Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh

Là phương pháp đặc biệt đối với môn Ngữ văn. Trong đó đọc diễn cảm là một phần của đọc sáng tạo. Đọc diễn cảm được tiến hành chủ yếu trong giờ học Văn ở trong lớp học. Nó được vận dụng trong suốt giờ học cho đến khi kết thúc bài học. Việc đọc sáng tạo kết hợp hài hòa với cá phương pháp khác.

Ưu điểm của phương pháp đọc sáng tạo: Việc đọc sáng tạo trong giờ văn là phương pháp không thể thiếu trong dạy học Văn nhất là khi dạy các tác phẩm thơ. Không có giờ học Văn nào lại không vận dụng phương pháp này, không bài thơ nào được học lại không bắt đầu với việc đọc văn bản. Vì vậy phương pháp này quan trọng, cần thiết.

Nhược điểm: Phương pháp đọc sáng tạo không có nhược điểm, chỉ có giáo viên có quan niệm chưa đúng và vận dụng chưa phù hợp. Có người cho rằng chỉ cần đọc đầu tiết học, lại cũng có người cho rằng lúc nào cũng phải đọc mới là đổi mới. Cả hai cách vận dụng trên đều chưa thật đúng đắn.

 

doc22 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 4316 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Dạy học thơ hiện đại Việt Nam lớp 9 theo định hướng phát triển năng lực cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 (phân tích lối sống tích cực của nhà thơ, đối chiếu với lối sống tích cực của đại bộ phận thanh niên ngày nay), có thể thấy được mặt trái của lối sống tiêu cực của một phần nhỏ thanh niên: thiên về lối sống hưởng thụ là chính, lười học, lười lao động...
Hoặc cũng có thể yêu cầu học sinh đưa ra những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể từ việc vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu. Cũng có thể cho học sinh tự rút ra bài học cuộc sống từ văn bản. 
Ví dụ 1: sau khi học xong văn bản thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, học sinh sẽ vận dụng những kiến thức đọc hiểu để giải quyết một vấn đề cụ thể: Mối quan hệ giữa bếp lửa trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt với bếp lửa đời thường. Trước vấn đề đặt ra của tình huống này, học sinh có thể vận dụng bài đọc hiểu để giải quyết theo nhiều cách khác nhau nhưng cần thấy được mối quan hệ giữa 2 hình ảnh trên: bếp lửa đời thường là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam, gợi sức sống và tình cảm gia đình, sự bình yên, no ấm. Bếp lửa trong thơ Bằng Việt ngoài những ý nghĩa trên, đó còn là hình ảnh gắn với bà, nó cũng giống bếp lửa củi rơm trong đời thực nhưng nó giúp ta cảm nhận rõ hơn về tình bà cháu, tình quê nồng ấm. ..Từ bếp lửa đời đến bếp lửa trong thơ Bằng Việt là hành trình của tình yêu, nỗi nhớ, sự biết ơn và sức sống mãnh liệt...
Ví dụ 2: Sau khi học xong văn bản “Bếp lửa”, giáo viên yêu cầu học sinh rút ra bài học cuộc sống: Trong cuộc sống, con người dù có trưởng thành đến đâu cũng không bao giờ được phép quên đi cội nguồn: ở đó có gia đình, có bà, có tuổi thơ, có quê hương... Đó chính là những hành trang không thể thiếu trên đường đời của mỗi con người, là chỗ dựa tinh thần, là nơi dù đi đâu ta cũng phải tìm về.
Ví dụ 3: Từ hiểu biết về bài “Đồng chí”, hãy triển khai một đoạn văn theo luận đề: Những người đồng chí, từ cuộc đời thật đi vào thơ ca. Học sinh cũng vận dụng hiểu biết một cách linh hoạt, miễn là đảm bảo các ý: Từ đời thật: là những người línhcó thực trong đời sống. Họ xuất thân từ nông dân,từ những làng quê nghèo xơ xác. Nay họ tạm biệt gia đinh, quê hương vào chiến trường... Đi vào thơ ca: Chính hình ảnh giản dị, chân thực của họ đã làm nên chất thơ (nhà thơ không hề tô vẽ, mà viết về họ một cách chân thực)...
2.1.5. Hoạt động bổ sung: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm thêm những văn bản khác ngoài sách giáo khoa có cùng chủ đề với văn bản được học, để tự bổ sung thêm vốn hiểu biết cho bản thân, hoặc có thể vận dụng kiến thức của phần đọc hiểu của văn bản vừa học để đọc hiểu các văn bản ngoài sách giáo khoa đó.
