Sáng kiến kinh nghiệm Đọc hiểu văn bản nghị luận trong trường phổ thông theo đặc trưng thể loại

1.1. Chương trình Ngữ Văn đến nay đã trải qua 9 năm thực hiện đổi mới sách giáo khoa của Bộ Giáo dục Đào tạo. Bên cạnh việc lựa chọn các tác phẩm văn học mang tính hình tượng, sử dụng hư cấu với một số thể loại chính như: thơ, truyện, tiểu thuyết (gọi chung là văn bản nghệ thuật) là việc sử dụng tác phẩm văn học không hư cấu được viết bằng nhiều thể loại khác nhau theo mỗi giai đoạn như: nghị luận, sử kí, văn tế, phú, dân ca lịch sử, Nếu như chương trình sách giáo khoa trước đây ít chú ý thể loại văn nghị luận (đọc văn nghị luận) thì chương trình mới xuất hiện khá nhiều loại này.

1.2. Chương trình sách giáo khoa trước đây trình bày các văn bản văn học theo tiến trình lịch sử, nặng về văn học sử, minh họa cho văn học sử. Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới lựa chọn văn bản tác phẩm theo thể loại và tổ chức dạy học theo đặc trưng thể loại. Các văn bản nghị luận, do đó, cũng đựơc trình bày theo trục thể loại này. Vì vậy, nắm được đặc trưng của thể loại nghị luận và các phương pháp dạy học văn nghị luận phù hợp là yêu cầu tất yếu.

 

doc19 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 7991 | Lượt tải: 5Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Đọc hiểu văn bản nghị luận trong trường phổ thông theo đặc trưng thể loại", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 và cộng đồng, từ đó xây dựng nhận thức và hành động tích cực của họ trong hoạt động thực tiễn của mình. Vì vậy văn nghị luận thời hiện đại trở thành một trong những phương tiện tuyên truyền và học tập, cổ vũ và phấn đấu tích cực cho mọi người.
3.1.2. Thuyết phục người đọc bằng hệ thống lí lẽ và cách lập luận chặt chẽ, hùng hồn. 
Để bài văn có sức thuyết phục cao, người viết phải đưa ra những lí lẽ, những lập luận tiêu biểu, phù hợp, những bằng chứng xác đáng. Lí lẽ và lập luận giúp người đọc hiểu, còn bằng chứng làm người đọc tin vào vấn đề người viết nêu ra. Đây là mục đích và là động lực cao nhất khi người viết viết một bài nghị luận. 
3.1.2.1. Lí lẽ của bài văn nghị luận thể hiện ở hệ thống luận điểm của bài viết. Cho nên luận điểm chính là linh hồn của bài văn nghị luận. Luận điểm thể hiện rõ tư tưởng, quan điểm, chủ trương, đánh giá của người viết đối với một vấn đề cần thuyết phục và làm sáng tỏ. Luận điểm của bài văn nghị luận thường được thể hiện dưới hình thức những câu văn ngắn gọn với những phán đoán có tính chất khẳng định hoặc phủ định “Trong một bài văn nghị luận, luận điểm là một hệ thống: có luận điểm chính (dùng làm kết luận của bài, là cái đích của bài viết) và luận điểm phụ (dùng làm luận điểm xuất phát hay luận điểm mở rộng)” (Ngữ văn 8, tập 2, NXBGD, H, 2004, tr.75). Chẳng hạn như:
- Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác.
- Xin lập khoa luật. 
Một thành phần không thể thiếu của luận điểm là luận cứ. “Luận cứ là lí lẽ và dẫn chứng làm cơ sở cho luận điểm” (SGV Ngữ văn 7, tập 2, NXBGD, H, 2003, tr. 28). Ví dụ, để làm rõ luận điểm “Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” nhà báo Nguyễn An Ninh đã nêu ra 4 lí lẽ với hàng loạt dẫn chứng: Lí lẽ thứ nhất (thói học đòi Tây hoá của một bộ phận trí thức đương thời) được dẫn kèm với những dẫn chứng xác đáng (thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình; cóp nhặt những thói tầm thường của phong hoá châu âu; trang trí và kiến trúc lai căng; từ bỏ tiếng mẹ đẻ và văn hoá cha ông). Lí lẽ thứ hai (tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị) đựơc cụ thể bằng hai dẫn chứng (“nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn... và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú... việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vần đề thời gian”; “từ chối tiếng mẹ đẻ là từ chối sự tự do”). Lí lẽ thứ ba (khẳng định tiếng “nước mình” không nghèo nàn) được chứng minh bằng các dẫn chứng không thể chối cãi (nhiều người “chỉ biết những từ thông dụng mà còn nghèo nàn hơn cả bất kì người phụ nữ và nhân dân An Nam nào”; so sánh với “ngôn ngữ Nguyễn Du”; do con người bất tài hay ngôn ngữ nghèo nàn). Lí lẽ thứ tư đó là mối quan hệ giữa ngôn ngữ nước ngoài và ngôn ngữ “nước mình”.
