Sáng kiến kinh nghiệm Giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 1

Thực trạng

* Về học sinh

 Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì tuyến kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về rập khuôn, bắt chước.

- Nhiều em còn có hoàn cảnh khó khăn, một số em có bố mẹ đi làm ăn xa nên việc học tập của các em chưa thực sự được quan tâm.

 * Tình hình dạy học toán ở lớp: Qua nghiên cứu cho thấy khi dạy giáo viên và học sinh còn có một số tồn tại sau:

- Vẫn còn một số giáo viên chưa biết cách dạy loại Toán có lời văn. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu.

- Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả.

- Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt.

 - Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề.

 Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học.

- Giáo viên chưa yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán, xem bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì?

- Học sinh còn lúng túng trong phần giải toán: chưa biết điền phần bài toán cho biết vào phần tóm tắt của bài toán. Đặc biệt nhiều em chưa biết viết câu lời giải khi giải bài toán.

 

doc15 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 04/03/2022 | Lượt xem: 880 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t bước đầu biết giải toán có lời văn và trình bày được bài giải. Với mong muốn góp phần nhỏ bé công sức của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Trường Tiểu học, cụ thể hoá định hướng đổi mới phương pháp dạy học ở Nhà trường tiểu học. Đồng thời qua đó để đúc rút những kinh nghiệm thiết thực cho bản thân trong công tác giảng dạy sau này.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng vấn đề giải toán có lời văn của học sinh lớp 1. Nguyên nhân của thực trạng
2.1.1. Thực trạng
* Về học sinh
   Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì tuyến kiến thức “Giải toán  có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về rập khuôn, bắt chước.
- Nhiều em còn có hoàn cảnh khó khăn, một số em có bố mẹ đi làm ăn xa nên việc học tập của các em chưa thực sự được quan tâm. 
 * Tình hình dạy học toán ở lớp: Qua nghiên cứu cho thấy khi dạy giáo viên và học sinh còn có một số tồn tại sau:
- Vẫn còn một số giáo viên chưa biết cách dạy loại Toán có lời văn. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu.
- Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả. 
- Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt.
 - Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề.
   Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học.
- Giáo viên chưa yêu cầu học sinh đọc kỹ bài toán, xem bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì?
- Học sinh còn lúng túng trong phần giải toán: chưa biết điền phần bài toán cho biết vào phần tóm tắt của bài toán. Đặc biệt nhiều em chưa biết viết câu lời giải khi giải bài toán.
 *Về đồ dùng dạy học :
   Tư duy của  học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh hoạ.
   Trong những năm qua, nhà trường đã được cung cấp khá nhiều trang thiết bị và đồ dùng dạy học đồng bộ để dạy cho cả cấp học và những bộ va-li để dạy theo lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”.                   
2.1.2. Qua tìm hiểu tôi rút ra một số nguyên nhân sau:
* Về phía học sinh.
a/ Ưu điểm
- Phần lớn học sinh biết làm bài toán có lời văn. Kết quả của bài toán đúng.
- Học sinh ham học, có hứng thú học tập môn Toán nói chung và “Giải bài toán có lời văn” nói riêng.
- Học sinh bước đầu biết vận dụng bài toán có lời văn vào thực tế.
b/Hạn chế
- Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp.
- Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp.
- Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm được bài.
* Về đồ dùng dạy học :
Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng thiết bị dạy học để minh hoạ.
Trong những năm qua, các trường tiểu học đã được cung cấp khá nhiều trang thiết bị và đồ dùng dạy học cho từng khối lớp nhưng thống kê theo danh mục thì số lượng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu dạy “Giải toán có lời văn”.
* Về giáo viên
Vẫn còn một số giáo viên chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào tư duy vào lề lối dạy học hàng ngày. Một số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy theo phương pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là "thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ". Một số giáo viên còn ngại đầu tư làm thêm đồ dùng dạy học để phục vụ cho tiết dạy, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp trong việc giúp học sinh tìm đường lối giải và giải toán còn khó hiểu.
Vì vậy từ lí do trên tôi quyết định tìm những biện pháp, giải pháp tối ưu nhất để giải tốt bài toán có lời văn ở lớp Một, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp sau: 
2.2. Một số giải pháp rèn kỹ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1:
2.2.1. Nắm bắt nội dung chương trình.
Để dạy tốt môn Toán lớp Một nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách giáo khoa.Trong chương trình toán lớp Một, giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên chưa thể dạy ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến tận tuần 23, học sinh mới được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" song chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài "Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) " ở tuần 7.
Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 35 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng, trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn tranh nêu phép tính" ở đây học sinh được làm quen với việc: 
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lời: "Có 1 quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?" rồi tập nêu miệng câu trả lời: "có tất cả 3 quả bóng", sau đó viết vào dãy năm ô trống để có phép tính: 
1
+
2
=
3
* Dạy "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một.
Quy trình "Giải bài toán có lời văn" thông thường qua 4 bước: 
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm đường lối giải bài toán.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
2.2.2. Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như "thêm, và, tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại ..." (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Một số giáo viên còn gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn.
Trong giai đoạn đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại "Bài toán cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp học sinh ngầm phân tích đề toán.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. 
Ví dụ : Bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (Dưới ao có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? (Trên bờ có 4 con vịt)
- Đàn vịt có tất cả mấy con? (Có tất cả 9 con)
Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ...) lên bảng từ để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán:
- Tóm tắt bằng lời:
Ví dụ 1: Lan : 	3 quyển
 Vy :	2 quyển
 Cả hai bạn có: ... quyển? 
- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ 2: Bài 2 trang 123
 A 5 cm B 3 cm C
 ? cm
- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
Ví dụ 3: 
Có : 
Thêm : 
Có tất cả :.....con thỏ?
Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng theo cột như: 14 quyển và 26 quả
 12 quyển 33 quả
 ... quyển? ... quả?
Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) các em đọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu. 
2.2.3. Tìm đường lối giải bài toán.
Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm.
Chẳng hạn: Nhà An có 5 con gà,mẹ mua thêm 4 con gà.Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?
- Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà)
- Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để được 9 ? (5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp Một, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng.Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối (mấy con gà ?)để có câu lời giải:"Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải:Nhà An có tất cả là: 
Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:"
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. 
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết câu lời giải: "Nhà An có tất cả:"
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v...
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó bàn bạc để chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc học sinh nhất nhất phải viết theo một kiểu.
2.2.4. Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà 
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà").
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết:"5 + 4 = 9 con gà"là sai.Nói cách khác,nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các đơn vị đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1.Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau: 
	5 con gà + 4 = 9 con gà 
	5 + 4 con gà = 9 con gà 
	5 con gà + 4 con gà = 9
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9 thôi.
Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc đơn ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. 
2.2.5. Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác. 
2.3. Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán. 
Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài toán đó: 
Bài toán: Dưới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống.
Hỏi ..........................................................................?
Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Có : 7 hình tròn
Tô màu : 3 hình tròn
Không tô màu : .......... hình tròn?
2.4. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một.
2.4.1. Phương pháp trực quan:
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp Một thường sử dụng phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ  giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn. Từ đó tìm ra đường lối giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán Một có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: Một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan.
2.4.2. Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại):
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối giải, chữa bài làm của học sinh ...
2.4.3. Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này. 
Ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài toán có vấn đề. Chẳng hạn bài toán “bớt” trở thành bài toán tìm số hạng, bài toán “thêm” trở thành bài toán tìm số trừ.
Giáo viên có thể tạo tình huống có vấn đề bằng cách cho sẵn lời giải, học sinh tự đặt phép tính hoặc cho sẵn phép tính học sinh đặt câu lời giải. Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải.
Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như: Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp phổ biến nhất ở các trường Tiểu học hiện nay.
2.5. Kết quả đạt được:
Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng giải bài toán có lời văn nói riêng và chất lượng môn Toán nói chung.
Kết quả đạt được:
Tổng số HS
Số HS giải tốt 
Số HS giải được
Số HS còn hạn chế
21
9
11
0
 Chất lượng giải bài Toán có lời văn của học sinh ngày càng tốt hơn. Học sinh hứng thú hơn với giờ học Toán. 
2.6. Bài học kinh nghiệm:
 - Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào?
 - Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng sử dụng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải toán có lời văn” nói riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan một cách hình thức.
 - Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình thành cho các em một phơng pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy lô gic. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải toán có lời văn”.
 - Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh.
3. phÇn kÕt luËn
3.1.Ý nghĩa của đề tài.
Qua thời gian nghiên cứu tuy không dài nhưng tôi thấy đã tạo không khí chan hòa và yêu thích học giải toán có lời văn ở lớp Một. Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa về “Nâng cao giải toán có lời văn ở lớp 1”. Để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào? . 
- Tôi thấy việc dạy giải toán cho học sinh có vai trò rất quan trọng. Dạy giải toán nhằm củng cố, khắc sâu kiến thức cho các mạch kiến thức khác. Đó là kiến thức về số học, đại lượng, các yếu tố hình họcđồng thời sự tác động trở lại giữa các phần kiến thức đối với giải toán nhằm đặt hiệu quả cao, góp phần hoàn thiện chương trình môn toán. Mặt khác giải toán làm cho học sinh tư duy tích cực linh hoạt, trí tuệ phát triển. Giáo viên cần dẫn dắt học sinh tự tìm tòi cách giải phát huy tích cực trong học toán của học sinh. Mặc dù vậy việc giải toán còn gặp không ít khó khăn. Do đó việc đổi mới phương pháp dạy giải toán có lời văn là vô cùng cần thiết để đạt hiệu quả cao trong việc dạy giải toán, đáp ứng mục tiêu giáo dục hiện nay. Chính vì thế người giáo viên cần học hỏi trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa Bên cạnh đó giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người thầy với nghề nghiệp sẽ mang lại kết quả cao trong giảng dạy, là chiếc chìa khoá vàng tri thức để mở ra cho các em cánh cửa khoa học vì một ngày mai tươi sáng. Đó là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên. 
 Đối với học sinh lớp Một, làm tốt việc dạy “Giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1” sẽ góp phần vô cùng quan trọng để phát triển trí tuệ cho các em một cách tổng hợp. Từ đó các em sẽ có một nền tảng vững chắc để học các môn học khác và tiếp tục học lên các lớp trên .
Song bên cạnh đó, sáng kiến này còn một số hạn chế nhất định :
Các biện pháp trên mới chỉ áp dụng cho học sinh lớp 1 mà tôi đang chủ nhiệm.
 3. 2. Kiến nghị, đề xuất:
 - Đối với giáo viên thực sự coi trọng đầu tư quan tâm hơn nữa vào việc giảng dạy đổi mới phương pháp dạy theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học - thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng tham khảo tài liệu sách báo tập san..
- Đối với trường Tổ chức xây dựng tiết dạy điển hình, thao giảng chuyên đề về Giải toán có lời văn để đồng nghiệp có cơ hội chia sẻ những kinh nghiệm hay về giải toán và PP dạy.
 Những kết quả đạt được của sáng kiến mới chỉ là bước đầu. Bản thân tôi hi vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu để khắc phục những hạn chế và mở rộng phạm vi ứng dụng của sáng kiến. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chuyên môn, đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này.
Xin chân thành cảm ơn !
 Lệ Thủy, ngày 11 tháng 5 năm 2017

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giai_toan_co_loi_van_cho_hoc_sinh_lop.doc
Sáng Kiến Liên Quan