương trình và đặc biệt đã có sự quan tâm đúng mức đến việc rèn kỹ năng và giải các bài toán.

 

doc17 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 22684 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
biệt đã có sự quan tâm đúng mức đến việc rèn kỹ năng và giải các bài toán.
	Việc giải toán có lời văn là một việc hết sức khó khăn đối với các em học sinh lớp 1. Các em còn hạn chế về tư duy, ngôn ngữ, chữ viết nên để hoàn thành tốt một bài toán có lời văn phải mất nhiều thời gian và công sức đối với cả thầy và trò.
	Làm thế nào để giúp các em có thể dễ dàng làm được các bài toán có liên quan đến giải toán có lời văn. Làm thế nào để các thầy cô cũng không phải chật vật khi dạy các bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1. Đó điều làm tôi phải suy nghĩ bởi bản thân mình là một giáo viên trực tiếp đứng lớp. Đây là lý do để cho tôi chọn đề tài nghiên cứu, hướng dẫn học sinh lớp 1 giải bài toán có lời văn.
II. Mục đích nghiên cứu.
	Việc nghiên cứu để tìm ra biện pháp “ Hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn” nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy góp phần giải quyết những khó khăn mà giáo viên và học sinh mắc phải trong quá trình giải toán đối với học sinh.
Giải toán có lời văn là một kỹ năng cần có của học sinh lớp 1 để giúp cho quá trình xuyên suốt tiểu học học sinh có thể giải được các bài toán nhằm giảm bớt sự nhàn chán chỉ bởi những con số và số.Giải toán có lời văn làm khơi dây lòng say mê sáng tạo, năng lực tự vận động trong mỗi học sinh vì vậy việc hướng dẫn giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 có ý nghĩa to lớn trong quá trình giảng dạy của người giáo viên.
Việc nghiên cứu giúp giáo viên có sự nhìn nhận đúng hơn, sâu hơn về tầm quan trọng của việc hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn, từ đó giáo viên lựa chọn tìm ra những biện pháp tốt hơn, phù hợp hơn đối với đặc trưng môn học để có hiệu quả trong giảng dạy toán.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Học sinh lớp 1 khu bản Pó In – Trường Tiểu học Chiềng Lương 2
+ Tổng số: 16 HS
Nam : 8 HS
Nữ: 8 HS
+ Dân tộc: 16 HS
Nghiên cứu chương trình toán lớp 1 phần giải toán có lời văn.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
	Để tiến hành nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp.
1. Nghiên cứu lý luận	 2. Nghiên cứu thực tế
- Đọc các tài liệu có liên quan đến đề tài - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Các tài liệu dạy học	 - Trao đổi toạ đàm với đồng nghiệp
- Thế giới trong ta	 - Phương pháp thống kê phân loại
- Bồi dưỡng Mô Đun chương trìnhGK mới - Phương pháp quan sát hướng dẫn HS
	 - P P độc lập lấy HS làm trung tâm
phần 2
nội dung
I.Cơ sở lý luận.
 	 Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của môn toán 1 (số và phép - Đo đại lượng – Yếu tố hình học – Giải toán có lời văn ).
	Mục tiêu của dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 nhằm giúp học sinh.
- Nhận biết được thế nào là bài toán có lời văn ( Cấu trúc các phần của bài toán )
-	Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn bằng một phép tính cộng, hoặc một phép tính trừ. Trong đó có bài toán về “ Thêm”; “ bớt” một số đơn vị. (Viết được bài giải bao gồm: Câu lời giải, phép tính và đáp số).
 -Bước đầu phát triển tư duy, rèn luyện phương pháp giải toán có khả năng diễn đạt ( phân tích vấn đề, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ nói và viết .). Bám sát mục tiêu của dạy học giải toán có lời văn, nôị dung dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 đa bám sát trình độ chuẩn và quản triệt những định hướng đổi mới mục tiêu dạy ghọc giải toán ở tiểu học. Đó là tăng cường dạyhọc phương pháp giải toán nhằm giúp học sinh biết nêu bài toán từ một tình huống cụ thể ( nêu vấn đề ) biết trình bày bài giải ( trình bày vấn đề) không sa vào những bài toán đánh đố với lời giải quá phức tạp vượt quá độ chuẩn. Đó là tích cực rèn luyện khả năng diễn đạt cho học sinh ngay từ lớp 1. Tăng cường kỹ năng giải toán thực hành luyện tập với những bài toán có tính cập nhật gắn liền với thực tiễn sinh động liên quan đến môi trường sống xung quanh các em. 