“Lí lẽ là những đạo lí, lẽ phải đã được thừa nhận, nêu ra là được đồng tình. Dẫn chứng là sự việc, số liệu, bằng chứng để xác nhận cho luận điểm. Dẫn chững phải xác thực, đáng tin cậy, không thể bác bỏ” (Ngữ văn 7, tập 2, SGV, NXBGD, H, 2003, tr.28). 
3.1.2.2. Nếu như lí lẽ của bài văn nghị luận thể hiện ở hệ thống luận điểm thì lập luận là cách thức trình bày lí lẽ. Nên yếu tố đặc trưng tiếp theo của văn nghị luận là lập luận. Lập luận là cách tổ chức lí lẽ và dẫn chứng để làm nổi rõ luận điểm. “Lập luận là cách nêu luận điểm và vận dụng lí lẽ, dẫn chứng sao cho luận điểm được nổi bật và có sức thuyết phục [...]. Lập luận bao gồm các cách suy lí, quy nạp, diễn dịch, phân tích, chứng minh, so sánh, tổng hợp sao cho luận điểm đưa ra là hợp lí, không thể bác bỏ [...], lập luận có ở khắp trong bài văn nghị luận”. 
Nghệ thuật lập luận phụ thuộc rất nhiều vào cách nêu vấn đề, cách dẫn dắt người đọc, người nghe, cách phân tích bằng nhiều thủ pháp nhỏ như so sánh, liên hệ, đối chiếu, nêu dẫn chứng thực tế, đưa số liệu thống kê... Tuyên ngôn độc lập của Hồ chủ tịch là một mẫu mực như thế. 
Không phải ngẫu nhiên, ngay từ đầu, Người đã dẫn ra hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ. Từ chỗ khẳng định quyền tự do, độc lập của mỗi dân tộc, mỗi cá nhân mà “đó là nhưng lẽ phải không ai chối cãi được”, Người đặt lại vấn đề: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa...”. Luận điểm này đã được Người chứng minh rất cụ thể và sáng tỏ ở nhiều phương diện: Về chính trị; Về kinh tế
Sau khi chứng minh một cách hùng hồn bản chất vô nhân đạo của bọn thực dân Pháp, Người khẳng định một sự thật: “Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không là thuộc địa của Pháp nữa. Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp”.
Đây cũng là một luận điểm hết sức quan trọng trong hệ thống lập luận của tác giả bản Tuyên ngôn. Bởi vì xuất phát từ đây mà Người tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với thực dân Pháp. 
Kết luận bản Tuyên ngôn được rút ra như một lẽ tất yếu, một lôgic tự nhiên, một lẽ phải thông thường, ai cũng phải công nhận: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy”. 
Nghệ thuật lập luận còn phụ thuộc vào việc hành văn, giọng văn, vào cách dùng từ, đặt câu. Do nhu cầu lập luận, văn nghị luận thường phải dùng đến những từ như: thật vậy, thế mà, tuy nhiên, vả lại, mà còn, có nghĩa là, giả sử, nếu như, trước hết, tóm lại, nói chung... gọi là hệ thống từ lập luận. Chẳng hạn:
“Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh và vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống thấp. Bởi lẽ [] Không những [] lại [] Không những [] còn []. 
Để viết được một bài văn nghị luận hay là rất khó. Tạo nên bài văn nghị luận cần phải có nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, luận điểm và lập luận là những yếu tố quan trọng, quyết định hàng đầu đến chất lượng bài văn nghị luận. Thiếu các yếu tố này không thể tạo nên một bài văn nghị luận đích thực. 
