Sáng kiến kinh nghiệm Đổi mới kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức, kĩ năng trong hoạt động của tổ chuyên môn (Bộ môn Ngữ văn THCS)
+ Ý thức học tập, rèn luyện của một bộ phận học sinh chưa cao, có những biểu hiện tiêu cực về hành vi đạo đức làm ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả dạy và học của thầy và trò.
+ Đối với bộ môn Ngữ văn, việc rèn luyên các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết còn hạn chế, ảnh hưởng đến hiệu quả học tập của học sinh. Trong đó đáng chú ý là phương pháp học tập của học sinh. Nhiều HS tình trạng học tủ, học vẹt, làm theo văn mẫu vẫn còn nhiều, ảnh hưởng đến khả năng tư duy, sáng tạo của các em.
việc đánh giá. Đây là giai đoạn kết thúc của quá trình giảng dạy, học tập một chương, một phần, một quá trình dạy- học của thầy và trò. Kiểm tra là một chức năng cơ bản, quan trọng trong quá trình dạy học nhằm những mục đích sau: a) Đánh giá: Việc kiểm tra giúp giáo viên đánh giá được kết quả học tập của HS, HS cũng xác định được mức độ đạt được của mình so với yêu cầu chung. b) Phát hiện: Việc kiểm tra giúp giáo viên và học sinh phát hiện những mặt đạt được và chưa đạt được của mình trong quá trình dạy học so với yêu cầu chung của môn học. c) Điều chỉnh: Việc kiểm tra giúp giáo viên và học sinh tìm được những điều chỉnh cần thiết trong quá trình dạy- học, loại trừ những lệch lạc, tháo gỡ những khó khăn, tìm ra những giải pháp tối ưu giúp người học chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng tốt hơn. 2. Đánh giá: Đánh giá kết quả học tập của HS là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng đạt được mục tiêu học tập của HS cùng với tác động và nguyên nhân của tình hình đó, nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường để HS học tập ngày một tiến bộ hơn. Trong thực tế, việc đánh giá đạt độ chính xác và khách quan càng cao bao nhiêu thì sự tiếp cận yêu cầu về Chuẩn kiến thức, kĩ năng của HS càng cao bấy nhiêu. Việc đánh giá có tác dụng tích cực cho cả học sinh, giáo viên và nhà trường: a) Đối với học sinh: + Làm rõ được quá trình lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát triển tư duy theo yêu cầu chung của bộ môn. + Học sinh tự nhận thức và đánh giá được khả năng học tập của mình. + Mục đích quan trong nhất của việc kiểm tra, đánh giá đối với HS là giúp các em phát hiện những thiếu sót, lệch lạc của mình trong quá trình học tập, rèn luyện để có những điều chỉnh về phương pháp học tập cho phù hợp. b) Đối với giáo viên: + Thông qua kết quả kiểm tra, đánh giá để tự đánh giá việc giảng dạy của mình. + Qua kết quả đánh giá, giáo viên thấy được những ưu điểm để phát huy và quan trọng là phát hiện được những tồn tại, thiếu sót để tìm ra nguyên nhân, biện pháp khắc phục và tự điều chỉnh phương pháp giảng dạy, kiểm tra - đánh giá cho phù hợp. c) Đối với nhà trường: Đối chiếu kết quả kiểm tra, đánh giá của từng bộ môn với mục tiêu đã đề ra, đặc biệt là những tồn tại, thiếu sót để tìm ra nguyên nhân và có kế hoạch chỉ đạo sát hợp. Nói tóm lại, kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu trong qua trình dạy học. Để quá trình dạy học đạt kết quả tối ưu thì người dạy và người học phải xác định đúng đắn mục tiêu cũng như yêu cầu của kiểm tra, đánh giá và xem đây như là một mắt xích không thể thiếu trong quá trình đổi mới phương pháp dạy-học. B. Quá trình thực hiện việc kiểm tra, đánh giá tại cơ sở: (Tổ Văn-Mĩ-Nhạc trường THCS Phú Bài) Trong phương hướng hoạt động của tổ chuyên môn năm học 