Ví dụ: Sau khi học xong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật, học sinh tìm thêm những bài thơ khác cùng chủ đề người lính trong thời kì đó của tác giả khác hoặc của Phạm Tiến Duật. Bài tập này có thể giao về nhà cho học sinh tìm hiểu. Giáo viên cũng có thể cung cấp thêm cho học sinh những tác phẩm tương tự ngoài sách giáo khoa, chẳng hạn “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”... 
Từ hoạt động bổ sung đó, giáo viên yêu cầu các em về nhà tự tìm hiểu thêm hoặc phải tự làm việc với các văn bản đó: như tìm hiểu chi tiết, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật..	
 2.2. Vận dụng dạy học theo bảng KWL: 
KWL do Donna Ogle giới thiệu năm 1986, vốn là một hình thức tổ chức dạy học hoạt động đọc hiểu. Học sinh bắt đầu bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết về chủ đề bài đọc. Thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột K (biết) của biểu đồ. Sau đó học sinh nêu lên danh sách các câu hỏi về những điều các em muốn biết thêm trong chủ đề này. Những câu hỏi đó sẽ được ghi nhận vào cột W (Thắc mắc) của biểu đồ. Trong quá trình đọc hoặc sau khi đọc xong, các em sẽ tự trả lời cho các câu hỏi ở cột W. Những thông tin này sẽ được ghi nhận vào cột L (Học cái gì)
*Mục đích sử dụng biểu đồ KWL
Biểu đồ KWL phục vụ cho các mục đích sau:
Tìm hiểu kiến thức có sẵn của học sinh về bài đọc 
Đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc 
Giúp học sinh tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em 
Cho phép học sinh đánh giá quá trình đọc hiểu của các em. 
- Tạo cơ hội cho học sinh diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn khổ bài đọc. 
* Sử dụng biểu đồ KWL :
- Chọn bài đọc. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích
- Tạo bảng KWL. Giáo viên vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi học sinh cũng có một mẫu bảng của các em. Có thể sử dụng mẫu sau.
 - Đề nghị học sinh động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả giáo viên và học sinh cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho học sinh thảo luận về những gì các em đã ghi nhận. Chuẩn bị những câu hỏi để giúp học sinh động não. Đôi khi để khởi động, học sinh cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em : “Hãy nói những gì các em đã biết về...”. Khuyến khích học sinh giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường.
- Hỏi học sinh xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả giáo viên và học sinh ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi học sinh đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Nếu học sinh trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.
- Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em : “Các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề này?” Đôi khi học sinh trả lời đơn giản “không biết”, vì các em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau :
“Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này?”
Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi, “Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có liên quan đến ý tưởng này không?”
Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể bạn mong muốn học sinh tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của học sinh lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi của học sinh.
- Yêu cầu học sinh đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L. Trong quá trình đọc, học sinh cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và ghi nhận vào cột W.
Học sinh có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong.
Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích học sinh ghi vào cột L những điều các em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng của các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời cho câu hỏi ở cột W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao.
Đề nghị học sinh tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời. (Không phải tất cả các câu hỏi ở cột W đều được bài đọc trả lời hoàn chỉnh)
- Thảo luận những thông tin được học sinh ghi nhận ở cột L
- Khuyến khích học sinh nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc.
Ví dụ: Khi dạy “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật.
Hoạt động 1: Khởi động: giáo viên cho học sinh hoạt động nhóm theo những câu hỏi sau để các em điền những thông tin các em đã biết về bài thơ, về tác giả của bài thơ. Phần này chúng ta có thể vận dụng trong tất cả các giờ dạy thơ hiện đại.
Giáo viên sẽ vẽ bảng KWL lên bảng, học sinh vẽ vào vở.
Cụ thể:
Câu 1: Em có những hiểu biết gì về tác giả Phạm Tiến Duật( năm sinh, năm mất, quê quán, sự nghiệp thơ, phong cách thơ, đề tài thơ quen thuộc...)
Câu 2: Em hiểu gì về tác phẩm? (Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ, thể loại, bố cục, giọng điệu..)
Câu 3: Bài thơ đề cập tới chủ đề nào, có phải là những chiếc xe không kính không?
Các câu hỏi khởi động, học sinh nhanh chóng thảo luận và có câu trả lời, các em sẽ điền những thông tin ấy vào cột K.
Hoạt động 2: Khám phá tác phẩm: 
Phần này học sinh nêu những thắc mắc của các em về bài thơ, có thể các em sẽ có rất nhiều thắc mắc, tuy nhiên các thắc mắc của học sinh, kết hợp với câu hỏi gợi mở của giáo viên để giáo viên hướng dẫn các em khám phá các giá trị văn bản.
? Tại sao bài thơ lấy hình ảnh những chiếc xe không kính, mà không phải là hình ảnh nào khác? Hình ảnh này có gì độc đáo?