3.2. Nắm chắc vai trò của việc dạy văn theo đặc trưng thể loại 
Mục tiêu của sách giáo khoa Ngữ văn THPT là nhằm giúp các em “tiếp xúc với những giá trị tinh thần phong phú và những đặc sắc về văn hoá, cảnh vật, cuộc sống, con người Việt Nam và thế giới thể hiện trong các tác phẩm văn học và trong các văn bản được học” , “có kĩ năng nghe,đọc một cách thận trọng, biết cách phân tích, nhận xét tư tưởng, tình cảm, và một số giá trị nghệ thuật của các văn bản được học, để từ đó hình thành ý thức và kinh nghiệm ứng xử thích hợp đối với những vấn đề được nêu ra trong các văn bản đó” (Bộ GD&ĐT, Chương trình SGK THPT môn Ngữ văn, NXBGD, H, 2005).
Tuy nhiên, môn Ngữ văn THPT không tự giới hạn ở mục tiêu riêng và chung đó. Với tư cách là môn học công cụ, môn Ngữ văn THPT còn phải hướng tới mục tiêu hình thành cho học sinh phương pháp đọc-hiểu các kiểu, loại văn bản, nhất là các văn bản ở dạng thức sáng tạo nghệ thuật trong và cả ngoài sách giáo khoa, nhưng bắt đầu từ sách giáo khoa phổ thông. Học sinh “biết đọc các kiểu văn bản theo đặc trưng kiểu văn bản, nâng cao năng lực tích hợp đọc và viết các văn bản thông dụng” (Bộ GD&ĐT, Tài liệu bồi dưỡng GV dạy SGK Ngữ văn 11, NXBGD, H, 2005).
Khi đã nắm được đặc trưng riêng của từng kiểu loại văn bản thì người học thể tiếp nhận được dễ dàng hơn những văn bản văn học cùng thể loại trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn. Điều này cho thấy, dạy học văn theo đặc trưng thể loại là con đường khoa học để chiếm lĩnh các văn bản Ngữ văn nói riêng, các văn bản văn học nói chung.
Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học văn bản Ngữ văn THPT chính là dạy học văn bản Ngữ văn phù hợp với đặc trưng thể loại. Đó được xem như là nguyên tắc dạy học đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình sách giáo khoa cấp học này.
3.3. Nắm chắc nguyên tắc đảm bảo đặc trưng thể loại 
Dạy đọc- hiểu văn bản nghị luận phải xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của văn nghị luận. Điều đó có nghĩa là ta phải xem văn bản nghị luận ấy có hệ thống luận điểm ra sao, luận điểm ấy được xây dựng trên lí lẽ, dẫn chứng xác đáng như thế nào? Sức thuyết phục vào tư duy, lí trí ra sao? Qua đó thể hiện được quan điểm, tư tưởng và thái độ đánh giá của tác giả như thế nào? Khi nắm vững được đặc trưng thể loại văn bản nghị luận sẽ tạo ra hiệu quả cao trong giờ đọc- hiểu văn bản, bởi nó quy định cách thức tổ chức giờ dạy cũng như phương pháp, cách thức triển khai bài học một cách hợp lí nhất. Điều đó cũng yêu cầu một năng lực sư phạm và tính sáng tạo của ngơì thầy.
Trong giờ đọc-hiểu văn bản nghị luận trước hết người giáo viên phải cho học sinh nắm rõ được đặc trưng của chính đối tượng mình tìm hiểu. Ta có thể thực hiện công việc đó bằng hệ thống câu hỏi đưa đến cho học sinh: Em hãy nêu rõ đặc trưng cơ bản của một văn bản nghị luận ? Cho học sinh tự trả lời câu hỏi, sau đó giáo viên khái quát lại cách thức chung khi tìm hiểu một văn bản nghị luận: 
- Xác định hệ thống luận điểm của văn bản.
- Luận điểm đó được triển khai qua các luận chứng, dẫn chứng.
- Nhận xét về đặc sắc nghệ thuật của văn bản nghị luận: hệ thống lập luận, ngôn ngữ, lí lẽ, cú pháp, từ ngữ. 
- Sức tác động và thuyết phục của văn bản đối với người đọc qua đó thấy rõ được thái độ, tư tưởng của tác giả.
Việc đọc - hiểu văn bản nghị luận dựa vào đặc trưng của nó cho phép khai thác triệt để và khoa học các văn bản. Muốn khai thác thấu đáo các giá trị văn bản theo đặc trưng của nó, ta cần phải huy động một cách thức tổ chức giờ đọc – hiểu hợp lí nhất, phát huy vai trò của chủ thể dạy và học một cách chủ động, tích cực, tạo ra hiệu quả cao trong giờ đọc hiểu văn bản .
Sỡ dĩ dạy đọc - hiểu văn bản nghị luận phải đảm bảo nguyên tắc đặc trưng thể loại vì xuất phát từ nguyên tắc dạy học nói chung và dạy học Văn nói riêng là phải tôn trọng đặc trưng bộ môn. Một nguyên tắc không thể không lưu ý trong dạy học là phải nắm vững đối tượng cần tìm hiểu. Có nắm vững đối tượng mới có một phương pháp, cách thức phù hợp để khám phá đối tượng đó.
3.4. Nắm chắc định hướng dạy văn nghị luận theo đặc trưng thể loại
Mục tiêu phân tích tác phẩm không đặt ra sự cần thiết phải đi theo một quy trình nào bởi lẽ có nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Có thể nói mỗi một cá nhân tiếp nhận là một hướng tiếp cận riêng bởi mỗi người tuỳ trình độ, vốn sống, sở thích... mà có khả năng, có cách tiếp nhận khác nhau. Nhưng mục tiêu đọc-hiểu văn bản với yêu cầu giúp học sinh vừa chiếm lĩnh được nội dung văn bản văn học, vừa có kiến thức công cụ về mặt đặc trưng thể loại của văn bản văn học đó cho phép nghĩ tới các bước của hoạt động đọc-hiểu này.
Tiến trình một giờ dạy học văn bản văn nghị luận có thể diễn ra theo quy trình như sau: 
Bước 1: Đọc-hiểu cấu trúc văn bản 
Nội dung của hoạt động này là giúp học sinh tiếp nhận các dấu hiệu chính về đặc trưng thể loại văn nghị luận. Đó là đọc để phát hiện ra các luận điểm và cách lập luận của tác giả. Tức là đọc để xác định được đó có phải là văn bản nghị luận hay không, tại sao? 
Đây là bước quan trọng mà bất kì giờ Đọc-hiểu văn bản nào cũng phải thực hiện. Song, trước đây, do nhận thức sai lầm về bản chất của quá trình dạy học mà giáo viên là chủ đạo, là trung tâm, còn học sinh thụ động lắng nghe và ghi chép, mà nhiều giáo viên đã bỏ qua bước này hoặc chỉ thực hiện mang tính chiếu lệ, qua loa, không phát huy được tác dụng của nó.
Bước 2: Đọc-hiểu nội dung văn bản
Đây là bước tiếp theo của quá trình đọc-hiểu nhằm phát hiện, phân tích, đánh giá văn bản từ các yếu tố nội dung - hình thức nổi bật. Khái niệm nội dung văn bản được dùng theo cách hiểu biện chứng về mối quan hệ nội dung - hình thức, nghĩa là nội dung mang tính hình thức và ngược lại. Không có nội dung nào nằm ngoài hình thức của nó. 
Đọc-hiểu nội dung văn bản nghị luận là đi làm sáng tỏ, cụ thể các luận điểm và cách thức tổ chức các luận điểm (lập luận) của văn bản - những nội dung đã được tìm ra một cách khái quát ở bước thứ nhất.
3.5. Nắm chắc phương pháp dạy văn nghị luận
Như đã nói ở phần Đặc trưng của văn nghị luận, văn nghị luận là một thể tài đặc biệt, nó mang những đặc điểm riêng, khác biệt so với các văn bản văn học mang tính “hư cấu”. Do vậy, phương pháp dạy văn nghị luận ngoài việc tuân thủ những phương pháp dạy học văn nói chung nó còn sử dụng những phương pháp chung đó theo cách riêng, phù hợp với đặc trưng của mình.
- Phương pháp đọc diễn cảm
- Phương pháp tái tạo, tái hiện
 - Phương pháp đàm thoại gợi mở
 - Phương pháp giảng bình
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm 
4.1. Áp dụng sáng kiến kinh nghiệm 
Lựa chọn đối tượng thực nghiệm là học sinh trường THPT Hồng Quang -Lục Yên - Yên Bái năm học 2014 - 2015.
- Lớp thực nghiệm: 11A3 (37 học sinh); 10A2 (44 học sinh) 
- Lớp đối chứng: 11A1 (39 học sinh); 10A1 (39 học sinh) 
Đây là những lớp có sức học Trung bình - Khá, phản ánh mặt bằng trình độ học sinh của trường THPT Hồng Quang - Lục Yên - Yên Bái.
4.2. Thiết kế thực nghiệm: 
4.2.1. Mục đích thực nghiệm
- Thiết kế thực nghiệm hai văn bản nghị luận: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia của Thân Nhân Trung (Ngữ văn 10 – tập 2) và Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh Ngữ văn 11 - 2) để thể hiện và vận dụng những nội dung lí thuyết đã nghiên cứu, đề xuất.