	Nội dung dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 được sắp xếp thành hai giai đoạn.
	*Giai đoạn 1.Giai đoạn này “ Chuẩn bị học giải toán có lời văn”giai đoạn này nằm trong học kỳ I lớp 1. HS được làm quen với các tình huống của bài toán đựoc diễn tả qua các hình ảnh, tranh vẽ. Yêu cầu của giai đoạn này HS chỉ cầ quan sát tranh. Phan tích nội dung của tranh, rồi viết được phép tính phù hợp ( chưa phải đòi hỏi trình bày lời giải hoàn chỉnh). Hình thức của loại bài tập này là “ Viết phép tính thích hợp” ( viết số và phép tính vào 5 ô)
	* Giai đoạn 2. Giai đoạn “chính thức học giải toán có lời văn”giai đoạn này học chính thức trong học kỳ II của lớp 1. HS được biết thế nào là một bài toán có lời văn ( cấu tạo bài toán gồm 2 phần: Giả thiết (bài toán cho biết gì ?) và kết luận (bài toán hỏi gì ?) ). Từ đó HS biết cách giải và trình bày bài giải các bài toán về “ thêm” “ bớt” một số đơn vị.
	Giải toán là quá trình giúp học sinh củng cố và nắm chắc khái niệm vè phép cộng, phép trừ . Mặt khác bài toán có nội dung liên quan đến đợn vị. Đo đại lượng. Xăng ti mét, giờ cũng giúp học sinh thấy được các ứng dụng thực tế của đại lượng đó.
	Với tầm quan trọng như vậy việc dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1đòi hỏi người giáo viên phải quan tâm giúp đỡ HS rất nhiều. Dạy học cần phải theo định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học cần tổ chức giờ học dưới dạng các hoạt động học tập, học sinh được phát huy tích cực, chủ động , tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên có như vậy kết quả học tập mới được nâng cao.
II. Cơ sở thực tiễn.
	Đơn vị công tác của tôi: Trường Tiểu học Chiềng Lương 2 xã Chiềng Lương là một trường vùng 2 của huyện Mai Sơn với 100% các em là dân tộc “Thái”. Mặt bằng dân trí, kinh tế xã hội còn thấp kém, lạc hậu, đọi ngũ giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn đa số đều có ý thức học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
	Trong những năm học qua, trường chúng tôi luôn luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp lãnh đạo trực tiếp là Phòng GD&ĐT Mai Sơn, chính quyền xã nơi nhà trường đóng. Hội phụ huynh học sinh cũng luôn quan tâm và ủng hộ cho sự nghiệp giáo dục của địa phương. Đặc biệt BGH nhà trường luôn tạo điều kiện để cán bộ giáo viên trong trường có thời gian học hỏi kinh nghiệm về chuyên môn nghiệp vụ.
	Bên cạnh những thuận lợi trên không thể không nói tới, những hạn chế về khả năng nhận thức của học sinh và sự quan tâm của nhiều bậc phụ huynh học sinh . Những hạn chế này ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng học tập nói chung đối với môn toán nói riêng và đặc biệt là việc học giải toán có lời văn của học sinh, các em khi học sang giải toán có lời văn đã gặp rất nhiều khó khăn và đói với giáo viên dạy cũng rất vất vả khi giúp các em thực hiện dạng toán này.
	Trong quá trình giảng dạy tôi thấy được những nguyên nhân dẫn đến những tình trạng trên đó là.
*Đối với giáo viên .
Giáo viên đã quá quen với phương pháp dạy học truyền thống nên khi áp dụng phương pháp dạy học mới còn rát lúng túng, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh. Cách tổ chức còn vụng về, đơn điệu còn chưa có hệ thống chua gây hứng thú đối với học sinh – giáo vien còn làm việc nhiều dẫn đến học sinh thụ động khi tiếp thu tri thức mới. 
