Sáng kiến kinh nghiệm giải pháp Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi hứng thú làm quen với số lượng
Thế giới xung quanh rất phong phú, đa dạng và hấp dẫn mà trẻ em lại được sinh ra và lớn lên giữa thế giới của những sự vật và hiện tượng đa dạng đó. Chính vì vậy mà việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường số lượng là một trong những bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non. Nhờ cho trẻ làm quen với môi trường số lượng đã góp phần hình thành ở trẻ những biểu tượng đúng đắn về các sự vận hiện tượng, cung cấp cho trẻ những tri thức đơn giản có hệ thống về tập hợp, con số, phép đếm Đồng thời việc hình thành các biểu tượng toán học cho trẻ mầm non còn có tác dụng hình thành cho trẻ những khả năng tìm tòi, quan sát . thúc đẩy sự phát triển tư duy, phát triển ngôn ngữ ở trẻ do đó các giác quan của trẻ cũng phát triển và khả năng cảm nhận nhanh nhạy chính xác, tư duy của trẻ có điều kiện phát triển, giúp trẻ làm giàu vốn từ, phát âm chính xác và diễn đạt mạch lạc những suy nghĩ của mình. Từ đó trẻ trở nên có tổ chức, có kỷ luật, biết chú ý lắng nghe và ghi nhớ, tích cực và độc lập giải quyết nhiệm vụ được giao đúng thời gian qui định Việc dạy học những kiến thức toán học sơ đẳng cho trẻ nhất là số lượng không chỉ góp phần phát triển các năng lực nhận biết, năng lực học tập cho trẻ mà còn góp phần giáo dục toàn diện nhân cách cho trẻ.
Trong thực tế hiện nay đa số các trường học nhất là trường mầm non đã chú ý hơn đến việc tạo môi trường toán, môi trường số lượng trong trường lớp học, còn các cô chú ý hơn đến việc nâng cao trình độ chuyên môn, chất lượng hướng dẫn giảng dạy và trang bị học liêu, vật liệu trong các hoạt động với toán của trẻ. Mà việc cho trẻ làm quen với số lượng không chỉ giúp trẻ nhận biết được số lượng, ngôn ngữ tích cực mà còn phân biệt và nắm được tên gọi của các nhóm đồ vật, các âm thanh Chính vì vậy mà việc tạo cho trẻ hứng thú tìm hiểu khám phá số lượng trên tiết học và các hoạt động của trẻ là vô cùng quan trọng. Nếu tổ chức không tốt, cô thiếu kiến thức hiểu biết, chuẩn bị không tốt thì việc tạo hứng thú, cho trẻ tìm đoán các câu hỏi “Bao nhiêu?”, “Như thế nào?”, “Nhóm nào nhiều hơn, nhóm nào ít hơn? nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của trẻ là rất khó khăn. Hơn thế nữa hoạt động của trẻ là “Chơi mà học, học mà chơi” phải tổ chức làm sao cho trẻ phát huy hết tính tích cực độc lập sáng tạo ở trẻ.
các cháu, các đồ chơi được nhân cách hóa và chuyển động được càng tốt. 2. Biện pháp 2: Hình thành các biểu tượng về tập hợp cho trẻ. - Dạy trẻ nhận biết và tạo nhóm vật theo 1 dấu hiệu chung, sử dụng các nhóm vật giống nhau và chỉ cho trẻ dấu hiệu chung của nhóm vật. Ví dụ: Ở trên bảng cô gắn những hình gì? Màu gì? Có dạng hình gì? Tất cả hình trong nhóm đều là hình tròn. Tất cả hình trong nhóm đều là hình tròn màu đỏ + Cho trẻ thực hành tạo nhóm vật theo dấu hiệu chung. Ví dụ: Nhặt tất cả gia cầm, toàn bộ con vật nào thuộc nhóm gia cầm ra ngoài cho cô, toàn bộ những gia cầm + Biểu thị một tập hợp trọn vẹn (hình dạng, màu sắc). Ví dụ: Con vừa nhặt những hình gì vậy? Con vừa nhặt tất cả những hình tròn Các bài luyện tập nhóm đồ vật theo dấu hiệu chung cần được phức tạp dần, tiếp theo trẻ sẽ có thao tác với nhóm vật có 2,3 dấu hiệu khác nhau như: Màu sắc và hình dạng, hình dạng và kích thước. Tuy nhiên trẻ chỉ tạo nhóm theo 1 dấu hiệu Hình ảnh 2: Tiết học dạy trẻ nhận biết và tạo nhóm vật theo 1 dấu hiệu chung. - Dạy trẻ tạo nhóm vật theo 2 dấu hiệu chung [hình dạng (tên gọi), màu sắc] Ví dụ: Nhặt tất cả các bông hoa màu đỏ ra ngoài - Dạy trẻ tạo nhóm vật theo 3 dấu hiệu chung [hình dạng (tên gọi), màu sắc, chất liệu] phải chú ý cùng lúc 3 dấu hiệu. Đòi hỏi giáo viên giúp cháu chú ý lắng nghe: Chú ý ghi nhớ có chủ dịnhđược phát triển đồng thời và phát triển khả năng định hướng cùng một lúc nhiều dấu hiệu. Ví dụ: Nhặt tất cả các đồ dùng để uống màu đỏ có hình mặt trời ra ngoài cho cô Khi giao nhiệm vụ cho trẻ giáo viên nên sử dụng những từ nhấn mạnh ý nghĩa “trọn vẹn” của tập hợp như: “Chọn hết”, “Chọn tất cả”, “Chỉ toàn”, “điều là”. Hướng trẻ sử dụng các từ đó khi nhận xét nhóm vật vừa tạo “Cháu chọn tất cả những hình tròn màu đỏ”. Tóm lại tăng cường độ khó có tác dụng ở trẻ khả năng chú ý ghi nhớ có chủ định, khả năng định hướng cùng một lúc nhiều dấu hiệu. 3. Biện pháp 3: Dạy trẻ tìm các nhóm vật có số lượng 1 và nhiều. Việc dạy trẻ tìm một và nhiều có tác dụng dạy trẻ hình dung tất cả các vật cùng loại vào một thể trọn vẹn ngay cả khi các vật đó ở các vị trí khác nhau trong không gian. - Trong hoàn cảnh đặt sẵn (xếp đặc các đối tượng nằm trong tầm nhìn của trẻ) cho trẻ quan sát tìm vật có số lượng 1 sau đó tìm nhiều vật. Ví dụ: Con hãy đặt 1 con thỏ ở hàng trên và nhiều con mèo ở hàng dưới. Sau khi trẻ thực hiện xong nhiệm vụ, thông qua các câu hỏi của cô mà trẻ phản ánh bằng lời tên gọi (cái gì), số lượng (có bao nhiêu) và vị trí sắp đặc của các nhóm vật (ở đâu). - Tìm 1 và nhiều vật trong hoàn cảnh tự nhiên không có sự sắp đặt sẵn. Ví dụ: Các bé hãy nhìn xung quanh lớp tìm đồ vật đồ chơi có số lượng 1. Nhưng nhiều thì khó vì khả năng khái quát theo dấu hiệu chung của trẻ còn hạn chế. Bởi thế chúng ta nên hướng sự chú ý của trẻ vào đối tượng. Ví dụ: Con nhìn ở trước mặt xem cái nào có nhiều (nhiều bàn, nhiều ghế, nhiều bạn). Con nhìn xung quanh lớp xem có những đồ chơi nào có nhiều. Bằng các câu hỏi gợi mở giáo viên hướng sự chú ý của trẻ đén các góc khác nhau của lớp học. Ví dụ: Các bé hãy nhìn trong lớp, nhìn trên tường, trên kệ đồ chơi, trên cửa sổ xem cái gì có nhiều và cái gì có 1. Ngoài tiết học, giáo viên nên cho trẻ thực hiện các bài luyện tập như vậy ở mọi lúc, mọi nơi, trong lúc chơi ở sân trường, trong lúc tập thể dục Ví dụ: Bằng các câu hỏi như: Các bé nhìn xem trong sân trường có bao nhiêu cái đu quay? Bao nhiêu cái cầu trượt Hình ảnh 3: Bé học về số lượng khi chơi ở sân trường. Giáo viên phát triển ở trẻ hứng thú nhận biết số lượng các nhóm đồ vật có ở xung quanh trẻ, nhờ vậy hình thành và phát triển dần cho trẻ khả năng trừu tượng hóa khía cạnh số lượng khỏi những tính chất và đặc điểm khác của đối tượng. 4. Biện pháp 4: Dạy trẻ các biện pháp so sánh số lượng bằng thiết lập tương ứng 1:1. Trên cơ sở trẻ đã có biểu tượng về tập hợp trọn vẹn, biết phản ánh số lượng của chúng bằng các từ: Một, nhiều, trẻ đã có kỹ năng phân tích dấu hiệu chung của nhóm vật thì giáo viên bắt đầu dạy trẻ nhận biết mối quan hệ số lượng giữa các nhóm và diễn đạt mối quan hệ số lượng đó bằng lời nói như: Nhiều hơn, ít hơn, bằng nhau. - Dạy trẻ so sánh số lượng bằng 2 biện pháp: Xếp chồng và xếp cạnh. Dạy trẻ xếp chồng trước, xếp cạnh sau. * Cách dạy: Bước 1: Giáo viên dạy trẻ nắm được mục đích của các biện pháp so sánh. Coa thể so sánh bằng xếp chồng (hay xếp cạnh) dùng để so sánh số lượng của 2 nhóm vật. Dạy trẻ so sánh bằng hành động mẫu kết hợp với giảng giải. Ví dụ: + Trên bàn cô có nhóm nồi và nhóm bếp. + Muốn so sánh cô xếp nhóm bếp ra thành hàng. + Đặt từ trái sang phải. + Cô cầm tay phải lấy từng cái nồi đặt lên từng cái bếp đặc từ trái qua phải. Bước 2: Cho trẻ thực hành so sánh để hình thành kỷ năng so sánh (Bằng xếp chồng hay xếp cạnh). - Để hình thành thao tác đúng cho trẻ chúng ta nên hỏi trẻ các câu hỏi như: Con xếp bếp, nồi bằng tay nào? Xếp như thế nào? Con xếp được bao nhiêu bếp?. - Dùng hệ thống câu hỏi để hướng trẻ vào mối quan hệ giúp trẻ nhận biết số lượng. Ví dụ: So sánh xem số bếp như thế nào với số nồi? - Chúng ta có thể dùng hệ thống câu hỏi giúp trẻ nắm thủ thuật xác định mối quan hệ số lượng giữa 2 nhóm vật. Bước 3: Cũng cố bằng hệ thống bài tập so sánh, hệ thống bài tập tuân thủ các bước. + Số lượng so sánh từ ít đến nhiều. + Độ chênh lệch số lượng của 2 nhóm từ nhiều đến ít. + So sánh 2 nhóm số lượng gần nhau đến 2 nhóm xa nhau Ví dụ: + So sánh 2 nhóm hình tròn và vuông trong rổ của con. + So sánh số hình tròn trên bảng của cô và số hình vuông trong rổ của con. - So sánh số lượng các nhóm vật gồm những vật giống nhau đến những vật khác nhau. Ví dụ: Trẻ bỏ qua những dấu hiệu riêng chỉ chú ý đến những dấu hiệu chung. - So sánh các nhóm số lượng xếp theo hàng ngang và xếp theo các cách khác nhau. - So sánh số lượng các nhóm vật với số lượng các nhóm âm thanh, chuyển động. Ví dụ: So sánh số lượng vật với số tiếng vỗ tay hay so sánh số lượng các nhóm vật chuyển động trên màn hình đèn chiếu Trẻ cần có khả năng ghi nhớ chú ý có chủ định Bước 4: Cho trẻ ứng dụng kiến thức kỹ năng. Bằng nhiều hình thức khác nhau giáo viên có thể tổ chức mọi lúc mọi nơi, trong hoạt động vui chơi. Ví dụ: Như chơi xây dựng nhà, so sánh số bạn chơi và số nhà. So sánh số lượng cần chú ý đến cách sử dụng từ toán học của trẻ khi nói. Những kiến thức kỷ năng mà trẻ thu được trên tiết học cần được ứng dụng vào thực tiễn cuộc sống hằng ngày của trẻ trong trường mầm non. Ví dụ: Khi chơi, hay khi học trẻ phải chuẩn bị đồ chơi, đồ dùng học tập cho các bạn trong nhóm sao cho mỗi bạn có một rổ đồ chơi, hay khi chuẩn bị giờ cơm, giờ ngủ Nếu bị nhầm lẫn thì trẻ sẽ lấy thêm vật bị thiếu hay cất bớt vật thừa Hình ảnh 4: Giờ chơi góc. 5. Biện pháp 5: Làm quen cách đếm và nói chính xác kết quả đếm. Việc dạy cho trẻ đếm cần bắt đầu bằng việc làm cho trẻ hiểu được mục đích hoạt động đếm của con người: Xác định số lượng của một nhóm đối tượng. Chỉ số lượng luôn trả lời cho câu hỏi có mấy? Có bao nhiêu? Đối với trẻ 3 - 4 tuổi lứa tuổi này chúng ta chỉ cần cho trẻ làm quen cách đếm được tổ chức ở mọi lúc mọi nơi trong các hoạt động của trẻ. Quy trình hệ thống bài tập đếm nhận biết số lượng cho trẻ mầm non: Đếm ít số lượng đến nhiều, đếm các nhóm vật xếp theo hàng ngang đến xếp theo nhiều cách khác nhau. VD: có mấy hình tròn (ta nên dạy trẻ đếm dùng tay). Đếm gồm những vật giống nhau (có bao nhiêu cái bánh tròn trong rổ) đến đếm những vật khác nhau (có bao nhiêu cái bánh trong rổ - trẻ bỏ qua sự giống nhau) phát triển mở rộng biểu tượng tập hợp cho trẻ. Cho trẻ đếm gần đến đếm xa. Đếm số lượng các vật đến đếm các âm thanh, các vật chuyển động Giáo viên cần tạo tình huống hứng thú cho trẻ ứng dụng các kiến thức kỹ năng đếm đã học để xác định số lượng của các nhóm vật trong các tình huống cần thiết, qua đó kỷ năng đếm của trẻ được cũng cố và phát triển hơn. 6. Biện pháp 6: Tổ chức tích hợp các họat động khác. * Khám phá khoa học: Trong những lúc tổ chức cho trẻ quan sát tìm kiếm đối tượng giáo viên có thể đặc các câu hỏi cho trẻ so sánh tìm kiếm số lượng. Ví dụ: Con nhìn xem có bao nhiêu trái có vị ngọt, trong giỏ của cô có bao nhiêu quả có dạng dài * Làm quen văn học, Giáo dục âm nhạc: Bằng các bài thơ, câu chuyện, câu đố, tục ngữ, ca dao và các bài hát có số lượng cô giúp cá cháu học đếm và cũng cố hiểu biết về số lượng. Ví dụ: Bài hát tập đếm, năm ngón tay ngoan các cháu học cách đếm thêm, biết trên bàn tay mình có năm ngón tayhay bài hát 5 con vịt vừa hát các cháu nhớ và đếm được số lượng vịt con đi lạc, số vịt con về nhà được... Hình ảnh 5: Tiết âm nhạc tích hợp với số lượng. * Hoạt động tạo hình: - Vẽ (nặn, xé, dán) sáng tạo: Sau khi cho các cháu học quan sát các cây, hoa, quả, cô kích thích hứng thú sáng tạo của trẻ bằng cách yêu cầu trẻ vẽ (nặn, xé, dán) lại những cây, hoa, quả cháu thích, cô động viên khích lệ trẻ tích cực họat động sáng tạo. - Vẽ (nặn) bổ sung: Cô vẽ (nặn) trước 1-2 đồ vật, yêu cầu cháu vẽ (nặn) thêm sao cho đúng số lượng cô yêu cầu Hình ảnh 6: Trẻ nặn theo số lượng cô yêu cầu. Ví dụ: Cô vẽ sẵn một quả hỏi trẻ cô vẽ hình gì vậy? Có bao nhiêu quả? Cô muốn có 3 quả thì mình làm gì? Các bạn vẽ thêm cho đủ 3 quả giúp cô nào. 7. Biện pháp 7: Phối hợp với phụ huynh. Để làm tốt các biện pháp trên, ngoài sự nỗ lực của bản thân còn rất cần đến sự đồng tình, ủnh hộ cả về tinh thần lẫn vật chất của phụ huynh: - Tuyên truyền kiến thức nội dung học tập của các cháu lên bảng tuyên truyền và những nội dung cần sự hỗ trợ của phụ huynh. - Gặp gỡ trao đổi trực tiếp với phụ huynh về vấn đề nhận thức của các cháu để phụ huynh tạo điều kiện cho các cháu được rèn luyện thêm ở nhà. Ví dụ: Sau mỗi lần chơi đồ chơi, cùng xem truyện tranh với con, phụ huynh cùng đố con đồ chơi nào con có nhiều, con đếm thử xem có bao nhiêu chú heo trong câu chuyện mẹ con mình vừa xem, khuyến khích con nhận xét và tập tư duy, tập đếm - Vận động sự ủng hộ của phụ huynh bằng vật chất: Các học cụ dạy học cho các chủ đề (Các đồ chơi cũ, các con rối, thú nhồi bông, cây hoa bổ sung thêm học cụ cho các cháu chơi, so sánh và tập đếm). Hình ảnh 7: Một số đồ dùng đồ chơi do phụ huynh ủng hộ. - Cùng phụ huynh rèn thêm cho những cháu còn yếu, giúp những cháu này hiểu biết nhiều hơn, không còn lúng túng bỡ ngỡ khi trả lời câu hỏi của cô và bạn. 8. Biện pháp 8: Bổ sung kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Để giảng dạy đạt kết quả tốt làm quen về số lượng cho trẻ thì bản thân tôi phải luôn luôn tự bồi dưỡng cho mình những kiến thức khoa học về toán học theo hình thức đổi mới, giúp trẻ hứng thú và tự tin tham gia vào các hoạt động với toán, phát huy tốt khả năng toán của trẻ cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất phải tham mưu với nhà trường, phát động phụ huynh mua sắm đồ dùng phục vụ trong các tiết dạy. Bản thân tôi cũng phải tự sưu tầm, làm đồ dùng phục vụ cho các tiết dạy như que tính hột hạt các con vật, hình hộp, tranh ảnh Để dạy trẻ có chất lượng thì bản thân tôi cũng phải tự bồi dưỡng học tập để có kiến thức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Cần quan tâm đến kiến thức cá nhân trẻ để có kế hoạch bồi dưỡng, uốn nắn, phát huy tích cực khả năng nhận biết của trẻ. Giáo viên phải có khả năng dạy trẻ tập hợp về số lượng gây hứng thú hoạt động cho trẻ. Tổ chức hoạt động với nhiều hình thức thay đổi: Sử dụng câu đố, thơ, truyện, trò chơi, bài hát, hoạt động vui chơi trên máy Kisdmart. Cần phải biết động viên khuyến khích trẻ, gần gũi trẻ. - Qua tham khảo tài liệu giảng dạy, sách báo, thông tin mạng các bài tập trò chơi về số lượng cho trẻ thực hành. - Nghiên cứu sưu tầm, sáng tác ra các bài thơ, câu đố, đồng dao, bài hát, trò chơi về các chủ đề có số lượng để lồng ghép vào trong tiết dạy, hoạt động và vui chơi cho các cháu. - Dự giờ học tập kinh nghiệm ở các đồng nghiệp bạn các hình thức tổ chức cho các cháu nhằm thu hút hứng thú tìm tòi phát hiện các nhóm số lượng xung quanh trẻ. Ví dụ: Tôi học hỏi cách truyền đạt, cách hướng dẫn tổ chức cho các cháu quan sát, thủ thuật thu hút sự chú ý của các cháu khi đàm thoại, trò chuyện với cô về số lượng... Hình ảnh 8: Hình ảnh SHCM chuyên đề toán. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Sau khi áp dụng những biện pháp trên, sau một thời gian thực hiện đến nay tôi đã được một số kết quả đánh giá cụ thể như sau: * Đối với trẻ: (Phiếu 2: Kết quả tổng hợp cuối năm) Qua bản thống kê ta thấy được khả năng nhận biết về tập hợp số lượng của trẻ học trong chương trình đạt tỉ lệ cao hơn so với đầu năm. - Các cháu trong lớp nhận thức tương đối đều, các cháu tích cực mạnh dạn, biết nhận xét, nói chính xác các kết quả của các nhóm số lượng. * Đối với cô: - Tạo được môi trường giáo dục ở nhóm lớp tốt cho trẻ hoạt động. - Tận dụng các nguyên vật liệu sẵn có, dễ tìm để tạo ra nhiều loại đồ dùng phong phú, đa dạng, sử dụng có hiệu quả trong việc tổ chức cho trẻ hoạt động nói chung và trẻ làm quen với toán. - Giáo viên nắm vững thêm về phương pháp cho trẻ làm quen với toán, phong phú trong tư duy về hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với toán. - Nâng cao được hiệu quả tuyên truyền về môn toán học với phụ huynh của lớp. V. BÀI HỌC KIMH NGHIỆM. Qua thời gian giảng dạy và hướng dẫn các cháu học làm quen với số lượng bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân như sau: - Trước hết giáo viên phải nắm vững kiến thức, phương pháp tổ chức hướng dẫn họat động cho trẻ trên tiết học toán số lượng cũng như các hoạt động khác ngoài giờ. + Cô hiểu và nắm được tâm lý, trình độ nhận thức của từng cháu để đặt câu hỏi và khuyến khích cháu tích cực hoạt động. + Tổ chức các hoạt động linh hoạt nhẹ nhàng, lôi cuốn thu hút sự tập trung chú ý, hứng thú của các cháu... - Bản thân giáo viên phải tự học tập nâng cao trình độ hiểu biết về toán học (những thông tin trong sách báo, truyền thông, kiến thức về tin học.) để tự lập trình trên máy các nội dung bài dạy, bài tập cho các cháu được thực hành, được chơi với các tập hợp số lượng, để cung cấp những kiến thức cho trẻ chính sát, kịp thời - Bản thân giáo viên phải biết vận dụng điều kiện thực tế để tổ chức cho trẻ hoạt động học tập: Môi trường, sân vườn, tivi, băng hình ... - Bản thân giáo viên phải biết nâng cấp đồ dùng, đồ chơi, các bài tập của lớp để làm sao cho các trẻ chơi, hoạt động không bị nhàm chán mà trẻ luôn được tìm tòi khám phá cái mới. - Giáo viên phải có sự phối hợp tốt giữa nhà trường và phụ huynh để tạo mọi điều kiện tốt nhất cho các cháu được hoạt động học tập, tìm hiểu về các biểu tượng số lượng. - Tổ chức lồng ghép các bộ môn linh hoạt nhẹ nhàng vào tất cả các hoạt động trong ngày cho trẻ, tạo cảm giác cho trẻ lúc nào cũng muốn hoạt động với các đồ vật, được đếm, được so sánh. Từ đó nghiên cứu sọan giáo án tốt, tổ chức tiết học hình thức nhẹ nhàng linh họat lôi cuốn sự tập trung chú ý của các cháu vào họat động. - Tác phong cô nhẹ nhàng, gần gũi, yêu thương, hiểu biết tâm lý các cháu, trình độ của từng cháu để đặt câu hỏi khuyến khích cháu tích cực họat động. - Trong họat động cô luôn linh họat tạo tình huống thu hút sự tập trung chú ý hứng thú của các cháu. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ. I. KẾT LUẬN. Qua quá trình nghiên cứu tài liệu và thực hành tổ chức các hoạt động cho các cháu làm quen với số lượng, tôi rút ra được một số kết luận sau: Để các cháu 3 – 4 tuổi làm quen với số lượng, phát huy hết khả năng nhận thức của trẻ về số lượng, giúp các cháu có những biểu tượng đúng đắn về các tập hợp số lượng, cung cấp cho các cháu những tri thức đơn giản về biểu tượng số lượng,thì trước hết bản thân giáo viên phải luôn cố gắng rèn luyện trang bị cho mình những kiến thức, nội dung, phương pháp, biện pháp dạy trẻ hình thành biểu tượng số lượng, nâng cao kiến thức hiểu biết khoa học về toán học. Bản thân học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp, sách báo, thông tin mạng, dự giờlàm giàu thêm vốn kinh nghiệm bản thân và phải biết tự sưu tầm và soạn các bài tập, trò chơi học tập góp phần làm phong phú hơn các biện pháp dạy trẻ hình thành biểu tượng số lượng Cần phải tổ chức cho trẻ tham gia tích cực vào tất cả các hoạt động trong ngày, khuyến khích trẻ tìm tòi phát hiện cùng bạn bè các nhóm số lượng ở xung quanh, trẻ sẽ cảm thấy gắn bó với trường lớp, quan tâm đến mọi người, đến xung quanh và có thái độ tốt trong học tập, có tư duy cao Cần tăng cường hơn nữa việc trang bị cho trường lớp cơ sở vật chất để các cháu vui chơi học tập. II. KIẾN NGHỊ. Sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến sau: * Với PGD và ĐT huyện Gia Lâm. - Phòng giáo dục tiếp tục tổ chức nhiều chuyên đề về toán với những hình thức hấp dẫn, mới lạ để giáo viên trong huyện được học tập. * Với nhà trường. - Cần tổ chức cho giáo viên tham gia học tập, trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp ở trong trường và trường bạn để củng cố về phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển cho trẻ. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng tại lớp trong việc giúp trẻ hứng thú làm quen với số lượng. Bước đầu đã thu được một số kết quả đáng kể như đã trình bày ở trên. Song trong quá trình thực hiện vẫn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong sự giúp đỡ và góp ý kiến của Hội đồng khoa học Nhà trường, Hội đồng thi đua cấp trên, cùng bạn bè đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn. Xin trân thành cảm ơn! PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO. Giáo dục mầm non Đào Thanh Âm - Nhà xuất bản Đại Học Sư Phạm năm 2002. Tâm lý học trẻ em Ngô Công Hoàn - Trường Cao Đẳng Sư Phạm Nhà Trẻ Mẫu Giáo TWI năm 1995. Hướng dẫn thực hiện chương trình đổi mới hình thức tổ chức họat động giáo dục trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi Tiến sĩ Phạm Thị Mai Chi - Bộ giáo dục đào tạo năm 2003. Phương pháp hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non -TS. Đỗ Thị Minh Liên - Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội năm 2004. Phương pháp hình thành biểu tượng toán cho trẻ Mầm Non - Trịnh Minh Loan, Đào Như Trang - Vụ giáo viên 1998. Rèn luyện năng lực vận động kiến thức dạy toán cho trẻ mẫu giáo - Lê Thị Nga, Trương Xuân Huệ - NXB Thành phố Hồ Chí Minh. PHỤ LỤC STT NỘI DUNG KHẢO SÁT Số trẻ Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỉ lệ (%) Số trẻ Tỉ lệ (%) 1. Khả năng tri giác và so sánh số lượng nhóm vật nhận biết những dấu hiệu chung của nhóm (màu sắc, kích thước, hình dạng). 34 16 47 18 53 2. Khả năng tạo các nhóm vật, so sánh số lượng và diễn đạt kết quả so sánh bằng lời (một - nhiều, ít hơn nhiều hơn). 18 53 16 47 3. Khả năng tìm các dấu hiệu chung và riêng của các nhóm nhỏ trong nhóm lớn (tách nhóm nhỏ ra từ nhóm lớn). 17 50 17 50 4. Khả năng tìm một và nhiều vật trong môi trường xung quanh 13 38 21 62 5. Khả năng biết cách so sánh số lượng các nhóm vật bằng cách thiết lập quan hệ 1:1 (xếp chồng, xếp cạnh) và diễn đạt mối quan hệ bằng lời. 12 35 22 65 6. Khả năng đếm và nói chính xác kết quả đếm. 11 32 23 68 Phiếu 1: Khảo sát đầu năm. Phiếu 2: Kết quả tổng hợp cuối năm. STT NỘI DUNG KHẢO SÁT SỐ TRẺ ĐẦU NĂM CUỐI NĂM Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỉ lệ (%) Số trẻ Tỉ lệ (%) Số trẻ Tỉ lệ (%) Số trẻ Tỉ lệ (%) 1. Khả năng tri giác và so sánh số lượng nhóm vật nhận biết những dấu hiệu chung của nhóm (màu sắc, kích thước, hình dạng). 34 16 47 18 53 30 88 4 12 2. Khả năng tạo các nhóm vật, so sánh số lượng và diễn đạt kết quả so sánh bằng lời (một - nhiều, ít hơn nhiều hơn). 18 53 16 47 29 85 5 15 3. Khả năng tìm các dấu hiệu chung và riêng của các nhóm nhỏ trong nhóm lớn (tách nhóm nhỏ ra từ nhóm lớn). 17 50 17 50 30 88 4 12 4. Khả năng tìm một và nhiều vật trong môi trường xung quanh 13 38 21 62 28 82 6 18 5. Khả năng biết cách so sánh số lượng các nhóm vật bằng cách thiết lập quan hệ 1:1 (xếp chồng, xếp cạnh) và diễn đạt mối quan hệ bằng lời. 12 35 22 65 28 85 6 18 6. Khả năng đếm và nói chính xác kết quả đếm. 11 32 23 68 27 79 7 21 Hình ảnh 2 MỘT SỐ ẢNH MINH HỌA Hình ảnh 1 Hình ảnh 4 Hình ảnh 3 Hình ảnh 6 Hình ảnh 5 Hình ảnh 8 Hình ảnh 7
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_mot_so_bien_phap_giup_tre_3.doc