- Bước đầu xác lập được định hướng cũng như phương pháp dạy học văn bản nghị luận theo hướng đổi mới của SGK Ngữ văn. 
4.2.2. Văn bản dạy thực nghiệm
Văn bản được lựa chọn để thiết kế thực nghiệm là:
- Hiền tài là nguyên khí của quốc gia - Thân Nhân Trung (Ngữ văn 10 – tập 2)
- Một thời đại trong thi ca - Hoài Thanh (Ngữ văn 11 – tập 2)
Người viết lựa chọn hai văn bản này để thiết kế thực nghiệm bởi: Hai văn bản này vừa đảm bảo được tính tiêu biểu về giá trị tư tưởng và nghệ thuật của thể văn nghị luận, vừa bao quát được tính tiến trình lịch sử – Hiền tài là nguyên khí của quốc gia là một trong những văn bản nghị luận mẫu mực thời trung đại, Một thời đại trong thi ca lại là một trong những văn bản nghị luận văn học thuộc loại tiêu biểu và xuất sắc nhất trong kho tàng tiểu luận, phê bình văn học Việt Nam hiện đại. Thông qua sự thiết kế thể hiện này, chúng ta sẽ thấy sự linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp dạy học đã đề xuất ở mỗi văn bản nghị luận thuộc mỗi thời kì lịch sử. 
Bài 1: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia – Thân Nhân Trung (tại Phụ lục 1)
Bài 2: Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh (tại Phụ lục 2)
4. 3. Đánh giá thực nghiệm
Từ thực tế dạy học của bản thân qua những năm gần đây ở các khối lớp ban Cơ bản tại trường THPT Hồng Quang, tôi nhận thấy giải pháp này có những ưu điểm sau đây:
Giờ học gây hứng thú thực sự cho học sinh, sự yêu thích tăng lên rõ rệt. Không những học sinh hiểu văn bản mà còn hiểu thêm về lịch sử.
Phát huy được sự tích cực chủ động của học sinh trong giờ học. Giờ học tác phẩm trở thành giờ phát hiện những thông tin, nuôi dưỡng cảm xúc và mĩ cảm nghệ thuật, bày tỏ quan điểm, thái độ và cách nhìn mới mẻ của học sinh.
Phát huy năng lực nhiều mặt của học sinh: khả năng bình luận, thẩm bình, ngôn ngữ và cách diễn đạt được nâng lên rõ rệt.
Kết quả: sau khi học xong các văn bản nghị luận có thực hiện các phương pháp bổ trợ này, tôi đã thu được kết quả rất khả quan. Có 90,91% đến 91,89% học sinh ở những lớp tôi giảng dạy trả lời là rất hứng thú với bài học, hiểu bài hơn, dễ nhớ hơn tuy có vất vả hơn. 
Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm, tối thấy kết quả số học sinh hiểu, làm bài được thống kê như sau:
Kết quả cụ thể:
Thời gian
Lớp
Tổng số bài
Thích
Thích học nhưng chưa thật sự hiểu
Không thích, không hiểu
Lớp đối chứng
15/01/2015
11A1
39
6 = 15,38%
3 = 7.7%
30 = 76,92%
10A1 
39
8 = 20,51%
3 = 7,7% 
28 = 71,79%
Lớp thực nghiệm
24/01/2015
11A3
37
34 = 91,89%
2 = 5,40%
1 = 2,71%
10A2
44
40 = 90,91%
2 = 4,55%
2 = 4,55%
Kết quả bài kiểm tra:
Kết quả
Điểm 8-9
Điểm 6-7
Điểm 4-5
Điểm 1-3
So sánh
11A1
15/39 
12/39
4/39
8/39
Còn tồn tại điểm 1 - 3
10A1
12/39
12/39
4/39
9/39
11A3
18/39
12/37
5/39
2/39
Điểm 5 - 9 tăng
10A2
20/44
18/44
2/44
2/44
* Tiểu kết:
Khi soạn giảng và dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ văn theo cách trên, tôi nhận thấy có một số khó khăn sau:
Tốn khá nhiều thời gian tìm hiểu lịch sử phục vụ cho từng bài giảng.
Đôi khi xảy ra tình trạng “cháy” giáo án, những câu trả lời của học sinh ngoài dự định,Dù vậy thì cách dạy này cũng là một trong những giải pháp khá hữu hiệu cho nên ta có thể vận dụng. Chỉ cần giáo viên:
Chuẩn bị bài giảng kĩ.