Giáo viên chưa hình thành được cho học sinh “ quá trình”giải toán có lời văn việc hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn rất lúng túng, nhiều khi giáo viên chỉ giảng chung chung rồi cho học sinh tự làm bài, hoạc giáo viên giải lên bảng sau đó cho học sinh chép bài vào vở.	
*Đối với học sinh.
Với 100% các em là con em dân tộc Thái khả năng học vần còn hạn chế hết học kỳ I nhiều em chỉ biết đánh vần chưa đọc thông viết thạo nên việc đọc để hiểu một đề toán là một việc vô cùng khó khăn trong việc đọc, hiểu đề toán rồi việc đặt câu lời giải cho bài toánkhi giải còn khó khăn hơn nhiều. Việc viếtg để trình bày bài toán cũng là vấn đề hết sức hạn chế Schính những điều này dẫn đếnviệc giải toán có lời văn của các em lớp 1 gặp không ít khó khăn.
*Đối với phụ huynh học sinh.
	100% Phụ huynh học sinh làm nghề nông nghiệp và 70% phụ huynh học sinh không có trình độ học vấn hết tiểu học do đó việc quan tâm, kiểm tra kết quả tự học ở nhà của cá em là hoàn toàn không có. gia đình hầu như phó mặc việc học hành của con em mình cho thầy cô giáo mà thời gian học với thầy cô chỉ có 4 giờ trong một ngày như vậy là các em không được kèm cặp thêm các bài học ở nhà nên chất lượng về việc giải bài toán có lời văn còn nhiều hạn chế.
	trên đây là những nguyên nhân chủ yếu mà tôi đã tìm hiểu dẫn đến việc dạy học giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1 còn nhiều hạn chế. qua quá trình giảng dạy tôi cũng đã tìm hiểu và vận dụng một số biện pháp để giúp các em giải toán tốt hơn và cũng đã đạt được kết quả. Tuy chưa thực sự như mong muốn nhưng cũng có phần khả quan hơn .
	III. Một số chú ý khi hướng dẫn học sinh lớp 1 giải toán có lời văn 
Hướng dẫn học sinh giải toán
Trong chương trình toán 1 từ tuần 23 học sinh mới chính thức học cách giải bài toán có lời văn xong ngay từ tuần 7 đến tuần 16.(bắt đầu từ bài phép cộng trong phạm vi 3, luyện tập) xong hầu hết các tiết dạy về phép cộng, trừ trong phạm vi không quá 10 đều có các bài toán dạng “nhìn tranh nêu phép tính”.Để giúp học sinh làm quen với việc , xem tranh vẽ, nêu bài toán bằng lời, nêu câu trả lời và điền phép tính thích hợp vào các ô có sẵn với tình huống trong tranh. Tiếp đó đến tuần 17 học sinh được làm quen với việc đọc tóm tất rồi nêu đề toán bằng lời sau đó nêu cách giải và tự điền số vào phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống. Tiếp theo trước khi chính thức học giải bài toán học sinh được học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn ở tuần 21 – 22.
	Khi học sinh bắt đầu làm quen với bài toán có lời văn từ tuần 7 đến tuần 16. Giáo viên cần chú ý nhiều đến việc luyện cho học sinh hiểu đề toán, chuẩn bị các câu lời giải để trả lời miệng.
	Ví dụ. Từ bức tranh “ có 7 bạn đang chơi, 2 bạn đang chạy tới” bài 4 trang 77 SGK. Sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống
7
+
2
=
9
 Giáo viên hỏi tiếp: “Vậy là có tất cả mấy bạn?” để học sinh trả lời miệng “ có tất cả 9 bạn” hoặc hỏi “ số bạn có tất cả là bao nhiêu?” và học sinh trả lời “ số bạn có tất cả là 4”
	Căn cứ đưa ra các câu hỏi như vậy. Nhiều lần học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng v à quên dần để sau này viết được câu lời giải cho khi trình bày bài toán.
	Trong quá trình giải toán có lời văn học sinh thường gặp khó khăn khi đọc để hiểu đề toán nhất là đối với các em dân tộc ngôn ngữ kém đối với trường hợp này giáo viên nêu cho các xem tranh và nêu câu hỏi để các em nhìn vào tran h để trả lời câu hỏi dẫn đến hiểu được đề toán.
	Ví dụ: Với bài 1trang 177SGK giáo viên có thể hỏi.
Em thấy bạn An( bạn gái) có mấy quả bóng ? (có 4 quả bóng)
Bạn Bình ( Bạn trai) có mấy quả bóng ?.(3 quả bóng )
Em có bài toán như thế nào ?.( học sinh nêu thành bài toán)
 	*Trường hợp bài toán không có tranh ở sách giáo khoa như bài3(T.122 ) Giáo viên có thể tìm mẫu vật con gà trống, con gà mái để gắn lên bảng hỗ trợ cho học sinh dễ dàng giải được bài toán.
	Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề toán giáo viên cần chú ý tổ chức cho học sinh đọc kỹ đề toán hiểu rõ một số khoá quan trọng như “ thêm” và “tất cả” hoặc “ bớt”, bay đi, ăn mất, còn lại,..( có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ ) trong thời kỳ đầu giáo viên lên giúp học học sinh viết tóm tắt sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đay là cách rất tốt để rút học sinh ngầm phân tích đề toán.
	Sau đó giáo viên giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm chẳng hạn ở bài 2 trang 118 SGK
“ Lúc đầu tổ em có 6 bạn, sau đó có thêm 3 bạn nữa hỏi tổ em có tất cả mấy bạn?”
Bài toán cho biết gì ? ( lúc đầu có 6 bạn )
Bài toán cho biết gì nữa ? ( sau đó thêm 3 bạn )
Bài toán hỏi gì ? ( có tất cả mấy bạn )
Giáo viên nêu thêm một số câu hỏi để dẫn dắt bài toán vào phần bài giải “ Muốn biết tổ em có tất cả em làm phép tính gì ?’’ hoặc “ muốn biết cả tổ có tất cả mấy bạn em phải làm thế nào?” cũng có thể hỏi “ tổ em có tất cả mấy bạn” HS trả lời theo từng cách hỏi của giáo viên để rồi có phép cộng 6 + 3 = 9
	Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh tự nêu được 9 này là 9 bạn nên ta viết từ “bạn” vào trong dấu ngoặc đơn
	6 + 3 = 9 ( bạn )
	Có những trường hợp một số học sinh nhìn vào tranh ở sách giáo khoa để đếm ra kết quả. Vì vậy giáo viên cần xác nhận kết quả đúng song cần hỏi thêm “ em tính thế nào ?” ( 6 + 3 + 9 ) sau đó giáo viên nhấn mạnh “ Khi giải toán em cần phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán”.
2.Hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải.
 Trong 3 bước giải bài toán có lời văn ( đặt câu lời giải, làm phép tính, viết đáp số ) thì đặt câu hỏi lời giải là khâu khó khăn nhất đối với học sịnh lớp 1.
	Giáo viên có thể dùng một trong các cách sau . Ví dụ bài toán ( trang 117 )
Cách 1. Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ từ ( hỏi ) và từ ( mấy con gà ) để câu lời giải ; “ nhà An có tất cả. hoặc thêm từ ( là )để có “ nhà An có tất cảlà:”
Cách 2. Dựa vào dòng cuối cùng của phần tóm tắt coi đó là ( từ khoá) của câu lời giải rồi thêm ví dụ; từ dòng của tóm tắt: “ có tất cả.con gà ?” học sinh viết câu lời giải “ nhà An có tất cả:”
Cách 3. Đưa từ “ con gà” ở cuói câu lên đầu thay thế từ” hỏi” và thêm từ “ số” ở đầu câu, từ “ là” ở cuối câu để có” số Gà nhà An có tất cả là”.
Cách 4. Giáo viên đưa câu hỏi miệng để học sinh giải được phép tính
	5 + 4 = 9 ( con gà ) giáo viên chỉ vào số 9 và hỏi; 9 ở đây là gì ? ( là số gà nhà An có tất cả ) Từ câu trả lời của học sinh Giáo viên giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải; “ số gà nhà An có tất cả là:”
Cách 5. Giáo viên nêu câu hỏi miệng “ nhà An có tất cả mấy con gà ?” để học sinh trả lời miệng: “ nhà An có tất cả 9 con gà” rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải: ( gồm câu lời giải và phép tính:)
 Nhà An có tất cả: 5 + 4 = 9 ( con gà )
Một số điều khác cần chú ý khi hướng dẫn học sinh giải toán có lời văn.
Trong quá trình hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn giáo viên cần chú ý cho học sinh cách ghi danh số vào phép tính giải và cách ghi đáp số.
Ví dụ: Bài 2 ( Trang 121 )
Ghi danh số” bức tranh” sau phép tính giải phải ở trong dấu ngoặc.
	14 + 2 = 16 ( bức tranh )
Còn đáp số: 16 bức tranh thì không cần để danh số trong dấu ngoặc đơn nữa:
	Đáp số: 16 bức tranh.
	Trong khi hướng dẫn trình bày bài giải cần lưu ý để bài giải rõ ràng, sáng sủa – Giáo viên hướng dẫn cách trình bày bài giải như sau.
	Ví dụ: Bài 3 ( trang 124)
	Khi trình bày ta từ “ bài giải” ra giữa phần giấy ta định trình bày bài giải – Viết câu lời giải ( tuỳ vào số tiếng trong câu ) sao cho cân đối với từ “bài giải”. Viết đáp số sao cho tiếng “ đáp” thẳng cột với tiếng ‘bài” ở từ “ bài giải”
	cụ thể:
	Bài giải.
	Hộp đó có tất cả là:
	12 + 3 = 15 ( cái bút )
	Đáp số: 15 cái bút.
	Không nên để học sinh trình bày bài giải theo kiểu:
	Hộp đó có tất cả là: 12 + 3 = 15 ( cái bút )
	Đáp số: 15 cái bút
IV. Kết quả.
	Với trách nhiệm của một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 tôi mạnh dan j áp dụng. Những biện pháp trên với mong muốn học sinh đạt kết quả tốt hơn trong khi giải các bài toán có lời văn.
	Qua áp dụng thực tế tôi đã nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ rõ rệt so với kết quả khảo sát của năm trước phần lớn các em đã biết giải toán có lời văn. kết quả như sau.
Năm học
Số học sinh
Số học sinh biết giải toán
Số học sinh chưa
biết giải toán
ghi chú
TS
Tỉ lệ %
TS
Tỉ lệ %
2006 – 2007
13
8
61%
5
39%
2007 – 2008
17
14
82%
3
18%
 Với kết quả cho thấy rằng việc vận dụng đúng đắn phương pháp khi dạy học học sinh giải toán có lời văn thì phần lớn học sinh đều biết cách giải. Qua đó tôi đã rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm sau nhằm giúp cho hiệu quả dạy học môn toánở lớp 1 được nâng cao.
V. Bài học kinh nghiệm
Sau khi học hết chương trình lớp 1. Về giải toán học sinh phải biết giải các bài toán đơn về thêm , bớt ( giải bằng một phép tính cộng hoặc trừ ) Và biết trình bày một bài giải gồm: câu lời giải, phép tính và đáp số.
Việc dạy toán là một quá trình không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông để hiểu đề toán viết được câu lời giải, phép tính và đáp số để có được bài giair hoàn chỉnh ngay từ đầu tuần 2, 3 ,4,24 .Vì thế giáo viên cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước để đến tuần 34, 35 học sinh hoàn thiện được cách giải và trình bày một bài toán có lời văn.
Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 1 chủ yếu là dạy học sinh phương pháp giải toán. Giáo viên không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải trước khi cho học sinh suy nghĩ. Tìm tòi ra cách giải. Tránh tình trạng học sinh chỉ cố gắng tìm ra đáp số mà không hiểu quá trình tại sao lại tính được đáp số đó. Cần hình thànhcho học sinh một “ quy trình” giải bài toán có lời văn. khuyến khích các em làm quen từng bước tự mình tìm ra cách giải bài toán tập chung vào ba bước cơ bản là:
 + Phân tích đề toán để biết bài toán cho biết gì ? ( giả thiết của bài toán ) bài toán hỏi gì ? ( kết lụân của bài toán) từ đó tự tóm tắt được bài toán.
	+ trình bày bài giải ( diễn đạt . Bài toán gồm ba phần; Câu lời giải, phép tính và đáp số).
*** Một số lưu ý.
về phần tóm tắt bài toán yêu cầu học sinh tự đọc bài toán trong sách giáo khoa tìm hiểu bài toán rồi tự nêu hoặc tự tóm tắt bài toán. Trường hợp khó khăn giáo viên có thẻ hướng dẫn để học sinh quen dần với việc phân tích bài toán trước khi giải bài toán. Có thể tóm tắt bài toán bằng lời, việc cho học sinh biết tóm tắt bài toán là rất cần thiết trong quá trình dạy học giải tóan có lời văn ở lớp 1. Tuy nhiên giáo viên không nên ép học sinh phải có phần tóm tắt trong khi trình bày bài giải.
	Về viết câu lời giải trong phần bài giải, giáo viên phải kiên để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời sau đó tập viết lời giải. Lúc đầu học sinh còn lúng túng, cách diễn đạt còn chưa hay nhưng đủ ý là được. Viết câu lời giải là khó khăn lớn nhất trong khi giải bài toán óc lời văn ở lớp 1. (Câu lời giải vừa phải đúng ý nghĩa toán học vừa phải đúng văn phạm tiếng việt mà với học sinh lớp 1 vừa học qua phần vần, đọc chưa thông, viết chưa thạo ) Do đó giáo vien cần cho học sinh tự trả lời miệng sau đó tập viết câu lời giải ( có thể làm nhiều lần, không nên vội vàng làm thay cho học sinh ).
	Về viết phép tính giải trong phàn bài giải. với lớp 1, học sinh chỉ giải các bài toán đơn là bài toán giải bằng một phép tính cộng hoặc trừ khi viết phép tính giải học sinh viết phân tích theo hàng ngang ở dưói câu lời giải tương ứng, tên đơn vị viết ở phần cuối, bên phải phép tính và để trong dấu ngoặc. ( ở phần đáp số, tên đơn vị không có dấu ngoặc ).
Phần 3
Kết luận chung
	việc giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 1 là một việc không đơn giản, muốn các em học tốt phần này, đòi hỏi giáo viên phải rất nhiệt tình, sáng tạo, biết cách tổ chức các giờ học sao cho có hiệu quả. Bên cạnh đó, người giáo viên phải tự tìm tòi, phát hiện ra những cách dạy sao cho sự tiếp thu của học sinh đạt kết quả cao nhất.
	Giáo viên phải có kế hoạch cụ thể cả về các quy định đến phương pháp vận dụng sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm được hoàn cảnh từng đối tượng học sinh để có kế hoạch hỗ trợ, hướng dẫn các em học tốt, khuyến khích các em bằng sự hăng say, hứng thú học tập đạt kết quả cao.
	Giáo viên ngoài giờ lên lớp cần phải kết hợp với phụ huynh học sinh, hỗ trợ phụ huynh học sinh những phương pháp hướng dẫn giải bài toán cho các con em mình ở nhà góp phần giúp các em khi đến lớp học được rễ ràng hơn.
	Qua mỗi dạng toán giáo vien cần có kiểm tra đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy và đề ra biện pháp thực hiện tiếp theo để nâng cao chất lưọng dạy và học.
	Về bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi, tham khảo tài liệu tìm biện pháp tốt hơn nữa để giúp học sinh học tốt môn toán lớp 1 không những phàn giải toán có lời văn mà ở cả các phần khác nữa nhằm nâng cao hiệu qủa dạy học môn toán nói riêng và các môn học khác nói chung.
 Chiềng lương, ngày.. tháng..năm 2007	 Xác nhận của nhà trường
	Người thực hiện	 Ngày.tháng..năm 2007
 (Họ và tên và chữ ký	)	 Hiệu trưởng
 Giáo dục - Đào tạo Mai Sơn
Trường Tiêủ học chiềng lương 2
Đề tài
Nghiên cứu khoa học về nghiệp vụ sư phạm
“Sáng kiến kinh nghiệm hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn Lớp 1”
 ơ
Chủ đề tài: : Dương Hương Lan

File đính kèm:

  • docSKKN_L1.doc
Sáng Kiến Liên Quan