? Từ chiếc xe không kính làm nổi bật hình tượng người lính lái xe trong thời chống Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn? Tại sao xe không kính mà họ vẫn ra chiến trường được, thậm chí vẫn lạc quan?
? Giọng điệu bài thơ rất lạ, không giống những bài thơ khác?
GV đặt câu hỏi thêm cho các em:
? Cảm nghĩ của em về hình ảnh thế hệ trẻ VN trong chống Mĩ, So sánh với người lính chống Pháp?...
Sau khi đưa ra từng câu hỏi, các em ghi vào cột W, rồi tự đọc văn bản để tự tìm câu trả lời bằng cách thảo luận. Nếu đã có câu trả lời các em sẽ tự điền vào cột L. Tuy nhiên phần này, chúng ta chỉ vận dụng ít, còn phần lớn vẫn là cách giáo viên đưa ra các câu hỏi gợi tìm, học sinh hoạt động cá nhân hoặc nhóm để giải quyết các câu hỏi.
Hoạt động 3: Vận dụng: 
Học sinh làm thêm câu hỏi cuối cùng mà giáo viên đưa ra ở phần tìm hiểu tác phẩm theo suy nghĩ riêng của cá nhân các em. Mọi ý kiến của học sinh được tôn trọng, miễn là lập luận hợp lý và thuyết phục. Phần này cũng vận dụng tốt trong giờ dạy thơ (có thể để cuối mỗi giờ học).
MINH HỌA BẢNG KWL NHƯ SAU:
K (Biết)
W (Thắc mắc)
L (Học cái gì)
Tác giả: Phạm tiến Duật, quê huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; đề tài quen thuộc là thế hệ trẻ chống Mỹ; phong cách thơ sôi nổi, trẻ trung, tinh nghịch
- Tác phẩm: ra đời 1969, thơ tự do, giọng điệu tự nhiên, khỏe khoắn..
- Từ chiếc xe không kính để nói về người lính
? Tại sao bài thơ lấy hình ảnh những chiếc xe không kính, mà không phải là hình ảnh nào khác? Hình ảnh này có gì độc đáo?
? Từ chiếc xe không kính làm nổi bật hình tượng người lính lái xe trong thời chống Mỹ trên tuyến đường Trường Sơn như thế nào? Tại sao xe không kính mà họ vẫn ra chiến trường được, thậm chí vẫn lạc quan?
? Giọng điệu bài thơ rất lạ, không giống những bài thơ khác?
?Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ?
GV đặt câu hỏi thêm cho các em:
? Cảm nghĩ của em về hình ảnh thế hệ trẻ VN trong chống Mĩ? So sánh với người lính chống Pháp? Tự
- Hình ảnh xe không kính độc đáo vì thường người ta đưa vào thơ những hình ảnh đẹp, ở đây tác giả lại chọn hình ảnh bị tàn phá của chiến tranh-> chất thơ
- Các phẩm chất cao quý của người lính:...
-Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ, giọng thơ như lời nói bình thường.
Còn lại các câu hỏi khác các em làm việc cá nhân để phát huy khả năng sáng tạo.
 2.3. Vận dụng dạy học nêu vấn đề:
Dạy học nêu vấn đề hay còn gọi là dạy học giải quyết vấn đề. Dạy học nêu vấn đề có những đặc trưng sau:
*Vấn đề và tình huống có vấn đề.
Vấn đề: là một sự việc, một hiện tượng, một khái niệm, một hiện trạng tồn tại khách quan mà ta gặp phải trong tư duy và hành động. Vấn đề này có thể ta chưa biết hoặc biết rất ít về nó.
Tình huống có vấn đề: là một trạng thái tâm lý nảy sinh ở chủ thể trong khi gặp một khó khăn, một vấn đề cần giải quyết và để giải quyết vấn đề đó chủ thể cần đến tri thức mới, cách thức hành động mới (tương tự như tâm trạng người học khi gặp một bài toán mới, khó). Có 3 yếu tố cấu thành tình huống có vấn đề:
- Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học.
-  Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết.
Ví dụ: Khi dạy “Mùa xuân nho nhỏ” – Thanh Hải, có thể học sinh đặt ra sự thắc mắc ngay đầu tiết học: Tại sao tên bài thơ lại độc đáo như thế? Mùa xuân là danh từ chỉ thời gian, vô hình, lại được đặt bên cạnh một tính từ nho nhỏ có hình khối, lại nhỏ chứ không phải là “lớn” hay “chín”. Điều này có ý nghĩa gì? Như vậy là các em đã có nhu cầu cần tìm hiểu vấn đề có tình huống và giờ học chính là giáo viên đưa các em vào tình huống có vấn đề để tự tìm ra câu trả lời, giải quyết tình huống đó.