2010 - 2011, tổ đã quán triệt cho giáo viên tinh thần đổi mới phương pháp giảng dạy trong đó có đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá. Ở học kì I, tổ đã tổ chức cho GV học tập, nghiên cứu Chuẩn kiến thức, kĩ năng và triển khai chuyên đề Đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT để áp dụng trong dạy và học, ở học kì II, giáo viên tiếp tục học tập, triển khai thực hiện chuyên đề Biên soạn đề kiểm tra và đã thực hiện được một số phương diện đổi mới trong kiểm tra, đánh giá. 1. Đổi mới hình thức đánh giá: a) Kiểm tra miệng: + Thời gian kiểm tra: Hướng dẫn GV không nhất thiết phải kiểm tra đầu tiết học mà có thể kiểm tra trong cả quá trình dạy học ở trên lớp. Tuy nhiên nói như thế không có nghĩa là bỏ bước kiểm tra bài cũ ở phần đầu tiết học. Bước này có những tác dụng tích cực trong quá trình dạy học. + Nội dung kiểm tra: Không nhất thiết là kiểm tra kiến thức cũ của bài học trước mà cần có sự tích hợp với nội dung bài mới. Cần chú ý đa dạng hóa các loại câu hỏi với nhiều cấp độ khác nhau (nhận biết, thông hiểu, vận dụng) b) Kiểm tra viết: Kiểm tra viết thường dùng hai hình thức là trắc nghiệm khách quan và tự luận. Hình thức trắc nghiệm khách quan có những ưu điểm và những hạn chế nhất định nên tổ chỉ đạo giáo viên chỉ dùng hình thức này để kiểm tra khi đã bảo đảm những yêu cầu cơ bản nhằm khắc phục những nhược điểm của hình thức này (sẽ nói ở phần sau). Khi đánh giá HS qua kiểu bài tự luận đặc biệt là đối với bài tập làm văn, giáo viên cần chú ý các kĩ năng trình bày, diễn đạt, dựng đoạn, phân tích, tổng hợp, ; chú ý đến cách ra đề để HS làm bài bằng chính năng lực của mình, đánh giá đúng thực chất bài làm của các em (sẽ nói ở phần sau) 2. Đổi mới nội dung đánh giá: a) Chú ý kiểm tra một cách toàn diện các kiến thức, kĩ năng được học tập và rèn luyện trong chương trình Ngữ văn. b) Khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong câu trả lời hoặc bài làm của mình. Chú ý cách diễn đạt khi nói cũng như khi viết, tránh học thuộc lòng một cách máy móc. Các câu hỏi đánh giá trình độ của HS chủ yếu là ở khả năng nhận diện và vận dụng tri thức vào thực tế cuộc sống hơn là trình bày khái niệm lí thuyết. Phải xây dựng nhiều dạng câu hỏi khác nhau, ví dụ: + Câu hỏi nhớ biết (cấp độ nhận biết): Truyện Kiều được viết bằng thể thơ gì? Nêu những hiểu biết của em về thể thơ đó. + Câu hỏi hiểu biết (cấp độ thông hiểu): Tại sao Nam Cao lại để cho nhân vật Lão Hạc của mình chết và phải chịu một cái chết đau đớn như vậy? + Câu hỏi vận dụng (cấp độ vận dụng thấp): Qua kiến thức đã học về thành phần biệt lập, em hãy đặt câu có chứa thành phần tình thái. + Câu hỏi đánh giá tổng hợp (cấp độ vận dụng cao): Qua tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và trích đoạn Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố, em có cảm nhận gì về số phận của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám? 3. Đổi mới cách thức đánh giá: Kiểm tra định kì kết hợp với kiểm tra đột xuất. + Kiểm tra định kì bao gồm kiểm tra đầu năm học, kiểm tra một tiết theo phân phối chương trình và kiểm tra học kì. Trong loại này, giáo viên chú ý phạm vi nội dung kiến thức, và hình thức ra đề. Cần thực hiện đúng, đủ quy trình kiểm tra đánh giá. Mỗi lần kiểm tra chú ý những thiếu sót, tồn tại cơ bản để khắc phục trong những lần kiểm tra tiếp theo. + Kiểm tra đột xuất bao gồm kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút. - Khi kiểm tra miệng giáo viên có thể kiểm tra đầu tiết học và trong