Sưu tầm và chọn lựa những câu chuyện, bài thơ, giai thoại, chi tiết về văn hoá, phong tục tập quán phù hợp với bài học cụ thể.
Thiết kế các bước lên lớp hợp lí, chặt chẽ, uyển chuyển.
Giao việc chuẩn bị phù hợp, vừa sức với từng đối tượng học sinh sẽ thu được kết quả khả quan. Dĩ nhiên giáo viên cũng không nên lạm dụng quá dễ gây phản tác dụng, dẫn tới khả năng hiểu trọn vẹn văn bản của học sinh bị hạn chế.
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận trong chương trình Ngữ Văn có một ý nghĩa quan trọng: không chỉ là việc mở rộng phạm vi hiểu biết về các thể loại văn học, hiểu biết về các vấn đề chính trị xã hội, văn hoá (trong nhiều không gian, thời gian khác nhau)mà còn nhằm xây dựng cho học sinh thái độ đúng, quan điểm tiến bộ về các vấn đề chính trị xã hội, văn hoá, hình thành những phẩm chất cao đẹp, năng lực ứng xử, biết phát hiện và giải quyết các vấn đề một cách thoả đáng, hợp lí, bồi dưỡng các kĩ năng cần thiết cho hành trang tương lai của học sinh: ngôn ngữ, diễn đạt, lập luận, óc phê phán, tinh thần phản bác trước các hiện tượng tiêu cực trong đời sống hiện tại.
	Thể loại văn nghị luận giữ một vị trí khá quan trọng trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT. Các văn bản nghị luận trong sách giáo khoa đều có tính tư tưởng cao và giàu tính nghệ thuật. Do đó, đảm bảo một giờ dạy văn nghị luận có hiệu quả là một yêu cầu và cũng là một “thử thách” đối với giáo viên dạy văn. 
Vì vậy, việc nghiên cứu để nắm vững đặc điểm của thể loại nghị luận và những phương pháp dạy học văn nghị luận ở trường THPT có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả của việc dạy học nghị luận.
Thực tiễn giảng dạy văn bản nghệ thuật nói chung, văn bản nghị luận nói riêng, việc tuân thủ nguyên tắc: bám sát hoàn cảnh nảy sinh tác phẩm (hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh cảm hứng), bám sát văn bản ngôn từ tác phẩm, dựa vào đặc điểm cá tính sáng tạo của nhà văn, những tri thức về văn hoá và quy luật tâm lí, xã hội  vẫn là những căn cứ khoa học vững chắc trong việc chiếm lĩnh và triển khai nội dung, hình thức, ý nghĩa và các giá trị tác phẩm. 
Việc giảng dạy các văn bản nghị luận gặp không ít khó khăn về nhiều mặt (tầm hiểu biết về chính trị, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tài liệu tham khảo, thời gian, không gian của văn bản, tâm lí giảng dạy của giáo viên và tiếp nhận của học sinh). Vì vậy, đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực rèn luyện không ngừng mới mong có những giờ học hiệu quả thật sự theo tinh thần đổi mới hiện nay. Phương pháp dạy học không phải là mở “lý thuyết trừu tượng” mà là sự cụ thể hoá bằng việc thiết kế bài giảng, quá trình hiện thực hoá bài giảng trên lớp. 
KIẾN NGHỊ
+ Nhà trường nên tạo điều kiện cho Giáo viên có năng lực không chỉ trong lĩnh vực kĩ thuật, mà trong tất cả các lĩnh vực khác có điều kiện để nghiên cứu 
+ Có sự hỗ trợ về kinh phí và có sự động viên kịp thời khi giáo viên đưa ra những ý tưởng, sáng kiến, đề tài có tính khả thi cao
+ Nên có những buổi sinh hoạt chuyên đề nhằm trao đổi kinh nhiệm về chuyên môn và những vấn đề có liên quan trong việc chế tạo đồ dùng, từ đó có thể rút ra các giải pháp phù hợp với từng môn học và với đối tượng học sinh.
Việc đưa ra một vài giải pháp có tính bổ trợ thêm như trên chỉ là những kinh nghiệm có tính chất cá nhân được rút ra trong quá trình giảng dạy của bản thân. Vì thế, khó tránh khỏi những khiếm khuyết và hạn chế nhiều mặt. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến tích cực từ phía quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp.
 	 , tháng 02 năm 2015
 	Người thực hiện
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN

File đính kèm:

  • docSKKN_Van_12.doc
Sáng Kiến Liên Quan