Sáng kiến kinh nghiệm Giúp các em học sinh Lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến về rút đơn vị
Bậc Tiểu học là bậc học quan trọng, là nền tảng của bậc học phổ thông, là cơ sở ban đầu để hình thành và phát triển nhân cách của học sinh.
Chương trình ở bậc Tiểu học bao gồm nhiều môn học, trong các môn học đó môn Toán chiếm một vị trí quan trọng. Nó chiếm nhiều thời gian, các kiến thức của môn Toán được ứng dụng rất thiết thực trong đời sống hàng ngày của con người. Mặt khác, môn Toán còn có quan hệ mật thiết với các môn học khác, nếu học sinh học tốt môn Toán thì sẽ tác động tích cực đến việc học tốt các môn học khác. Trọng tâm của môn Toán trong chương trình Tiểu học mới hiện nay là: “Đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực học tập của học sinh”, trong đó đa dạng hoá các hình thức dạy học là một yêu cầu quan trọng nhằm mục đích phát huy hết khả năng chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong quá trình học.
Toán học là môn học thuận lợi cho việc rèn luyện tư duy của học sinh. Môn Toán là môn thể thao của trí tuệ. Vì vậy cần phải phát triển kịp thời và bồi dưỡng những học sinh có năng lực toán để phát triển tư duy, sáng tạo của các em, tạo cơ sở ban đầu cho việc bồi dưỡng và phát triển nhân tài.
Học toán và giải toán là một trong các biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Giải toán yêu cầu học sinh phải tư duy một cách tích cực, huy động tích hợp các kiến thức vào tình huống thích hợp. Học sinh phải biết phát hiện dữ kiện, tìm điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh, nhất là đối với những bài toán có nội dung khó hơn, yêu cầu cao hơn,. Đối với học sinh thì giải toán là một việc làm, là hoạt động chủ yếu của hoạt động Toán học.
lực toán để phát triển tư duy, sáng tạo của các em, tạo cơ sở ban đầu cho việc bồi dưỡng và phát triển nhân tài. Học toán và giải toán là một trong các biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Giải toán yêu cầu học sinh phải tư duy một cách tích cực, huy động tích hợp các kiến thức vào tình huống thích hợp. Học sinh phải biết phát hiện dữ kiện, tìm điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh, nhất là đối với những bài toán có nội dung khó hơn, yêu cầu cao hơn,.. Đối với học sinh thì giải toán là một việc làm, là hoạt động chủ yếu của hoạt động Toán học. Thực tế dạy học hiện nay trong một lớp có nhiều đối tượng học sinh khác nhau, do đó cần yêu cầu “ phổ cập” đối với diện học sinh đại trà là phải nắm chắc chương trình sách giáo khoa theo quy định, nắm được kĩ năng cơ bản của giải bài tập toán, xác định được yêu cầu cần được nâng cao đối với học sinh khá, giỏi là giải được một bài toán có nội dung phức tạp hơn, đòi hỏi trình độ tư duy cao hơn. Như chúng ta đã biết, căn cứ vào sự phát triển tâm, sinh lí của học sinh Tiểu học mà cấu trúc nội dung môn Toán rất phù hợp với từng giai đoạn phát triển của học sinh và đặc biệt là ở lớp 3. Các em được học các kiến thức, kĩ năng ở thời điểm kết thúc của giai đoạn 1, chuẩn bị học tiếp giai đoạn sau, cho nên các em phải nắm chắc tất cả các cơ sở ban đầu về giải toán nói riêng, tất cả các kĩ năng khác nói chung. Đặc biệt, ở lớp 3 sang học kì II, các em bắt đầu được làm quen với các dạng toán hợp cơ bản, trong đó có dạng ‘ Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”. Dạng toán này có rất nhiều ứng dụng trong thực tế, nó đòi hỏi các em phải có kĩ năng giải toán tốt, kĩ năng ứng dụng thực tế hàng ngày trong cuộc sống. Qua ba năm liền trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, đối với môn Toán và cụ thể là phần giải toán “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”, Tôi thấy các em nắm được kĩ năng giải toán như là một văn bản lí thuyết, còn áp dụng vào thực hành giải toán thì hiệu quả chưa cao. Đó là điều mà tôi băn khoăn, trăn trở bâý lâu nay. Chính vì thế, Tôi đã chọn vấn đề “ Giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị” để nghiên cứu nhằm tìm ra biện pháp giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt dạng bài toán liên quan đến rút về đơn vị, Tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “ Giúp các em học sinh lớp 3 giải tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị” để nghiên cứu. II. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIẢI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ CHO HỌC SINH LỚP 3. Trong chương trình môn toán ở lớp 3, giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giữ một vai trò quan trọng vì đây là một dạng toán điển hình thuộc dạng giải toán có lời văn ( vì dạng toán này có hai kiểu bài khác nhau), chính vì thế, thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như: các số, các phép tính, đều gắn liền với thực tiễn hoạt động của học sinh. a) Thuận lợi: - Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm và có hướng chỉ đạo đúng đắn trong việc dạy học. - Đa số các em thích học toán. - Học sinh có đầy đủ phương tiện để học tập. b) Khó khăn: - Môn Toán là một môn học khó, học sinh dễ chán. - Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều - Một số học sinh còn chậm, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán. - Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên hay chóng quên các dạng bài toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. c) Tình trạng của học sinh lớp 3A năm học 2009 – 2010. Tổng số lớp tôi chủ nhiệm là 17 em, trong đó nam: 7 em; nữ 10 em. Đa số các em là con em dân tộc thiểu số và là con em gia đình nông dân. Một số em có hoàn cảnh khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa, các em phải ở nhà với ông bà cho nên việc đôn đốc, quan tâm đến các em học bài là chưa có. - Một số gia đình quan tâm đến con cái nhưng họ không có phương pháp hướng dẫn các em làm bài, đặc biệt là bài toán có lời văn chính vì thế các em không hiểu được bản chất của bài toán., làm bài còn mơ hồ. - Một số học sinh đọc bài chưa thạo, còn ấp úng cho nên khi đọc bài toán các em không hiểu được bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì? . - Khi làm một bài toán giải các em không đọc kĩ đề bài và giải xong không kiểm tra lại bài; - Ở lớp 3 có dạng Bài bài toán liên quan đến rút về đơn vị, trong dạng này gồm có hai kiểu bài, chính vì thế khi làm bài các em hay nhầm lẫn. + Kiểu bài 1: Giải theo 2 bước: Bước 1: Tìm giá trị 1 phần ( thực hiện phép tính chia) Bước 2: Tìm giá trị nhiều phần đó ( thực hiên phép nhân). + Kiểu bài 2: Giải theo 2 bước: Bước 1: Tìm giá trị một phần ( thực hiện phép chia). Bước 2: Tìm số phần (thực hiện phép chia.) Tuy cả hai kiểu bài đều thực hiện theo hai bước nhưng học sinh hay nhầm lẫn giữa bước 2 của cả hai kiểu bài. - Trong năm học 2009 – 2010, sau khi dạy xong cả hai dạng toán này tôi đã tiến hành kiểm tra bằng cách ra hai bài toán ( làm bài trong 15 phút) để kiểm tra chất lượng làm bài của các em học sinh lớp Tôi. Bài toán 1: Tổ trưởng một đội sản xuất đã nhận được 75 000 nghìn đồng tiền thưởng và chia đều cho 3 người trong tổ. Hỏi hai người thì nhận bao nhiêu tiền thưởng? Bài toán 2: Có 40 kg đường đựng đều trong 8 túi. Hỏi 15kg đường đựng trong mấy túi như thế? Sau khi chấm bài, tôi thấy kết quả các em làm được như sau: Một số em làm đúng cả hai kiểu bài. Một số em làm nhầm từ bước 2 ở kiểu bài 1 sang bước 2 ở kiểu bài 2 và ngược lại. Một số em làm sai cả hai bài. * Cụ thể kết quả chất lượng kiểm tra 2 bài toán trên đối với lớp 3A trường Tiểu học Điền Lư II năm học như sau: Tổng số HS Điểm 9 - 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 17 2 11,8 % 3 17,6% 3 17,6% 9 53% Nguyên nhân có kết quả như trên là do phần lớn các em còn chủ quan trong làm bài, một số em chưa nắm vững phương pháp giải toán có lời văn và đặc biệt là dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Mặt khác các em chưa được củng cố vững về hai kiểu bài trong dạng toán này nên việc làm bài sai của học sinh là không tránh khỏi. Một nguyên nhân quan trọng nữa là khi làm bài xong học sinh không thử lại. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN. 1. Điều tra nắm bắt tình hình và phân loại chất lượng học sinh trong lớp - Từ khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và tính cách cũng như học lực của từng học sinh để nắm bắt được 4 đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách: Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu. Đặc biệt là học xong phần nào Tôi đều kiểm tra để đánh giá phân loại chất lượng học sinh , từ đó có biện pháp kèm cặp thêm cho học sinh yếu kém. 2. Xác định một số sai lầm mà học sinh mắc phải khi giải Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị. 3. Vận dụng phương pháp dạy học phù hợp với tâm sinh lí và trình độ học sinh lớp mình phụ trách. 4. Tạo cơ hội để học sinh phát huy tối đa, tích cực trong học toán. II. CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT BÀI TOÁN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ 1. Giúp học sinh nắm chắc phương pháp chung để giải các bài toán có lời văn. Muốn cho học sinh giải tốt “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”, trước tiên tôi đã hướng dẫn các em nắm chắc được những bước cần thực hiện khi giải tất cả các dạng toán. Mỗi bài toán các em có làm tốt được hay không đều phụ thuộc vào phương pháp giải toán được vận dụng ở mỗi bước giải bài toán đó. Cho nên tôi đã hướng dẫn học sinh nắm chắc các bước giải toán như sau: Bước 1: Đọc kĩ đề toán Bước 2: Tóm tắt bài toán Bước 3: Tự phân tích đề toán Bước 4: Viết bài giải Bước 5: Kiểm tra lời giả và đánh giá cách giải. Cụ thể yêu cầu đối với học sinh như sau: a) Đọc kĩ đề bài: Trong một bài toán yêu cầu ít nhất 3 em học sinh đọc để giúp các em nắm được ba yếu tố cơ bản. Những “ dữ kiện” là những cái đã cho, đã biết trong đầu bài, “ những ẩn số” là những cái chưa biết và cần tìm những “điều kiện” là quan hệ giữa các dữ kiện và ẩn số. - Cần tập cho học sinh có thói quen và từng bước có kĩ năng suy nghĩ trên các yếu tố cơ bản của bài toán, phân biệt và xác định được các dữ kiện và điều kiện cần thiết liên quan đến cái cần tìm, gạt bỏ các tình tiết không liên quan đến câu hỏi, phát hiện được các dữ kiện và điều kiện không tường minh để diễn đạt một cách rõ ràng hơn. Tránh thói quen xấu là vừa đọc xong đã làm ngay. b) Tóm tắt đề toán: Sau khi học sinh đọc kĩ đề toán, tôi đã hướng dẫn cho các em tóm tắt bài toán theo các cách sau: - Cách 1: Tóm tắt bằng chữ. - Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng. - Cách 3: Tóm tắt bằng hình tượng trưng - Tóm tắt bằng kẻ ô. Tuy nhiên trong một bài toán cụ thể, tôi luôn hướng cho các em chọn cách tóm tắt nào dễ hiểu nhất, ngắn gọn nhất. c) Phân tích đề toán: Sau khi cho học sinh tóm tắt xong bài toán, tôi yêu cầu các em đọc thật kĩ lại đề toán (đọc thầm), rồi tự phân tích các dữ kiện và ẩn số của bài toán để sau đó các em tự giải được bài toán. d) Viết bài giải: Dựa vào phần tóm tắt và quá trình tự phân tích bài toán của học sinh, các em sẽ dễ dàng viết được bài giải một cách chính xác và đầy đủ. e) Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải: Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, khi học sinh đã làm xong bài toán của mình rồi, nhưng khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả em làm là đúng không?” thì nhiều em rất lúng túng không tin vào kết quả của mình. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, tôi đã hướng dẫn các em thông qua các bước: Đọc lại lời giải Kiểm tra lại các bước giải Thử lại kết quả. 2. Hướng dẫn học sinh giải bài toán liên quan đển rút về đơn vị bằng phép tính chia, nhân ( kiểu bài 1). Rút kinh nghiệm từ năm học 2009 – 2010, năm học 2010 – 2011, tôi đã tiến hành dạy kiểu bài 1 theo phương pháp và hình thức sau: Tiết 122: BÀI TOÁN LIÊN QUAN ĐẾN RÚT VỀ ĐƠN VỊ. I. Mục tiêu: - Giúp học sinh biết cách giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị. - Học sinh biết áp dụng để giải các bài toán liên quan. II. Đồ dung dạy học - Phóng to hình vẽ trong SGK. III. Các hoạt động dạy học: HOẠT ĐỘNG CỦA GV HOẠT ĐỘNG CỦA HS 1. Kiểm tra bài cũ: - GV đưa ra bài toán: Có 2 thùng, mỗi thùng chứa 1025l dầu. Người ta lấy ra 1350l dầu từ các thùng đó. Hỏi còn lại bao nhiêu lít dầu? - Yêu cầu HS nhận xét bài làm trên bảng. - Nhận xét, cho điểm. 2. Dạy học bài mới a) Giới thiệu bài: b) Hướng dẫn giải bài toán 1( bài toán đơn) : Có 35l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi mỗi can có mấy lít mật ong? - Yêu cầu HS đọc bài toán. - Hướng dẫn HS tóm tắt bài toán. H: Bài toán cho biết gì? H: Bài toán hỏi gì? - Yêu cầu HS tóm tắt bài toán H: Muốn biết được 1 can chứa mấy lít dầu ta làm như thế nào? - Yêu cầu HS tự giải vào vở nháp. - GV ghi bảng Bài giải: Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 ( lít) Đáp số: 5 lít - GV củng cố: Để tìm 1 can chứa bao nhiêu lít mật ong ta làm phép tính gì? - GV: Để tìm được số lít mật ong trong 1 can chúng ta thực hiện phép tính chia. Bước này gọi là rút về đơn vị, tức là tìm giá trị của một phần trong các phần. - Gv yêu cầu HS lấy một số ví dụ về một số bài toán đơn giản để củng cố c) Hướng dẫn giải bài toán 2: ( Bài toán hợp có hai phép tính chia và nhân): Có 35l mật ong chia đều vào 7 can. Hỏi 2 can có mấy lít mật ong? - Yêu cầu HS đọc bài toán - Yêu cầu HS tóm tắt bài toán - Tổ chức cho HS thảo luận nhóm đôi để tìm cách giải bài toán. - GV nhận xét trình bày lại cách làm trên bảng. Bài giải: Số lít mật ong có trong mỗi can là: 35 : 7 = 5 (lít) Số lít mật ong có trong 2 can là: 5 x 2 = 10 ( lít) Đáp số: 10 lít H: Bài toán trên, bước nào là bước rút về đơn vị? H: Giải các bài toán liên quan đến rút về đơn vị thường được giải theo mấy bước? * GV kết luận: Các bài toán có liên quan đến rút về đơn vị thường được giải bằng 2 bước: + Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị một phần trong các phần bằng nhau). thực hiện phép chia. + Bước 2: Tìm giá trị của nhiều đơn vị cùng loại ( giá trị của nhiều phần bằng nhau). Thực hiện phép tính nhân. - Yêu cầu HS nêu lại các bước d) Luyện tập + Bài 1:Yêu cầu HS đọc bài toán - Yêu cầu HS tự đọc thầm để phân tích bài toán rồi sau đó tự tóm tắt và giải. - GV cùng cả lớp chữa bài, nhận xét. + Bài 2: Tổ chức cho HS làm tương tự bài 1. + Bài 3: Gọi HS đọc yêu cầu - Tổ chức cho HS xếp hình trong nhóm ( mỗi nhóm 4 em). - Tổ chức cho HS trình bày bài làm. - GV nhận xét, cho điểm 3. Củng cố - dặn dò: - Yêu cầu HS nêu lại các bước giải bài toán có liên quan đến rút về đơn vị. - Dặn HS về nhà ôn lại bài và làm bài trong VBT. - 1HS lên bảng giải, cả lớp làm vào vở nháp. Bài giải: Hai thùng có số lít dầu là: 1025 x 2 = 2050 (lít) Còn lại số lít dầu là: 2050 – 1350 = 700 (lít) Đáp số: 700 lít - Nhận xét bài trên bảng - 3 HS đọc bài toán - Có 35 l mật ong chia đều vào 7 can. - Mỗi can có mấy lít mật ong - 1 HS lên bảng tóm tắt, cả lớp tóm tắt vào vở nháp. Tóm tắt: 7 can: 35 lít 1 can: .... lít? - Ta lấy 35 chia cho 7 - HS làm vào vở nháp, sau đó nêu trình bày miệng cách làm - làm phép tính chia. - HS nêu một số VD như: 5 túi ngô: 45 kg 1 túi ngô: .kg? . - 3 HS đọc bài toán - 1HS lên bảng tóm tắt, cả lớp làm vào vở nháp. - Thảo luận nhóm đôi để tìm cách giải. - HS nêu cách làm. - Bước tìm số lít mật ong trong 1 can gọi là bước rút về đơn vị. - giải theo 2 bước. - 3HS nêu lại - 3 HS đọc - Tự tóm tắt và giải. - 1 HS lên bảng chữa bài - 2 HS đọc yêu cầu. - Làm việc trong nhóm. - Đại diện các nhóm trình bày kết quả. - 2 HS nêu lại * Qua mỗi lần luyện tập xen kẽ, tôi đều củng cố cách làm ở kiểu bài 1: Giải bài toán theo 2 bước: + Bước 1: Bước rút về đơn vị ( Tìm giá trị 1 phần)- phép chia. + Bước 2: Tìm nhiều đơn vị ( phép nhân) 3. Hướng dẫn học sinh cách giải bài toán liên quan đến rút về đơn vị giải bằng hai phép tính chia ( kiểu 2). Khi dạy kiểu 2 của dạng toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi cũng dạy các bước tương tự như kiểu 1. Song để học sinh dễ nhận dạng, so sánh phương pháp giải hai kiểu bài này, khi dạy bài “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ( tiếp theo)”. Bước kiểm tra bài cũ, tôi đã đưa ra kiểu bài lặp lại kiểu bài 1: VD: Có 28 kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao có bao nhiêu ki-lô-gam gạo? Mục đích của việc kiểm tra bài cũ này là vừa kiểm tra, củng cố phương pháp dạy ở kiểu bài 1, cũng vừa dựa vào đó để tôi hướng các em tới phương pháp giải ở kiểu bài 2. Bài toán ở kiểu bài 2: Có 35l mật ong chia đều vào 7 can. Nếu có 10l mật ong thì đựng đều vào mấy can như thế? - Cách tổ chức, hướng dẫn tôi cũng tiến hành như kiểu bài 1. - Khi củng cố bài, học sinh nêu được: Ở bước 1 là bước rút về đơn vị; bước 2 là tìm số phần. * GV kết luận: Khi giải dạng bài toán rút về đơn vị kiểu 2 cũng giải theo 2 bước: + Bước 1: Tìm giá trị một đơn vị ( giá trị 1 phần). Thực hiện phép chia - Bước rút về đơn vị. + Bước 2: Tìm số phần ( số đơn vị) . Thực hiện phép chia. Sau mỗi bài tập, tôi lại củng cố lại các bước giải để các em nắm vững phương pháp hơn. Đặc biệt, khi học xong kiểu 2 các em dễ nhầm với cách giải ở kiểu 1, cho nên tôi đã hướng dẫn để các em phân biệt được giữa hai kiểu bài thông qua làm các bài toán có liên quan đến 2 kiểu bài đó. 4. Hướng dẫn học sinh luyện tập, so sánh phương pháp giải 2 kiểu bài của dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Để học sinh luyện tập tốt dạng toán Bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở cả hai kiểu bài, tôi đã hướng dẫn các em so sánh các bước giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài như sau: Các bước Kiểu bài 1( Tìm giá trị các phần) Kiểu bài 2 ( Tìm số phần) 1 Tìm giá trị của 1 phần ( thực hiện phép chia) Tìm giá trị của 1 phần ( thực hiện phép chia) 2 - Tìm giá trị của 1 phần ( phép nhân) - Lấy giá trị 1 phần nhân với số phần - Tìm số phần ( phép chia) - Lấy giá trị các phần chia cho giá trị 1 phần Tôi yêu cầu các em ghi nhớ bằng cách: - Ghi lại và học thuộc bảng so sánh các bước giải và đặc điểm của mỗi kiểu bài. - Khi kiểm tra hay luyện tập tôi thường ra đề có 2 kiểu bài tập song song với nhau. Mục đích là để các em vừa làm, vừa nhận dạng, so sánh. Sau mỗi lần luyện tập như vậy, chúng ta lại củng cố kiến thức một lần nữa cho các em, như vậy các em sẽ không nhầm lẫn giữa hai kiểu bài nữa. III. TIẾN HÀNH THỰC NGHIỆM. Áp dụng các giải pháp và biện pháp trên, tôi đã tiến hành thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của đề tài mình nghiên cứu, sự hiệu quả của các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cũng như giúp các em làm tốt dạng Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị. Cụ thể, tôi đã tiến hành cho các em làm bài kiểm tra như sau: Bài toán 1: Có 2135 quyển vở được xếp đều vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng đó có bao nhiêu quyển vở? Bài toán 1: Có 48 cái đĩa xếp đều vào 8 hộp. Hỏi 30 cái đĩa thì xếp được vào mấy hộp như thế? - Tổ chức cho HS làm bài trong thời gian 20 phút, sau khi HS làm bài xong tôi đã thu bài về nhà chấm điểm, rồi sau đó tôi gọi 2 HS lên bảng chữa bài. + Bài 1 Tóm tắt: 7 thùng: 2135 quyển 5 thùng: quyển? Bài giải: Mỗi thùng xếp được số quyển vở là: 2135 : 7 = 305 ( quyển) 5 thùng xếp được số quyển là: 305 x 5 = 1525 ( quyển) Đáp số : 1525 quyển + Bài 2: Tóm tắt: 48 cái: 8 hộp 30 cái: ..hộp? Bài giải: Một hộp xếp được số cái đĩa là: 48 : 8 = 6 ( cái) 30 cái xếp trong số hộp là: 30 : 6 = 5 ( hộp) Đáp số: 5 hộp Sau khi HS chữa bài xong tôi đã củng cố cách giải, mối quan hệ giữa hai phép tính của cả hai kiểu bài này. PHẦN III. KẾT LUẬN 1. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Sau khi áp dụng các phương pháp trên để giúp học sinh làm tốt dạng Bài toán liên quan đến rút về đơn vị, tôi thấy nhiều em làm được bài rất tốt, được nhiều điểm 9 điểm 10. Các em nắm chắc hơn bản chất của bài toán; việc tóm tắt bài toán đã thành thói quen đối với các em khi làm bài toán giải. Đặc biệt hơn nữa là các em đã không nhầm lẫn ở hai kiểu bài của dạng toán liên quan đến rút về đơn vị. Kết quả thu được của bài kiểm tra trên như sau: Tổng số HS Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 SL TL SL TL SL TL SL TL 17 9 53,% 5 29,4% 3 17,6% 0 Như vậy, so với kết quả của năm học trước ( chưa áp dụng các biện pháp giúp học sinh làm tốt Bài toán liên quan đến rút về đơn vị) thì tôi thấy kết quả đạt được tương đối khả quan, học sinh khá, giỏi chiếm trên 80%, kết quả đó thật đáng khích lệ. 2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM: Qua thực tế giảng dạy và kết quả khảo sát trên, bản thân tôi rút ra một số bài học trong việc giúp học sinh làm tốt bài toán liên quan đến rút về đơn vị như sau: - Trước hết giáo viên phải tích cực học tập, nghiên cứu để trao dồi kiến thức cho bản thân. Trong giảng dạy phải nhiệt tình, tận tâm với học sinh. Dạy học không chỉ chú trọng dạy kiến thức mà còn phải dạy cho các em phương pháp học tập để các em phát triển tư duy. - Muốn dạy tốt dạng toán liên quan đến rút về đơn vị thì trước tiên giáo viên phải giúp học sinh làm tốt các bài toán có lời văn, tức là các em phải nắm được phương pháp giải chung của toán giải. - Dạy dạng toán liên quan đến rút về đơn vị cần hướng dẫn học sinh phân biệt được 2 kiểu bài và các bước giải của mỗi kiểu bài. - Dạy bất kì một dạng toán nào có lời văn ( bài toán giải) đều phải tập cho các em có thói quen tóm tắt đề toán, có như vậy các em mới hiểu được bản chất của bài toán để làm bài. - Giáo viên phải thường xuyên thay đổi hình thức dạy học ở mỗi bài để tránh sự nhàm chán. - Nên động viên, khuyến khích các em đưa ra nhiều cách giải hay, ngắn gon, chính xác, tránh đưa ra tình huống phủ định ngay. - Gần gũi, động viên các em học yếu về môn Toán để các em tự tin hơn trong mỗi tiết học. Trên đây là một số biện pháp “Giúp học sinh lớp 3 làm tốt Bài toán liên quan đến rút về đơn vị”. Tôi mong muốn rằng với các biện pháp tôi đưa ra sẽ áp dụng trong việc dạy dạng toán này có hiệu quả hơn, các em học tập tích cực hơn, nâng cao chất lượng môn toán ở trường Tiểu học nói chung và trường Tiểu học Điền Lư II nói riêng. Sáng kiến của tôi chắc chắn còn nhiều vấn đề cần phải xây dựng. Rất mong nhận được sự đóng góp chân tình của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Điền Lư, ngày 15 tháng 3 năm 2012. NGƯỜI VIẾT: HÀ THỊ HỮU
File đính kèm:
- SKKN_Lop_3.doc