Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Lớp 9 - Trung học Cơ sở
2.1. Thực trạng vấn đề
Trong những năm gần đây, học sinh nói chung và học sinh khối lớp 9 nói riêng viết bài tập làm văn kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ thường khô cứng, sáo rỗng, lúng túng và máy móc. Các em không biết viết văn như thế nào cho đúng cho hay. Đúc kết những giá trị văn học thành những công thức rồi dựa vào đó mà suy diễn trong mọi trường hợp làm tác phẩm mất đi ý nghĩa cụ thể đích thực của nó. Chính vì vậy để tìm ra biện pháp, cách tổ chức hướng dẫn các em trong giờ Tập làm văn “biết làm văn” nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, quả là một vấn đề! Tôi tin rằng đó không chỉ là băn khoăn trăn trở của riêng bản thân mình mà là của tất cả những ai yêu Văn và tâm huyết với nghề dạy Văn.
2.1.1. Đối với giáo viên
Không ít thầy cô còn e ngại khi dạy phân môn Tập làm văn. Bởi dạy phân môn Tập làm văn nhất là kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, giáo viên phải tìm tòi nghiên cứu kĩ về tác phẩm thơ, phải thực sự nhập tâm vào thi phẩm để chỉ ra cái hay cái đẹp trong đoạn thơ, phát hiện những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài, phải vận dụng, tổng hợp nhiều kiến thức kể cả vốn sống, vốn tư tưởng tình cảm thể hiện sự rung động với tác giả. Do đó, trong quá trình giảng dạy, tôi luôn trân trọng, đánh giá cao những bài làm có nét riêng, thể hiện được những cảm xúc chân thật, những nhận xét, phân tích tinh khôi, sáng tạo của các em đối với một đoạn thơ, bài thơ, một vấn đề hay một khía cạnh của vấn đề thể hiện trong bài làm của các em.
2.1.2. Đối với giáo viên học sinh
- Các em không thực hiện qua các bước tạo lập văn bản.
- Bố cục bài văn chưa rõ ràng ba phần.
- Hệ thống luận điểm, luận cứ chưa rõ ràng mạch lạc.
- Ngôn ngữ diễn đạt của các em thiếu cảm xúc, chưa thuyết phục người đọc. Chính vì vậy, tôi đã áp dụng một số biện pháp, cách làm bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, đồng thời phân đối tượng học sinh giỏi - khá - trung bình - yếu nhằm mục đích áp dụng các bước từ dễ đến khó cho phù hợp, rồi vận dụng chúng một cách có hiệu quả. Kết quả bước đầu đã đem lại thành công nhất định.
- Hình ảnh: VD: Hình ảnh "đám mây mùa hạ" trong “Sang thu” (Hữu Thỉnh) hoặc hình ảnh “Vầng trăng, trời xanh” trong bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. - Nhịp thơ: VD: Bài thơ “Viếng lăng Bác” có nhịp thơ đều thể hiện tình cảm tha thiết, thành kính của tác giả đối với Bác Hay: Bài thơ “Nói với con” của Y Phương thì nhịp thơ chậm, ngắn 2/3 hoặc 3/2/2 để thể hiện lời thủ thỉ tâm sự của người cha nói với con cụ thể: “ Chân phải / bước tới cha... Người đồng mình / thương lắm / con ơi”. - Mạch cảm xúc: VD: Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải có mạch cảm xúc đặc biệt từ cảm xúc mùa xuân của thiên nhiên, đất nước mà phát triển dâng trào tới cảm xúc khao khát được dâng hiến cho đời . - Các biện pháp tu từ: Cần chú ý phân tích các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, nói quá, điệp từ, điệp ngữ để làm rõ sự độc đáo, sáng tạo của từng tác giả trong biểu đạt nội dung. * Cần xác định rõ trọng tâm để xoáy sâu phân tích, tránh dàn đều. * Kết hợp nhuần nhuyễn giữa giới thiệu