quá trình học. Câu hỏi kiểm tra kiến thức bài học cũ cũng cần chú ý đến cấp độ: câu hỏi nhận biết, thông hiểu đối với HS yếu-trung bình và câu hỏi vận dụng, phân tích, tổng hợp dành cho HS khá giỏi. Việc kiểm tra miệng kiến thức bài học cũ vào đầu mỗi tiết học một cách thường xuyên cũng có những hiệu quả nhất định. Đó là thói quen học bài cũ. Nếu ít kiểm tra vào đầu tiết học thì HS thuộc loại yếu kém, chây lười sẽ chủ quan, ỷ lại làm cho kết quả học tập sa sút. Trong quá trình dạy học, giáo viên cũng có thể kiểm tra bài học cũ nhưng cũng cần chú ý thời điểm và nội dung câu hỏi. Chỉ nên hỏi khi cần phải nhắc lại kiến thức cũ để mở rộng kiến thức mới sắp học. - Kiểm tra 15 phút có thể sử dụng hình thức trắc nghiệm hoặc tự luận. Nếu sử dụng hình thức trắc nghiệm khách quan thì cần chú ý những hạn chế của hình thức này để khắc phục (sẽ nói ở phần dưới). Cũng có thể sử dụng hình thức tự luận bằng những câu hỏi nhỏ với nhiều cấp độ khác nhau. 4. Đổi mới khâu ra đề kiểm tra: Như đã nói ở trên, trước đây việc ra đề chủ yếu là do GVBM trực tiếp đứng lớp chịu trách nhiệm nên chất lượng đề không cao, chưa có tính đồng đều nên khó có thể tránh khỏi những sai sót và chưa thật sự công bằng, khách quan trong đánh giá HS. Có khi GVBM thường sử dụng một đề cho nhiều năm học nên HS có thể đoán được đề dẫn dến việc các em học tủ, học lệch. Từ năm học 2008-2009, tổ quản lí và chỉ đạo việc ra đề kiểm tra nói chung và đặc biệt là các đề kiểm tra thường xuyên theo phân phối chương trình đã thống nhất. Trong đổi mới phương pháp dạy học, đề kiểm tra nói chung, đề Ngữ văn nói riêng thường bao gồm hai loại: phần trắc nghiệm và phần tự luận. Tùy theo tính chất đặc trung của từng bộ môn mà tỉ lệ giữa hai phần này có sự khác nhau. Đối với bộ môn Ngữ văn, phần trắc nghiệm khách quan chiếm tỉ lệ khoảng 30-40% là vừa. Tuy nhiên mỗi hình thức ra đề có những ưu điểm và tồn tại riêng nên tổ đã có những định hướng nhất định để hạn chế tối đa những tồn tại đó. a) Đề ra theo hình thức trắc nghiệm: * Ưu điểm: Là hình thức thi hiện đại, thể hiện tính ưu việt trên cả hai phương diện là thi của HS và chấm của giáo viên. Trên phương diện thi, hình thức trắc nghiệm khách quan có nhiều câu hỏi nên nội dung kiểm tra toàn diện hơn, hạn chế việc người học học tủ, học lệch đồng thời phát huy năng lực tư duy nhanh nhạy của HS. Trên phương diện chấm, việc chấm cũng mất ít thời gian hơn, hạn chế được tính chủ quan của người chấm. * Nhược điểm: Đề ra thường là quá dễ hoặc quá khó, thời gian làm bài khá nhiều và thường là chỉ có 1-2 đề nên tình trạng HS xem bài nhau là phổ biến, có trường hợp HS đánh “hú họa” làm cho việc đánh giá HS qua kiểm tra không đúng thực chất hoặc dẫn đến việc học sinh chây lười, ỷ lại. Nguyên nhân: - Giáo viên chưa hiểu, hoặc không quan tâm về việc xây dựng ma trận đề. - Giáo viên chưa có điều kiện in sao nhiều mã đề cho HS. - Tinh thần tự học của HS chưa cao, những em lười học hoặc còn yếu kém thường trông chờ, ỷ lại những HS khá, giỏi. * Hướng chỉ đạo triển khai, thực hiện: + Khi kiểm tra theo hình thức trắc nghiệm khách quan nhất thiết phải xây dựng ma trận theo quy trình đã tiếp thu. + Phải có nhiều mã đề trong một lần kiểm tra. Mức độ khó và phạm vi nội dung kiểm tra giữa các mã đề phải tương đương. + Chỉ tổ chức kiểm tra trắc nghiệm khách quan trong thời gian ngắn (từ 15 ph trở xuống), chú ý số lượng câu hỏi tương xứng với thời gian làm bài. Nếu đề ra có kết hợp với hình thức tự luận thì phải cho HS làm riêng phần trắc nghiệm, GV