*Các hình thức tổ chức đa dạng trong dạy học nêu vấn đề:
- Hình thức thứ nhất: Làm bài tập dạng đề án
Thiết kế, làm đề án là một dạng hoạt động sử dụng các năng lực trí tuệ rất khác nhau của con người, đòi hỏi con người phải có năng lực tổng hợp, phân tích, khả năng lập luận có logic, sự sáng tạo, óc tưởng tượng và khả năng ghi nhớ. Việc sử dụng những bài tập thiết kế đề án trong dạy học cho phép kích thích các hoạt động tư duy đa dạng của HS, giúp HS thoát khỏi cách học thụ động: lặp lại y nguyên lời giảng của thầy. Trong thực tế ta thấy có thể có nhiều câu trả lời cho một câu hỏi, điều này càng đúng với môn văn: có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về một tác phẩm.
Với trình độ học sinh THCS chúng tôi chỉ vận dụng hình thức này dưới dạng đề án nhỏ: Ví dụ, trước khi học về “Mùa xuân nhỏ nhở” - Thanh Hải, giáo viên yêu cầu học sinh về nhà sưu tập những tư liệu về tác giả. Mỗi nhóm một phần việc. Nhóm 1: sưu tầm những tư liệu về cuộc đời nhà thơ, nhóm 2: Sưu tầm những tác phẩm của nhà thơ, nhóm 3: sưu tầm những hình ảnh, hoặc bài hát về quê hương nhà thơ. Như vậy mỗi nhóm học sinh phải chịu trách nhiệm về một phần việc cụ thể để trình bày vào đầu tiết học. (Phần này chúng tôi kết hợp với vận dụng dạy học theo bảng KWL).
Khi ra một bài tập dạng đề án cho HS, GV cần chú ý hướng dẫn HS:
Thu thập tài liệu cần thiết cho bài tập đề án, ghi chép, photo lại tài liệu.
- Xác định rõ các bước tiến hành, mục đích, yêu cầu cho đề án.
- Liệt kê những câu hỏi và những vấn đề chưa được giải quyết.
- Ðịnh rõ thời gian làm việc và hình thức trình bày kết quả (thuyết trình trước lớp, dán báo tường...)
* Hình thức thứ 2: thảo luận (đã vận dụng kết hợp khi tổ chức các hoạt động khám phá tác phẩm)
* Hình thức thứ 3: sắm vai (role play): có nhiều hình thức sắm vai như:
+ Cho HS sáng tạo lời nói, ý nghĩ nhân vật thay cho tác giả.
+ Nhập vai người kể chuyện để bình luận, đánh giá về nhân vật, sự kiện, tình huống theo quan điểm của mình.
+ Ðóng vai nhân vật để phát biểu suy nghĩ chủ quan về những con người, hoàn cảnh, sự kiện, tình huống trong tác phẩm.
+ Tham dự vào tác phẩm với tư cách là người trong cuộc: ví dụ đặt mình vào vị trí nhân vật và hình dung thái độ, phản ứng của mình trước các sự kiện.
Ví dụ: Nếu em là người lính trong bài thơ “Ánh trăng” liệu em có thái độ và hành động như người lính khi gặp lại vầng trăng không? Với tình huống này học sinh có thể tự hình dung và có những câu tả lời khác nhau.
- Hình thức thứ 4: thực hiện một đề tài nghiên cứu nhỏ. Giáo viên ra một đề tài nhỏ, yêu cầu HS thực hiện sau đó báo cáo và thuyết trình về một vấn đề nào đó của tác phẩm với nhiều hình thức như: cá nhân viết hoặc cả nhóm cùng viết, trình bày ở nhóm nhỏ, báo cáo của nhóm trước cả lớp hoặc dán báo tường....
Ví dụ: Suy nghĩ của em về con người Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau khi học xong hai bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Học sinh tự suy nghĩ và cảm nhận về con người (Từ điểm giống và khác nhau qua hai tác phẩm đó).Việc làm này có thể yêu cầu học sinh về nhà làm và giáo viên kiểm tra vào hôm sau.Hoặc đưa ra ở giờ ôn tập thơ hiện đại Việt Nam.
Như vậy việc sử dụng dạy học nêu vấn đề là một hình thức dạy học phát huy được tính sáng tạo, tích cực của học sinh nhưng cũng là một hình thức còn mới mẻ và tương đối khó với HS. Do vậy, khi áp dụng kiểu dạy học này GV cần có sự hướng dẫn cụ thể và cần chú ý đến trình độ HS. Hình thức nàyrất thích hợp với các lớp HS giỏi, khá, với các lớp trung bình hình thức này chỉ nên sử dụng trong mức độ nhất định.
 V. Hiệu quả kinh tế và xã hội
 	 1. