Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử 12 thông qua việc kết hợp văn học để gây hứng thú cho học sinh

I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Nhiều năm qua trên thực tế việc đổi mới dạy và học luôn được diễn ra thường

xuyên. Nhưng hiệu quả đến đâu chưa ai khẳng định được, nhưng những bất cập đi

kèm là điều có thực. Những yếu kém của ngành giáo dục, đặc biệt trong những năm

gần đây bộc lộ khá rõ trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng. Biểu

hiện nỗi bật của việc giảm sút chất lượng bộ môn là tình trạng coi thường, nhớ nhầm

sự kiện, không hiểu lịch sử, không vận dụng bài học kinh nghiệm quá khứ vào rèn

luyện đạo đức, phẩm chất, quan điểm tư tưởng, thi cử chất lượng rất thấp.

Nghị quyết 40/2000QH10 đã khẳng định mục tiêu đổi mới chương trình giáo

dục phổ thông là “xây dựng nội dung chương trình và phương pháp giáo dục nhằm

nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ. Đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn

nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với thực tế và

truyền thống Việt Nam”

Thực tế hiện nay các em coi nhẹ bộ môn lịch sử. kiến thức môn lịch sử của các

em rất hời hợt, không chính xác, thiếu hệ thống. Nguyên nhân đưa tới tình trạng này

có nhiều: quan niệm không đúng về vị trí, chức năng, nhiệm vụ bộ môn Lịch sử

trong đào tạo thế hệ trẻ, cho là môn phụ, tác động mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,

những thiếu sót trong công tác đào tạo bồi dưỡng giáo viên Một trong nhiều

nguyên nhân đó ít nhiều thuộc trách nhiệm của người dạy.

Qua giảng dạy giáo viên cần cho các em học sinh thấy được vị trí, tác dụng của

bô môn Lịch sử là một môn khoa học. Cần phải có sự học tập và nghiên cứu nghiêm

túc mới nắm vững được kiến thức. Giáo viên cần có cách giảng dạy tốt để khơi dậy

hứng thú, phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Trong khi đó đối tượng học

tập của lịch sử là những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ. Đối tượng nhận thức

không có trước mắt, hơn nữa chúng ta không thể tái diễn lại các sự kiện. Vì vậy việc

nhận thức lịch sử bao giờ cũng khó khăn, học sinh dễ nhàm chán, không hứng thú

môn học

pdf17 trang | Chia sẻ: myhoa95 | Lượt xem: 2565 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử 12 thông qua việc kết hợp văn học để gây hứng thú cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Mùi 6 
thường liên tưởng đến những bài thơ, áng văn đã từng đề cập đến sự kiện đó, con 
người đó mà chúng ta từng được đọc, được học. Trong thực tế, có không ít người vừa 
là nhà Văn, nhà Thơ đồng thời là nhà Sử học mà Bác Hồ kính yêu của chúng ta là 
một ví dụ điển hình. Chính Người đã từng dạy rằng: 
Dân ta phải biết sử ta 
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam 
1.2. Thực tiễn Dạy - Học Lịch sử ở trường Phổ thông trong những năm gần đây. 
“ Lịch sử là sự kiện”. Đó là một tổng kết mang tính chất kinh điển. Bản thân 
những sự kiện lịch sử vốn đã khô khan, nhất là những bài, những chương viết về các 
trận đánh có rất nhiều những con số về ngày, tháng, năm xảy ra sự kiện hoặc những 
số liệu về các thành tựu đã đạt được trên mọi lĩnh vực. Để chuyển tải cho học sinh 
những số liệu một cách khô cứng như vậy, đòi hỏi người giáo viên phải linh hoạt và 
sáng tạo trong việc sử dụng phương pháp. Thực tế cho thấy, trong những năm gần 
đây, giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở cấp THPT nói chung vẫn giảng dạy một cách 
khô khan, cứng nhắc, nặng về cung cấp kiến thức, sự kiện một cách đơn thuần, do 
vậy không gây được hứng thú học tập cho học sinh trong việc tiếp thu bài học. Mặt 
khác một số giáo viên chỉ biết bám vào sách giáo khoa một cách lệ thuộc, truyền thụ 
kiến thức đơn thuần theo phương pháp “đọc - ghi”, làm cho tiết học trở nên khô khan 
đối với học trò. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính làm cho học sinh 
chưa thích học bộ môn Lịch Sử. 
 Từ thực tế đó tôi đã có điều kiện dự giờ nhiều của đồng nghiệp bộ môn văn học. 
Qua dự giờ, tôi đã rút ra được một kinh nghiệm mà bản thân tôi cho là rất quý giá. Đó 
là: khi áp dụng kiến thức thơ, văn vào việc giảng dạy Lịch sử rất gây hứng thú cho 
học sinh trong việc tiếp thu bài. Từ kinh nghiệm này, tôi đã mạnh dạn đưa thơ, văn 
vào trong bài giảng nhằm minh họa cho một số sự kiện Lịch sử trong bài dạy. Những 
tiết học như vậy trở nên sinh động hẳn. Khi cô giáo đọc thơ minh hoạ, cả lớp chăm 
chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học, nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để 
chép vào sổ tay. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng 
lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em 
sâu hơn, lâu hơn. Tôi đã thể nghiệm nhiều lần dạy hai cách ở 1 tiết học: một là “giảng 
chay”- nghĩa là không vận dụng kiến thức thơ văn, hai là có vận dụng kiến thức thơ 
văn vào trong tiết dạy thì thấy chất lượng hai tiết dạy hoàn toàn khác nhau, kể cả tâm 
lý, hứng thú của người dạy cũng hoàn toàn khác nhau. 
Có thể nói, nền văn học nước ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, sứ mệnh của 
nó: phản ánh hiện thực, đặc biệt là Văn học hiện đại. Cách mạng tháng Tám năm 
1945 đã đổi đời cho không biết bao nhiêu nhân tài văn học. Hai cuộc kháng chiến 
chống Pháp và chống Mỹ vĩ đại lại đem tới cho họ nguồn cảm hứng vô tận để họ kịp 
thời đưa những sự kiện Lịch sử hào hùng của dân tộc lên trang giấy. Trong số đó phải 
kể đến hai cây đại thụ. Đó là lãnh tụ Hồ Chí Minh kính yêu và nhà thơ lớn Tố Hữu. 
Tôi xin phép không liệt kê ra đây những tác phẩm, công trình đồ sộ của họ. 
2 . Cơ sở thực tiễn. 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 7 
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 12 Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu. 
2.2. Thực trạng trước khi thực hiện đề tài: 
2.2.1 Thuận lợi: 
Lịch sử chính là cuộc sống. không có gì đẹp hơn khi cuộc sống được xây dựng 
bằng lao động và đấu tranh. Trong lịch sử chúng ta thấy gương mặt của quá khứ, hình 
ảnh của hiện tại và bước phát triển của tương lai. Các em tìm thấy trong lịch sử 
những tấm gương sáng chói về lao động và đấu tranh. Những bài học quý giá cho 
cuộc sống hôm nay và ngày mai. 
Bộ môn lịch sử có nhiều ưu thế trong việc giáo dục thế hệ trẻ, gây cho các em sự 
hứng thú thực sự. các em tìm thấy trong quá khứ nhiều câu trả lời xác đáng thú vị cho 
ngày nay. 
2.2.2 Khó khăn: 
Do quan niệm của một số người cho rằng: học sử chỉ cần nhớ, chứ không cần suy 
nghĩ, chính quan niệm sai lầm này đã làm tê liệt sự sáng tạo và hứng thú học tập bộ 
môn lịch sử của học sinh. 
Xã hội còn xem nhẹ các môn khoa học xã hội trong đó có môn lịch sử. 
2.2.3. Số liệu thống kê: 
Lớp 12A1 12A2 12A3 
Tỉ lệ học sinh đạt điểm 
TBM từ 5.0 trở lên 
năm học 2010 - 2011 
26/35 
74 % 
24/34 
70% 
22/34 
64% 
2.3. Nguyên nhân: 
Do chương trình và nội dung kiến thức lịch sử quá dài. Số tiết quá ít so với 
chương trình. 
Giáo viên dạy ôm đồm kiến thức vì áp lực thi cử. 
Đa số học sinh không thích học lịch sử vì đó không phải là nghề theo đuổi 
trong tương lai. Các em chỉ thích học các môn tự nhiên, ngoại ngữ để thuận lợi 
trong việc chọn nghề. Đây cũng là một thực tế mà chúng ta phải chấp nhận: có rất 
ít học sinh sẽ đi theo ngành nghề liên quan đến lịch sử, nên chúng ta cần giúp các 
em lĩnh hội và nắm chắc kiến thức một cách cơ bản nhất để các em có đủ kiến 
thức buớc vào cuộc sống mai sau. 
Tác động bởi mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn đến đa phần học sinh rất 
lười, không chịu khó trong việc học tập xem nhẹ bộ môn lịch sử. 
2.4. Vấn đề đặt ra: 
Thầy phải cố gắng đầu tư, phải biết cô đọng kiến thức. Phải làm sao cho môn 
học của mình có sức thu hút ( ít nhất là trong các giờ lên lớp). Phải làm sao cho 
học sinh ý thức được tầm quan trọng của môn học, thấy nó thú vị và không thể 
không học. Điều này quả không dễ dàng chút nào, nhưng tôi biết không ít thầy cô 
đã làm được và làm rất tốt. 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 8 
Thầy phải có những biện pháp thích hợp để hướng dẫn học sinh làm sao có thể 
nắm được kiến thức cơ bản một cách cô đọng nhất, trong một thời gian ngắn nhất 
(đừng để học sinh có cảm giác nhắc đến lịch sử là “dài”) vừa đáp ứng được hiệu 
quả bài học vừa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn bài học. 
2.5. Phạm vi nghiên cứu đề tài: 
Như đã nói ở trên, nguồn thơ, văn của chúng ta (liên quan đến Lịch sử) rất 
phong phú. Trong điều kiện chủ quan và khách quan cho phép, chúng tôi chỉ giới 
hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài là: Bước đầu khai thác và vận dụng một số kiến 
thức thơ ,văn (chủ yếu là thơ) vào việc giảng dạy một số bài trong chương trình 
Lịch sử Lớp 12. 
Nghiên cứu và ứng dụng cho học sinh khối 12 trong dạy học bộ môn Lịch sử 
của Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu. 
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI: 
1. Phƣơng pháp nghiên cứu. 
1.1 Như đã xác định, đối tượng, phạm vi vận dụng của đề tài là chương trình Lịch 
sử lớp 12. Vì vậy, trước hết cần phải nghiên cứu kỹ chương trình này. Đặc biệt là các 
bài có thể khai thác, vận dụng được. Trong khi thực hiện công đoạn này, cần phải liên 
hệ, so sánh và đặt nó trong mối quan hệ liên quan với chương môn Văn học Lớp10, 
11, 12 - bậc PTTH. 
Đây là một thao tác rất quan trọng, góp phần xác định được đúng mức độ vận 
dụng của đối tượng là học sinh lớp 12, tránh sa đà, ôm đồm. 
1.2. Tiến hành sưu tầm các bài thơ, văn có quan hệ sát với nội dung các bài 
Lịch sử thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài. Cần lưu ý rằng, không phải trong một 
bài thơ liên quan ta có thể khai thác được hết cả bài mà nên lựa chọn những đoạn thơ 
sát nhất, “đắt” nhất để sử dụng. 
1.3. Chọn lựa, phân loại các kiến thức thơ, văn phù hợp với yêu cầu, phương pháp 
giảng dạy Lịch sử theo từng mảng: thơ về tiểu sử, cuộc đời nhân vật Lịch sử; thơ văn 
về diễn biến trận đánh hay biến cố Lịch sư, thơ văn trần thuật về tội ác của giai cấp 
thống trị, của bọn xâm lược Sau khi phân loại, chúng ta tiến hành sắp xếp nguồn tư 
liệu đó thành từng chủ đề. 
 1.4. Khai thác, vận dụng các kiến thức đó vào từng bài lịch sử đã giới hạn. 
1.5. Góp ý với các đồng nghiệp khai thác và vận dụng kiến thức thơ, văn vào việc 
giảng dạy trong khi bản thân mình trực tiếp dự giờ để có điều kiện kiểm chứng và so 
sánh. 
 1.6. Đi thực tế ở một số trường phổ thông trung học nếu điều kiện cho phép. 
2. Phần nội dung: 
 SỬ DỤNG MỘT SỐ KIẾN THỨC THƠ VĂN VẬN DỤNG VÀO VIỆC 
GIẢNG DẠY MỘT SỐ BÀI LỊCH SỬ(LỚP 12) CỤ THỂ 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 9 
Ví dụ 1: Khi dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 
1925. (SGK Lịch sử lớp 12). Tôi ứng dụng thực tiễn như sau: 
1/ Sau khi ghi đề bài lên bảng xong và tiến hành giảng cho học về phần một là 
chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp với các nôi dung cơ bản 
sau. 
1. Chính sách khai thác thuộc địa lần hai của thực dân Pháp. 
- Thời gian: từ 1919 – 1929. 
- Tăng cường đầu tư với tốc độ nhanh, quy mô lớn. vốn đầu tư tăng từ (1924 – 1929), 
lên đến 4 tỉ Phơ- răng: 
 Nông nghiệp: Thu hút vốn nhiều nhất, chủ yếu đầu tư vào đồn điền cao su. Diện tích 
các đồn điền cao su được mở rộng. 
Công nghiệp: Tập trung khai mỏ nhất là mỏ than. Mở rộng các ngành chế biến như 
muối, xay xát, dệt 
Thương nghiệp: Ngoại thương tăng, buôn bán nội địa được đẩy mạnh. 
Giao thông vận tải: đường sắt, đường bộ đầu tư phát triển. 
 Ngân Hàng: Pháp nắm trọn quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, tăng thuế, phát hành 
tiền giấy và cho vay lãi. 
 a)Để làm sáng tỏ tội ác của thực dân Pháp xâm lược cũng như nỗi thống khổ của 
nhân dân ta do chính sách bóc lột bằng cách mở đồn điền hết sức tàn bạo. Tôi khai 
thác văn học để khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng hai câu ca dao sau: 
“Cao su đi dễ, khó về 
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo” 
(Ca dao chống Pháp) 
hoặc: 
“Cha trốn ra Hòn Gai cuốc mỏ 
Anh chạy vào Đất Đỏ làm phu 
Bán thân đổi mấy đồng xu 
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng” 
(Tố Hữu – SĐD) 
b)Làm sáng tỏ: “Thuế khoá trong bất cứ thời gian nào cũng là nguồn bóc lột chủ 
yếu của thực dân đế quốc nói chung và thực dân Pháp đối với nhân dân Đông Dương 
nói riêng” tôi liên hệ 
“ Thuế đến cả bản thôn, phường phố 
Thuế môn bài, thuế đuốc, thuế đèn 
Thuế nhà cửa, thuế chùa chiền 
Thuế rừng tre gỗ, thuế tiền bán buôn 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 10 
Trăm thứ thuế, thuế gì cũng ngặt 
Thắt chặt dân như thắt chỉ xe” 
Hoặc liện hệ tác phẩm văn học “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố các em đa học trong tác 
phẩm có nhân vật chị Dậu phải “bán con” và “chó” vẫn chưa đủ tiền để đóng sưu 
thuế (thuế thân) cho chồng và em chồng. 
 2/ Trong phần hai nói về phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 – 1925 
để làm sáng tỏ gương hy sinh anh dũng quên mình của liệt sĩ Phạm Hồng Thái trong 
vụ ám sát toàn quyền Méc-lanh: 
 Sau khi kể tóm tắt về tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của Phạm Hồng 
Thái và tường thuật cụ thể chi tiết vụ ám sát tên toàn quyền Méc-lanh tại Sa Diện – 
Trung Quốc, tôi sự dụng đoạn thơ sau để khắc họa nhân vật lịch sử nói trên 
“Một tấm lôi đình kinh vũ trụ 
Tấm gan trung nghĩa động thần minh 
Chiếc thân đã gửi cho dòng nước 
Trang sử còn ghi mãi tính danh” 
(Trần Huy Liệu-Từ điển nhân vật lịch sử) 
hoặc: 
“Sống làm quả bom nổ 
 Chết làm dòng nước xanh” 
 (Tố Hữu-SĐD) 
 Tuy nhiên giáo viên cũng nên lưu ý, sau khi đọc thơ phải cắt nghĩa cho các em 
hiểu một số từ, khái niệm mang tính tượng trưng như: “Một tiếng lôi đình kinh vũ 
trụ”, “Chiếc thân đã gửi cho dòng nước” 
 Ví dụ 2: khi dạy bài 14: “Phong trào cách mạng 1930-1935” 
 Sau khi trình bày cho học sinh diễn biến của phong trào Cách mạng 1930-1931 
và Xô Viết Nghệ – Tĩnh, tôi sử dụng đoạn thơ sau để minh hoạ thêm để học sinh thấy 
được tinh thần và khí thế cách mạng trong phong trào 1930 – 1931: 
“Kìa Bến Thủy đứng đầu dậy trước 
Nọ Thanh Chương tiếp bước đứng lên 
Nam Đàn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên 
Anh Sơn, Hà Tĩnh bốn bên dậy rồi 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 11 
Không có lẽ ta ngồi chịu chết 
Phải cùng nhau kiên quyết một phen 
Tổng này, xã nọ kết liên 
Ta hò, ta hét, thét lên thử nào” 
(Tố Hữu-SĐD) 
Ví dụ 3 : Khi dạy bài 16 – « Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi tháng 
Tám .... » (SGK Lịch sử lớp 12). 
a) Khi tiến hành giảng về mục 3 : Nguyễn Ái quốc về nước trực tiếp lãnh đạo 
cách mạng. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông 
Dương (5 – 1941). Sau khi cung cấp sự kiện ngày 28 – 1 – 1941 Nguyễn Ái Quốc về 
nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Người chủ trì Hội nghị lần 8 tại Pắc bó – Cao 
Bằng từ ngày 10 - > 19 – 5 – 1941. Nhằm khắc họa hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và 
tình cảm của Người khi trở về quê hương sau 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước, tôi 
thể khai thác sử dụng đoạn thơ 
“Ôi sáng xuân nay, xuân bốn mốt 
Sáng rừng Việt Bắc trắng hoa mơ 
Người về. Im lặng. Con chim hót 
Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ” 
(Tố Hữu-SĐD) 
 b) Mở rộng thêm về Mặt trận Việt Minh, để khắc hoạ hình ảnh của Mặt Trận Việt 
Minh thực hiện chính sách của mình trong một “nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 
thu nhỏ” đầy tính ưu việt, tôi thể sử dụng thơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: 
“ Có mười chính sách bày ra 
Một là ích nước, hai là lợi dân 
Bao nhiên thuế ruộng, thuế thân 
Đều đem bỏ hết cho dân khỏi phiền 
Hội hè, tín ngưỡng, báo chương 
Họp hành, đi lại có quyền tự do 
Nông dân có ruộng, có bò, 
Đủ ăn, đủ mặc, khỏi lo cơ hàn. 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 12 
Công nhân làm lụng gian nan 
Tiền lương phải đủ, mỗi ban tám giờ. 
Gặp khi tai nạn bất ngờ 
Thuốc thang Chính phủ bây giờ giúp cho. 
Thương nhân buôn bán nhỏ to 
Môn bài thuế ấy bỏ cho phỉ nguyền 
Nào là những kẻ chức viên 
Cả lương đãi ngộ cho yên tấm lòng 
Binh lính giữ nước có công 
Được dân trọng đãi, hết lòng kính yêu 
Thanh niên có trường học nhiều 
Chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho 
Đàn bà cũng được tự do 
Bất phân nam nữ đều cho bình quyền 
Người tàn tật, kẻ lão niên 
Đều do Chính phủ cấp tiền ăn cho 
Trẻ em bố mẹ khỏi lo 
Dạy nuôi, chính phủ giúp cho đủ đầy” 
(Hồ Chí Minh - Lịch sử nước ta – Tập 3, Tr 152, 153) 
Ví dụ 4: Khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết 
thúc (1953 – 1954). 
a)Sau khi trình bày xong phần diễn biến của chiến dịch Điện Biên Phủ. Để khắc 
sâu hơn về tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ đã anh dũng hy sinh trong chiến dịch 
tôi đọc đoạn thơ 
“ Vượt lỗ châu mai nhớ Phan Đình Giót 
Đạn thiếu tầm cao nhớ Bế Văn Đàn. 
Đưa pháo lên đồi nửa chừng dây kéo đứt 
Phút hiểm nghèo Tô Vĩnh Diện nằm ngang” 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 13 
(Hồng Nguyệt Cầm – Trước cửa rừng Điện Biên – trích trường ca âm vang Điện 
Biên, trong tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ) 
 hoặc: 
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên 
Chiến sĩ anh hùng đầu nung lửa sắt 
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. 
Máu trộn bùn non. 
Gan không núng, chí không mòn. 
Những đồng chí thân chôn làm giá súng. 
Đầu bịt lỗ châu mai. 
Băng rừng qua núi thép gai. 
Ào ào vũ bão 
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo 
Nát thân nhắm mắt còn ôm 
Những bàn tay xẻ núi lăn bom 
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện 
Và những chị những anh ngày đên ra tiền tuyến 
Mấy tầng mây gió lớn mưa to 
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ 
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát 
Dù bom đạn xương tan thịt nát 
Không sơn lòng không tiếc tuổi xanh 
Hỡi các chị các anh trên chiến trường ngả xuống 
Máu của các chị các anh không uổng 
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam 
Mường Thanh Hồng Cúm Him Lam 
Hoa mơ lại nở vườn cam lại vàng... 
(Tố Hữu – Hoan hô chiến sĩ Điện Biên - trong tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ) 
b) Hay khi nói về tinh thần tiếp viện của dân công tôi minh họa ca dao: 
“Đèo cao thì mặc đèo cao 
Tinh thần tiếp vận còn cao hơn đèo 
Điện Biên xa lắc ngàn trùng 
Gạo không tới đích quyết không trở về”. 
c) Hoặc khi nói về chiến thắng Điện Biên Phủ, để nhấn mạnh cho các em dễ 
nhớ ngày tháng tôi minh họa đoạn thơ sau. 
Một chiều hè lịch sử 
Bố kể chuyện Điện Biên 
Bộ đội mình chiến thắng 
Lũ tây bị bắt sống 
Ta giải đi từng đàn 
Cờ quyết chiến quyết thắng 
Tung bay trên nóc hầm 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 14 
Chiều mùng bảy tháng năm 
Một chiều hè lịch sử ... 
(Trong tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ) 
3. Kết luận. 
 1/ Việc vận dụng kiến thức thơ văn vào giảng dạy lịch sử, theo kinh nghiệm của 
bản thân tôi cùng nhiều đồng nghiệp khác đã được tham khảo ý kiến là một việc làm 
rất có hiệu quả nhằm gây hứng thú cho học sinh, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi 
việc học lịch sử, tìm hiểu lịch sử, nhận thức lịch sử đang có nhiều hướng giảm sút, 
xuống cấp. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, lối suy nghĩ, cách sống thực dụng 
đang tác động mạnh mẽ đến từng học sinh cùng với sự thiếu thốn phương tiện, đồ 
dùng dạy học cũng như thái độ dạy học đối phó, qua loa, đại khái của không ít giáo 
viên đã và đang là những trở ngại không nhỏ đối với việc giảng dạy nói chung và dạy 
bộ môn lịch sử nói riêng. 
 2/ Thơ văn nói chung với ưu thế của nó: dễ thuộc, dễ đi vào lòng người sẽ là 
một thế mạnh trong việc hỗ trợ đắc lực cho việc truyền thụ kiến thức lịch sử thông 
qua đó góp phần giáo dục đạo đức, lòng biết ơn đối với truyền thống, lãnh tụ cũng 
như những anh hùng liệt sĩ đã hi sinh, đã đóng góp xương máu của mình để làm rạng 
rỡ thêm lịch sử nước nhà. 
IV. NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ LƢU Ý CẦN KHẮC PHỤC: 
1. Thành công: 
Qua việc khai thác một số kiến thức thơ văn vận dụng vào việc giàng dạy một số 
bài lịch sử lớp 12 tôi thấy: 
- Hầu hết học sinh hiểu, nắm chắc, khắc sâu nhớ lâu được kiến thức về hoàn cảnh 
lịch sử, nội dung sự kiện. 
- Học sinh hứng thú trong cách tìm hiểu về các giai đoạn lịch sử và bản chất lịch 
sử. 
 - Thu hút sự tập trung chú ý của học sinh khi học tập lịch sử. 
TRẮC NGHIỆM KIỂM CHỨNG ĐỀ TÀI Năm học 2011 - 2012: 
Lớp HS học hứng thú HS hiểu bài 
12A1 33/34 HS = 97 % 34/34 HS = 100 % 
12A2 33/35 HS = 94 % 35/35 HS = 100 % 
12A2 34/35 HS = 97 % 34/35 HS = 97 % 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 15 
2. Những bài học có thể áp dụng: 
Với phương pháp khai thác một số kiến thức thơ văn vận dụng vào việc giảng 
dạy một số bài lịch sử lớp 12 có thể áp dụng cho rất nhiều bài trong chương trình lịch 
sử 12, kể cả chương trình lớp 10 và 11. Vì văn học và lịch sử có mối quan hệ mật 
thiết “ văn sử bất phân” Tuy nhiên không nên và không thể đồng nhất giữa văn học 
và lịch sử 
3. Một số lƣu ý khi khai thác và vận dụng kiến thức thơ văn. 
 1/ Trước hết, giáo viên phải hiểu cặn kẽ và thật tâm đắc với những tư liệu mình 
đã lựa chọn. 
 2/ Không nên ôm đồm, quá tải trong việc vận dụng kiến thức thơ văn. 
 3/ Luôn luôn đảm bảo tính vừa sức của học sinh (đối tượng vận dụng là học sinh 
lớp 12). 
 4/ Các kiến thức thơ văn vận dụng cần phải có nguồn gốc xuất xứ chính xác, rõ 
ràng. 
V. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ. 
1. Đối với bộ giáo dục: 
Bộ cần thay đổi sách giáo khoa giảm tải kiến thức cho phù hợp với thời gian 
của tiết học. 
Giới hạn kiến thức thi tốt nghiệp để không gây áp lực cho giáo viên và học 
sinh khi dạy – học. 
2. Đối với Sở giáo dục và nhà trường: 
Tăng tiết ngay từ đầu năm cho khối 12 để tránh việc nhồi nhét kiến thức. Đây 
không chỉ là môn thi tốt nghiệp mà còn là môn thi đại học của các em theo nghành 
khoa học xã hội. 
Cải thiện nâng cấp, đầu tư cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho giáo viên và học 
sinh được dạy và học trong ngôi trường tốt hơn đáp ứng với sự phát triển của xã hội. 
Đầu tư thiết bị, tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học lịch sử như tranh ảnh, bản 
đồ  
Lời cảm ơn. 
Với điều kiện thời gian ngắn ngủi, trình độ bản thân còn ít kinh nghiệm, chắc 
chắn đề tài còn nhiều hạn chế. Với tâm huyết và tấm lòng của mình tôi muốn đóng 
góp cho công việc dạy học một đề tài nhỏ để nâng cao hiệu quả dạy học. Rất mong 
được sự chỉ dẫn, góp ý chân thành của các thầy, cô: Ban giám hiệu, tổ bộ môn và hội 
đồng giám khảo. 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 16 
Xin chân thành cảm ơn. 
 NGƢỜI THỰC HIỆN 
 (Ký tên và ghi rõ họ tên) 
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu 
SKKN GV: Phan Thị Mùi 17 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Sách giáo khoa lịch sử 12 – nhà xuất bản giáo dục. 
2. Sách giáo viên lịch sử 12 - nhà xuất bản giáo dục. 
3. Tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ - nhà xuất bản văn học. 
4. Khai thác mạng Internet 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_phuong_phap_day_hoc_lich_su_12_thong_qua_viec_ket_hop_van_hoc_de_gay_hung_thu_cho_hoc_sinh_2.pdf
Sáng Kiến Liên Quan