dẫn dắt, dẫn chứng với phân tích bình luận để làm rõ ý thơ, cần bình luận để người đọc thấy được cái hay cái đẹp của đoạn thơ, bài thơ về nội dung và nghệ thuật. Chú ý liên kết các câu trong đoạn, các đoạn các phần trong bài văn cả về nội dung và hình thức: 2.2.2. Các bước tạo lập văn bản nghị luận về đoạn thơ, bài thơ Bước 1: Tìm hiểu đề, tìm ý * Tìm hiểu đề: - Xác định thể loại, kiểu bài nghị luận? (chú ý từ: suy nghĩ, phân tích, cảm nhận để thực hiện đúng phương pháp làm bài). - Tìm nội dung bàn luận? (Nội dung và nghệ thuật bài thơ? Hoặc nét đặc sắc về nghệ thuật trong bài thơ...). - Tìm phạm vi kiến thức để phục vụ cho vấn đề bàn luận mà đề yêu cầu? (tác phẩm nào? Của ai? Hoặc kiến thức thuộc lĩnh vực nào? Các dạng đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Ví dụ: Đề 1: Hình tượng người chiến sĩ lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật? Đề 2: Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy gợi cho em suy nghĩ gì? Đề 3: Phân tích “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải để thấy lẽ sống cao đẹp của nhà thơ. Đề 4: Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng Lăng Bác” của Viễn Phương. Đề 5: Cảm nhận và suy nghĩ của em về tình cha con trong bài “Nói với con” của Y Phương? Đề 6: Hình ảnh người lính qua hai thi phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Khi tìm hiểu các đề nghị luận về đoạn thơ, bài thơ tôi hướng dẫn các em chú ý các từ trong đề bài “phân tích, cảm nhận và suy nghĩ” hoặc có khi đề bài không có lệnh như đề 6. Chẳng hạn từ phân tích chỉ định về phương pháp, từ cảm nhận lưu ý đến ấn tượng, cảm thụ người viết, từ suy nghĩ nhấn mạnh tới nhận định, phân tích của người làm bài. Trường hợp không có lệnh thì các em phải bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề đươc nêu ra trong đề bài. Sự khác biệt trên chỉ ở sắc thái chứ không phải là khác về kiểu bài. * Tìm ý: Nghị luận về đoạn thơ, bài thơ phải tìm hiểu nhà thơ, cuộc đời sự nghiệp, phong cách sáng tác, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, đặc biệt phải bám sát bố cục của bài để tìm luận điểm. Và tìm ý bằng các câu hỏi chẳng hạn như: Bài thơ được viết trong hoàn cảnh như thế nào? Tác giả sử dụng các từ ngữ đặc sắc nào? Các từ ngữ ấy diễn tả gì? Thể hiện tâm trạng tác giả ra sao? Tác giả dùng các hình ảnh nào đẹp, đặc sắc? Cảnh như thế nào? Tình như thế nào? Cảnh và tình bộc lộ tâm trạng gì? Tác giả sử dụng những biện pháp tu từ nào? Biện pháp ấy bộc lộ nội dung gì? Giọng điệu, nhịp, thanh, vần của bài thơ có gì đặc biệt? Điểm đặc biệt ấy thể hiện điều gì? Có tứ thơ nào mới lạ, đặc sắc trong bài? Giá trị nội dung và nghệ thuật bài thơ? Tác dụng của bài thơ? Bước 2: Lập dàn bài Đây là bước mà học sinh coi là khó nhất khi làm bài. Và các em cũng hay bỏ qua để thực hiện bước viết bài. Tại sao vậy? Vấn đề này cũng dễ lí giải: Thứ nhất, các em có một tâm lí sợ mất nhiều thời gian khi làm bài. Thứ hai, không có thói quen, chưa tập thành nếp lập dàn bài trước khi viết bài hoàn chỉnh. Thứ ba, không thuộc thơ cho nên cũng không thể lập được dàn bài. Thứ tư, do thói quen chủ quan của một số em. Như vậy, dẫn đến hậu quả hệ thống luận điểm sắp xếp không theo trật tự lô gic, các ý lộn xộn, hoặc bỏ ý, bỏ luận điểm trong bài bài viết. Vậy bước này, giáo viên cần phải làm gì để giúp các em tránh khỏi những tồn tại trên? Đối với bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, khi tìm ý giáo viên yêu cầu học sinh phải biết đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi làm sao cho phù hợp với từng đề bài cụ thể. Chẳng hạn, với dạng đề có chỉ định và dạng đề không có chỉ định, giáo viên yêu cầu học sinh phải xác định được đâu là nội dung chính cần tìm. Vấn đề là giáo viên tổ chức hướng dẫn học sinh phát hiện ra các luận điểm chính mà đề yêu cầu. Có như vậy việc lập dàn bài, triển khai luận điểm mới trở thành kĩ năng ở các em. Tránh tình trạng khi viết bài lại không trúng luận điểm với những ý lớn mình đã xác lập, viết lan man, từ ngữ nghèo nàn không gợi cảm xúc, tình cảm của người viết Thông thường dàn bài chung cho bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ theo một trình tự như sau: Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu vấn đề nghị luận. Có thể là nhận định, có thể là nội dung, có thể là hiện tượng văn học nào đó được nêu ra trong đề bài. Thân bài: - Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm . - Dựa vào bố cục bài thơ để tìm hệ thống luận điểm, luận cứ. (Người viết dựa vào việc phân tích giá trị, nét đặc sắc của bài thơ, đoạn thơ để đánh giá tổng quát về nội dung bình luận, phân tích). Kết luận: Khẳng định giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ, bài thơ. (Và đưa ra ý kiến của riêng mình về giá trị bài thơ). Ví dụ đề bài: Những đặc sắc trong bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương (Sgk Ngữ văn 9 trang 80). Với yêu cầu của đề bài này, giáo viên tổ chức cho các em lập dàn bài cho bài văn. Mỗi bài thơ phải dành thời gian để lập dàn ý chi tiết. Trước hết cho các em đặt câu hỏi tìm ý cho phần mở bài: Mở bài: + Giới thiệu cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Viễn Phương? Tìm dấu ấn về nhà thơ Viễn Phương. + Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh nào? (Khi lăng Bác vừa xây dựng xong và nhà thơ lần đầu tiên ra thăm lăng Bác?) + Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của bài thơ là gì? * Sau đó giáo viên tổ chức cho các em tìm luận điểm, luận cứ trong phần thân bài. Mỗi bài thơ lại có nhiều cách trình bày luận điểm. Tùy từng yêu cầu của đề bài mà giáo viên gợi cho học sinh tìm luận điểm. Khi tìm luận điểm phải hướng dẫn các em tìm ý bằng cách đặt câu hỏi: Thân bài: Thứ nhất, dựa vào vấn đề đã nêu nội dung hoặc nghệ thuật đặc sắc của bài thơ, hoặc nhan đề ở phần mở bài mà các em đã tìm ý được để triển khai luận điểm. Thứ hai, nếu vấn đề nghị luận là phân tích nội dung cả bài thơ thì giáo viên cho học sinh dựa vào bố cục bài thơ để tìm ý lớn. Vậy bố cục của bài thơ gồm mấy phần? Hãy nêu nội dung khái quát của từng phần? Khi tìm ra nội dung khái quát từng bài có nghĩa là các em đã tìm ra các luận điểm. Có trường hợp bài thơ có dấu ấn đặc biệt thì giáo viên phải cho học sinh phân tích và bình luận để thấy được nét phong cách độc đáo của nhà thơ. - Luận điểm 1: Cảm xúc ngợi ca của tác giả trước cảnh vật bên ngoài lăng (khổ 1) + Luận cứ 1: Câu thơ thứ nhất “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” chứa đậm chất tự sự, nó như một lời kể, lời thông báo với Bác. Tác giả xưng hô “con” với “Bác” diễn tả tình cảm của nhân dân với lãnh tụ gần gũi, thân mật như con với cha. Từ “thăm” làm giảm đi nỗi đau mất mát vô cùng to lớn trước sự ra đi của Người.) + Luận cứ 2: Hình ảnh tả thực hàng tre “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” trong sương sớm, mờ ảo, lung linh trước lăng Bác, một hình ảnh quen thuộc nơi làng quê về đây hội tụ. + Luận cứ 3: Hình ảnh ẩn dụ “Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam - Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” tượng trưng cho sức sống bền bỉ, kiên cưỡng, bất khuất của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước. - Luận điểm 2: Cảm xúc của tác giả trước dòng người vào lăng viếng Bác (khổ thơ thứ 2) - Luận điểm 3: Cảm xúc đau xót nghẹn ngào khi tác giả đứng trong lăng viếng Bác (khổ thơ thứ 3) - Luận điểm 4: Tâm trạng lưu luyến của nhà thơ khi phải trở về miền Nam (khổ cuối) - Đánh giá về đặc sắc nghệ thuật: giọng thơ vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào, thành kính, nhịp chậm, lời thơ giản dị, thể thơ 8 chữdiễn tả sự trang nghiêm, thành kính trong tâm trạng nhà thơ. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp cả hình ảnh thực và ẩn dụ có ý nghĩa khái quát cao. Cuối cùng, giáo viên tổ chức cho học sinh làm phần kết bài. Kết bài: Giáo viên cho học sinh đặt câu hỏi và trả lời: phần kết bài của kiểu bài này có nhiệm vụ gì? Hãy liên hệ bản thân? (đánh giá, khẳng định giá trị của bài thơ). Rút ra bài học cho bản thân hoặc liên hệ mở rộng vấn đề khơi gợi suy nghĩ nơi người đọc. Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết đoạn và liên kết đoạn Khi thực hiện bước này, nhất thiết người viết phải bám sát vào dàn bài đã lập để triển khai hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng. Từ dàn ý đã có sẵn, các em có thể viết thành đoạn, thành bài. Tôi hướng dẫn các em viết từng đoạn tiêu biểu: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. 1. Đoạn mở bài: a. Nguyên tắc mở bài: - Cần nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. Chỉ được phép nêu những ý khái quát HS không được lấn sang phần thân bài: giảng giải, minh hoạ hay nhận xét, đánh giá ý kiến nêu trong đề bài. b. Cách mở bài: Có rất nhiều cách mở bài. Tuỳ dụng ý của người làm mà có thể vận dụng một trong những cách sau đây: Mở bài trực tiếp: Là đi thẳng vào vấn đề cần nghị luận, giới thiệu luôn bài thơ. Mở bài gián tiếp: Là cách dẫn dắt vấn đề bằng những cảm xúc suy nghĩ rồi từ đó giới thiệu đối tượng nghị luận. Sau đây là một số cách mở bài tham khảo cho đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. * Cách trực tiếp: Ví dụ 1: Mở bài bằng cách giới thiệu tác giả tác phẩm Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn, ông sinh năm 1930 mất năm 1980 ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, là người có công đầu trong việc xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời vào tháng 11 năm 1980 khi ông đang nằm trên giường bệnh. Tác phẩm đã thể hiện niềm yêu mến thiết tha cuộc sống, đất nước và ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ dâng hiến cho đời. Ví dụ 2: Giới thiệu tác phẩm trước tác giả sau Cứ nhắc đến Mùa xuân nho nhỏ là người ta nhớ ngay đến nhà thơ Thanh Hải. Bài thơ chính là tiếng lòng là tâm nguyện thiết tha của tác giả trước khi trở về với cát bụi. Bằng âm hưởng dịu dàng sâu lắng bài thơ không chỉ là sức sống của mùa xuân thiên nhiên đất nước mà còn là ước nguyện được làm một mùa xuân nho nhỏ hoà vào mùa xuân lớn của dân tộc. Ví dụ 3: Giới thiệu tác giả tác phẩm theo cách sáng tạo của riêng mình, cách này ngắn gọn, xúc cảm và sáng ý. Khi nhắc đến nhà thơ Thanh Hải người ta nghĩ ngay đến bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” - tác phẩm cuối cùng và đặc sắc nhất của ông. Mùa xuân nho nhỏ là nhan đề bài thơ hay tiếng lòng tha thiết ước nguyện chân thành của Thanh Hải khi biết mình sắp phải lìa xa cuộc sống mến thương. * Cách gián tiếp Ví dụ 1: Từ cảm xúc bồi hồi rạo rực của con người trước thiên nhiên Rạo rực trước mùa xuân của thiên nhiên đất nước, tâm hồn người thi sĩ cũng xốn xang lắng đọng bởi những cảm xúc thiết tha ngọt ngào, khát vọng được dâng hiến được hoà nhập - đó là ước nguyện chân thành mà sâu sắc của nhà thơ Thanh Hải qua “Mùa xuân nho nhỏ” giản dị khiêm nhường. Ví dụ 2: Liên tưởng từ cách gợi trong một bài hát cùng tên “Mùa xuân - ta xin hát Câu nam ai nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình...” Bài hát đã khép lại nhưng khúc ngân của mùa xuân mang âm điệu mượt mà của câu hò xứ Huế vẫn còn vương vấn trong lòng người. Với chất nhạc, chất thơ lay động tâm hồn, ước nguyện chân thành tha thiết từ tấm lòng nhà thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải đã để lại trong lòng người ấn tượng và cảm xúc sâu lắng. Ví dụ 3: Mở bài theo cách phản đề: Là xây dựng những ý nghĩa những hình ảnh mang tính chất đối lập để làm nổi bật vấn đề nghị luận. Có người nói thi nhân phải cảm ơn mùa thu vì mùa thu đã gợi bao thi hứng làm nên những tác phẩm thơ bất hủ nhưng tôi lại cho rằng mùa xuân mới là mùa của thi ca, không thế mà sao có biết bao bài thơ xuân đã ra đời như “Xuân ý” của Chế Lan Viên, “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính và cả “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. 2. Đoạn thân bài: Trước hết, tôi phải xác định vai trò của phần thân bài cho học sinh nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của nó trong một bài văn. Phần thân bài sẽ lần lượt trình bày, giải thích, nhận xét, đánh giá đối tượng ấy bằng tư tưởng, tình cảm của mình .....các luận điểm của vấn đề được đặt ra trong đề bài. Ở từng luận điểm, cần có sự phân tích, sự thâm nhập, thẩm bình sâu tác phẩm vừa yêu cầu kĩ năng tổng hợp, khái quát thành nhận định, đánh giá riêng.Giữa các luận điểm, đoạn văn cần có sự liên kết, chuyển tiếp một cách linh hoạt, uyển chuyển, tránh gò bó, máy móc, công thức. Ví dụ: Một đoạn thân bài của đề bài: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải. Giáo viên có thể giới thiệu cho HS tham khảo đoạn văn phân tích khổ thơ cuối: Người xưa thường nói “thơ là tiếng lòng”. Mỗi vần điệu trong bài thơ là một bức hoạ về cuộc sống. Nếu những khổ thơ trên là những suy ngẫm cảm động về ước nguyện dâng hiến thì khổ thơ cuối nhà thơ lại muốn được cất lên tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình xứ Huế: Mùa xuân ta xin hát Câu Nam ai Nam bình Nước non ngàn dặm mình Nước non ngàn dặm tình Nhịp phách tiền đất Huế. Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ bé trong cái ngàn dặm rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất gần gũi, tràn đầy yêu thương và ấm áp, gợi mở ra một cái tình rất riêng, rất Huế nhưng lại hoà chung được với nước non. Tiếng hát đằm thắm hiền hoà xen với những tiếng phách giòn giã, tươi vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời xứ Huế, kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả tình yêu nước non ngàn dặm, tình yêu quê hương đất nước. 3. Đoạn kết bài: Đoạn kết bài phải thể hiện đúng quan điểm đã trình bày ở phần thân bài. Chỉ nêu những ý nhận xét, đánh giá khái quát, không trình bày lan man hay lặp lại ý diễn giải, minh hoạ, cụ thể, chi tiết. Cũng không nên lặp lại nguyên văn lời lẽ của phần mở bài. Khác với mở bài, phần kết bài thiên về đánh giá, tổng kết vấn đề. Có nhiều cách kết bài khác nhau, tuỳ theo dụng ý của người viết. Có khi kết bài là tóm tắt, khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Có khi kết bài là tổng hợp những cảm nhận sâu sắc về nhân vật, tác giả, tác phẩm. Có khi kết bài lại là liên tưởng đến các vấn đề khác có liên quan. Thế nên, để hướng dẫn HS viết được những kết bài sâu sắc, người GV cần phải giúp HS nhận thức được tầm quan trọng của đoạn kết bài không chỉ khép lại, hoàn chỉnh bài văn mà còn làm cho bài văn thêm khái quát, nâng cao về mọi mặt: tư tưởng, tình cảm, chủ đề, quan niệm sống tốt đẹp Dưới đây là hai cách kết bài cho đề bài văn: Phân tích bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải? Ví dụ 1: Đánh giá chung về tác phẩm. Bài thơ khép lại bằng một triện đỏ in dấu hồn thơ của người con xứ Huế. Bài thơ lay động tâm hồn chúng ta bởi chất nhạc xao xuyến và ước nguyện chân thành cảm động. Cái ước nguyện lặng lẽ dâng cho đời một mùa xuân nho nhỏ đã tìm được những tiếng lòng đồng vọng. Bài thơ chính là một “ Mùa xuân nho nhỏ” Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi. Ví dụ 2: Đánh giá ý nghĩa bài thơ và liên hệ bản thân. “Mùa xuân nho nhỏ” là một bài thơ có tứ thơ độc đáo, cảm hứng xuân phơi phới, hình ảnh sáng tạo, nhạc điệu vui tươi tha thiết. Đọc “Mùa xuân nho nhỏ” trái tim ta dường như xao xuyến, một cảm xúc thanh cao, trong sáng từ từ dâng ngập hồn ta. Bài thơ đem đến cho chúng ta bao cảm xúc đẹp về mùa xuân, gợi cho ta suy nghĩ về một lẽ sống cao đẹp của một tâm hồn trong sáng khiến ta cảm phục và tin yêu. Còn gì đẹp hơn mùa xuân? Có tình yêu nào rộng lớn hơn tình yêu quê hương đất nước? Thấm nhuần tâm tư, ước nguyện của của nhà thơ, chúng ta càng thêm tin yêu vào mùa xuân của đất nước và “mùa xuân nho nhỏ” trong lòng mình. Chúng ta muốn cùng con chim chiền chiện hót lên khúc ca ngọt ngào gọi xuân về, muốn học thành tài để hiến dâng cho đất nước, góp phần công sức nhỏ bé để tô điểm cho mùa xuân cuộc đời thêm đẹp. Sau khi học sinh viết bài hoàn chỉnh, giáo viên nên tạo cho các em thói quen đọc lại bài và sửa lỗi. Đó cũng là một hình thức soát lại bài giúp các em điều chỉnh, hoàn thiện những thiếu sót trong bài của mình. Bước 4: Đọc, sửa lỗi Đây là bước cuối cùng khi hoàn thiện bài văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ. Người viết phải có thói quen rà soát lại bài làm của mình để sửa lỗi về nội dung lẫn hình thức. Về nội dung, người viết phải soát lại hệ thống luận điểm, luận cứ. Về hình thức, người viết phải soát lại bố cục, các đoạn văn, các câu văn diễn đạt, lỗi chính tả thường mắc phải. Vì vậy giáo viên hướng dẫn các em và yêu cầu các em phải thực hiện bước này để hình thành thói quen kiểm tra lại bài viết của mình sau khi viết. MÔ HÌNH BÀI VĂN Mở bài Thân bài Kết bài Tác giả Tác phẩm LĐ1 LĐ2 LĐ3 LĐ4 Khẳng định Liên hệ Thao tác: phân tích, bình luận, đánh giá từng đoạn thơ 2.3. Kết quả đạt được Theo dõi tỷ lệ học sinh thích học, biết viết văn nghị luận về đoạn thơ, bài thơ đúng và hay, cảm xúc trong quá trình dạy học đã thu được kết quả khá lạc quan: Qua quá trình theo dõi kết quả cụ thể như sau: Tổng số HS khối 9: 112 em a. Trước khi chưa cải tiến phương pháp, cách hướng dẫn: Môn Giỏi Khá Trung bình Yếu Tập làm văn Sl % SL % SL % SL % 17 15.2 33 29.4 45 40.2 17 15.2 b. Sau khi cải tiến phương pháp, cách tổ chức hướng dẫn: Môn Giỏi Khá Trung bình Yếu Tập làm văn Sl % SL % SL % SL % 25 22.3 42 37.5 35 31.3 10 8.9 Qua bảng so sánh trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy, nhờ áp dụng cảu tiến phương pháp, cách tổ chức hướng dẫn mà tỉ lệ học sinh giỏi, khá tăng lên; học sinh trung bình và yếu giảm rõ rệt. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Bài học kinh nghiệm: Với tâm huyết giảng dạy thực tốt kiểu bài nghị luận về đoạn thơ, bài thơ và qua tích luỹ một vài kinh nghiệm hướng dẫn HS phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn, tôi đã giúp HS của các lớp do chính tôi trực tiếp giảng dạy đạt được kết quả tốt trong các kì kiểm tra học kì II và thi tuyển vào lớp 10 luôn đảm bảo chỉ tiêu chất lượng từ 90% trở lên và chất lượng năm sau cao hơn năm trước. Đa số bài làm của các em đều đáp ứng được yêu cầu của đề; khai thác được ý hay, ý sâu sắc; phân tích tinh tế, có cảm xúc, biết tìm tòi và sáng tạo mang phong cách riêng, không còn gượng ép, máy móc hay khuôn sáo.Rất ít bài làm sơ lược, ý nghèo nàn hoặc không tìm được ý. 3.2. Ý kiến đề xuất: Để việc dạy - học Tập làm văn thực sự có kết quả, để học sinh yêu thích tiết học này người giáo viên phải cố gắng nhiều trong việc nghiên cứu kĩ bài dạy trước khi lên lớp, soạn bài phù hợp với đối tượng học sinh. Bên cạnh đó người giáo viên phải có tri thức, vốn sống kinh nghiệm phải đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa. Đặc biệt là trong giờ Tập làm văn phải biết linh hoạt trong cách hướng dẫn, tổ chức cho các em không tẻ nhạt. Về phía học sinh: phải nhiệt tình, tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ thuật bằng cả trái tim. Phải rèn luyện năng lực cảm thụ thơ của mình từ đọc diễn cảm, chỉ ra cái hay cái đẹp trong đoạn thơ, bài thơ phát hiện những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong bài. Học sinh cũng tự giác sưu tầm những đoạn văn, bài văn nghị luận về thơ có giá trị để tham khảo và có thể nạp về tủ sách nhà trường. Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã hiểu bài, những bàn tay tự viết ra được những lời văn óng ánh, những nụ cười thiện cảm với môn Văn từ phía học sinh. Để đạt được những điều vô cùng quý giá đó mỗi giáo viên chúng tôi đâu chỉ có say mê nhiệt tình với công tác giảng dạy mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_cach_lam_bai_van_ng.doc