thu bài xong mới cho HS làm phần tự luận. + Giám sát chặt chẽ việc HS làm bài, hạn chế đến mức tối đa việc HS quay cóp, trao đổi bài bằng nhiều hình thức tinh vi mà ngay cả giáo viên có kinh nghiệm cũng khó phát hiện (ra dấu, qua máy tính, ) b) Đề ra theo hình thức tự luận: * Ưu điểm: Đối với bộ môn Ngữ văn thì kiểm tra theo hình thức tự luận là một hình thức phổ biến và không thể thiếu. Kiểm tra theo hình thức tự luận giúp người dạy đánh giá được một cách chính xác năng lực tạo lập văn bản của HS, đánh giá được khả năng diễn đạt, tư duy sáng tạo, cách cảm nhận riêng của từng HS (là một yêu cầu hết sức quan trọng trong việc dạy học bộ môn Ngữ văn). * Nhược điểm: - Thường là chỉ kiểm tra được một phần của nội dung kiến thức, kĩ năng được học. - Phần kiểm tra TLV học sinh thường làm theo văn mẫu, nên việc đánh giá về tính sáng tạo, khả năng cảm nhận của HS còn hạn chế. - Tính khách quan trong đánh giá của người dạy chưa cao vì còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: chữ viết, cách diễn đạt, trạng thái tâm lí của người chấm, .. - GV mất khá nhiều thời gian trong việc chấm bài, nhận xét, sửa chữa, * Hướng chỉ đạo triển khai, thực hiện: + Ra nhiều câu hỏi hơn với nhiều cấp độ tư duy khác nhau. + Ra nhiều đề (2-3 đề) với nội dung và những câu hỏi có cấp độ tương đương. + Ra theo hướng đề mở.Với văn nghị luận nên khuyến khích ra các dạng đề nghị luận hướng các em quan tâm nhiều hơn đến đời sống xã hội, thể hiện rõ quan điểm sống, lập trường của giới trẻ, hướng các em đến đời sống cộng đồng, khơi gợi lòng nhân ái, vị tha, biết chia sẻ. Ví dụ: - Em đã lớn rồi (Văn tự sự lớp 6) - Loài cây em yêu (Văn biểu cảm lớp 7) - Quan điểm của em về việc lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Theo em, nên lựa chọn nghề làm ra nhiều tiền hay nghề phù hợp với sở thích của bản thân? (Văn nghị luận xã hội) - Bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên có câu “Con dù lớn vẫn là con của mẹ/ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Qua ý thơ trên và những vốn hiểu biết của mình, em có suy nghĩ gì về tình mẫu tử? (Văn nghị luận xã hội lớp 9) - Từ câu chuyện của nhân vật Rô-bin-xơn trong đoạn trích Rô-bin-xơn ngoài đảo hoang (trích Rô-bin-xơ Cru-xô của Đe-ni-ơn Đi-Phô), em hãy viết bài văn nói về nghị lực và tinh thần lạc quan của con người. (Văn nghị luận xã hội lớp 9) 5. Đổi mới khâu chấm bài: a) Xây dựng đáp án: + Đáp án cho đề đổi mới cần có tính chính xác cao, xây dựng chi tiết, cụ thể hướng dẫn chấm và có sự thống nhất cho từng loại bài nhưng không áp đặt. Chỉ nêu những ý cơ bản nhất, diễn đạt ngắn gọn, hàm súc, không thừa, không thiếu. Đề trắc nghiệm cần chú ý phương án nhiễu, hạn chế câu trả lời “Tất cả đều đúng/sai” + Cần tạo hướng mở cho người làm bài và cả người chấm. b) Chấm, chữa bài: + Sắp xếp thời gian để chấm các bài kiểm tra cùng loại trong cùng một thời điểm, tránh chấm “lắt nhắt” mỗi lần chỉ vài bài. Không nên có thành kiến đối với những bài chữ viết chưa được tốt và chấm bài trong trạng thái tâm lí không ổn định. + Các bài thi học kì nên chấm chung hoặc chấm hai vòng trên bài đã rọc phách. Nếu chấm chung cần có sự thảo luận, thống nhất cao về đáp án, biểu điểm. + Chấm bài của HS không chỉ cho HS thấy được kết quả làm bài của mình mà còn cho các em thấy được những ưu điểm để các em phát huy và đặc biệt là giúp HS thấy được những tồn tại, thiếu sót, lệch lạc trong nhận thức, kĩ năng để hướng các em sửa chữa, khắc phục. + Chú ý cách nhận xét, chữa và phê trong bài làm của các em, nhất là đối với bài tập làm văn. Khi chấm có thể sử dụng những kí hiệu quy ước để các em dễ nhận biết. Lời phê cần rõ ràng, mang tính động viên, tránh dùng những lời lẽ khiếm nhã, ảnh hưởng đến niềm tin của các em đối với việc học tập bộ môn. + Cách cho điểm cũng dựa trên tinh thần khuyến khích, động viên nhưng phải bám vào hướng đẫn chấm. Cần chú ý và trân trọng những bài làm có sự sáng tạo hoặc suy nghĩ trái chiều nhưng hợp lí. 6. Đổi mới khâu trả bài: Bộ môn Ngữ văn có tiết trả bài riêng nên rất thuận lợi cho việc chữa bài cho các em. Nhưng trong thực tế, những năm trước đây, giáo viên cũng ít chú ý đến tiết học này. Trong giáo án thì soạn rất sơ sài, trên lớp thì chủ yếu là phát bài rồi vào điểm cho các em. Từ năm học 2008-2009, tổ đã triển khai chuyên đề “Quy trình dạy bài tập làm văn” trong đó có chú trọng đến tiết trả bài với những yêu cầu về nội dung soạn bài cũng như dạy ở trên lớp, có triển khai dự giờ thăm lớp để đúc rút kinh nghiệm. Một số điểm cần chú ý trong tiết trả bài: + Khâu chuẩn bị: - Cần chuẩn bị bài soạn tiết trả bài một cách đầy đủ: mục tiêu cần đạt, những ưu điểm chính, những lỗi cơ bản về từng mặt và hướng khắc phục sửa chữa, những bài làm, những đoạn văn hay. - Có thể phát bài cho học sinh trước tiết trả bài 1- 2 ngày để học sinh xem trước. + Một số trình tự chính trong tiết trả bài: - Chép đề, tìm hiểu và nêu yêu cầu của đề đối với bài TLV hoặc nêu yêu cầu chính của mỗi câu hỏi và nôi dung chính cần đạt, theo hướng dẫn chấm (để HS có thể tự đánh giá bài làm của mình) - Nhận xét ưu khuyết điểm cơ bản trong bài làm của các em về nội dung và hình thức. - Phân tích và chữa lỗi. - Xây dựng dàn bài mẫu (Nếu là bài tập làm văn), - Đọc bài văn, đoạn văn hay hoặc giới thiệu những bài làm đạt điểm cao. - Trả bài (nếu chưa trả trước) - Giải đáp thắc mắc, động viên, nhắc nhở học sinh các bài làm sau. * Chú ý: Điểm đổi mới trong giờ trả bài là công khai đáp án, biểu điểm cho HS để các em tự đánh giá bài làm của mình và đánh giá ngược trở lại cách ra đề, đáp án, biểu điểm của giáo viên (một việc làm mà giáo viên thường rất ngại). Giáo viên cần khuyến khích và trân trọng những ý kiến đóng góp của học sinh, nên trao đổi thẳng thắn, cởi mở và tuyệt đối không nên có thành kiến với các em. 7. Đổi mới khâu tổ chức, quản lí: a) Chú ý công tác bồi dưỡng thường xuyên, bao gồm: + Tổ chức cho GV tham gia các lớp tập huấn và học tập, triển khai thực hiện ở tổ các chuyên đề được học tập hoặc các SKKN của CB-GV có đề tài liên quan (Quy trình dạy bài tập làm văn, Đổi mới trong kiểm tra, đánh giá học sinh môn Ngữ văn) + Tổ chức cho GV tự học, tự nghiên cứu về kiểm tra, đánh giá thông qua các tài liệu và nội dung tập huấn. Các buổi sinh hoạt tổ có thảo luận, giải đáp thắc mắc, trao đổi kinh nghiệm. b) Tổ chức và quản lí việc ra đề của giáo viên. + Các tiết khảo sát đầu năm, kiểm tra định kì theo chương trình (tiến tới tất cả các tiết kiểm tra viết theo quy định tối thiểu), tổ chỉ đạo thực hiện ba chung: chung nội dung ôn tập, chung định hướng nội dung kiểm tra, chung cơ cấu đề. Do chưa có những điều kiện tối ưu để tổ chức theo hình thức trắc nghiệm nên tổ thống nhất chỉ đạo hình thức kiểm tra trắc nghiệm khách quan chỉ thực hiện đối với việc kiểm tra 15 ph và giáo viên phải bảo đảm các yêu cầu như đã nói ở trên. Còn kiểm tra đầu năm và kiểm tra định kì theo PPCT thì sử dụng hình thức tự luận và có sự thống nhất chung: - Nhóm trưởng mỗi khối lớp thống nhất đề cương ôn tập với các giáo viên bộ môn Ngữ văn trong cùng khối lớp và thông báo trước cho HS từ 7 đến 10 ngày để các em có điều kiện ôn lại kiến thức. - Sau đó trong nhóm bộ môn thống nhất định hướng ra đề, cơ cấu đề (Số lượng câu, nội dung và mức độ kiểm tra, số điểm cho mỗi nội dung kiểm tra, ). - Trên cơ sở định hướng ra đề và cơ cấu đề đã thông nhất, mỗi giáo viên ra đề cho lớp mình (2 đề) và nộp cho Ban giám hiệu hoặc Tổ trưởng trước 3 ngày. Hàng tháng hoặc cuối mỗi học kì, tổ trưởng tập hợp và nhận xét đề ra của giáo viên theo từng loại đề (Tiếng Việt, Văn học, Tập làm văn, ) để đúc rút kinh nghiệm. Việc kiểm tra hồ sơ, dự giờ thăm lớp đều có chú ý đến các tiết kiểm tra, tiết trả bài của giáo viên. - Đề kiểm tra học kì, kiểm tra một tiết trở lên được lưu lại để tham khảo, đối chiếu khi cần thiết. V. Những kết quả đạt được: Trong hai năm học trở lai đây, bằng các biện pháp như đã nêu ở trên, về phương diện kiểm tra, đánh giá, tổ chúng tôi đã rút ra được một số kết quả như sau: 1. Bảo đảm được sự công bằng, khách quan hơn trong việc tổ chức kiểm tra, đánh giá học sinh. 2. Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá bước đầu đã đi vào quy trình, tạo nền nếp tốt trong việc quản lí của tổ, của trường về vấn đề này. 3. Kịp thời chấn chỉnh được những sai sót trong quy trình ra đề, đặc biệt trong đề ra của giáo viên. 4. Ý thức tự giác, thói quen xây dựng đề theo quy trình đã được hình thành, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy-học bộ môn Ngữ văn nói riêng và các môn khác nói chung. VI. Những tồn tại, thiếu sót cần khắc phục trong năm học tới: 1. Một vài giáo viên vẫn chưa quan tâm đến việc đổi mới PPDH trong đó có kiểm tra, đánh giá. 2. Việc ra đề vẫn còn có những sai sót nhất định, chưa bám sát Chuẩn kiến thức, kĩ năng; đề ra chưa hay, còn đơn điệu hoặc còn mang tính áp đặt. 3. Giáo viên chưa thật thành thạo và vẫn còn ngại trong việc xây dựng ma trận đề nên chất lượng đề có trường hợp chưa cao. 4. Việc quản lí đề chưa thật khoa học, chưa áp dụng công nghệ thông tin để lưu trữ. 5. Chưa xây dựng được hệ thống câu hỏi theo các cấp độ tư duy, tiến tới xây dựng ngân hàng đề để giáo viên tiện tham khảo và sử dụng. 6. Chưa tổ chức và quản lí việc ra đề bằng hình thức trắc nghiệm và kiểm tra 15 ph. V. Kết luận: Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân rút ra được trong quá trình nghiên cứu, hướng dẫn công tác chuyên môn ở tổ về nội dung kiểm tra, dánh giá. Đây cũng chỉ là những nhận định bước đầu, chưa thật hoàn chỉnh, khoa học và sẽ được bổ sung hoàn thiện trong năm học tới. Hi vọng rằng bài viết này sẽ góp phần giúp giáo viên thực hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá và đặc biệt là giúp các tổ chuyên môn trong công tác chỉ đạo, quản lí hoạt động này. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý đồng nghiệp xa gần. Hội đồng xét sáng kiến của đơn vị Người viết xác nhận, xếp loại . . Phan Xuân Kết quả thẩm định của Hội đồng xét sáng kiến kinh nghiệm Phòng GD & ĐT Hương Thủy CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách giáo khoa và sách giáo viên Ngữ văn THCS hiện hành. Chuẩn kiến thức Ngữ văn THCS (2 tập). Tài liệu bồi dưỡng Biên soạn đề kiểm tra, xây dựng thư viện câu hỏi và bài tập môn Ngữ văn cấp THCS (Bộ GD & ĐT, Tài liệu lưu hành nội bộ, 2011) 4. Kiểm tra, đánh giá trong quá trình dạy học (Nguyễn Chính Thắng, Thạc sĩ, GVCH Khoa Tin học, trường Đại học Mở Bán công, thành phố Hồ Chí Minh)
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_kiem_tra_danh_gia.doc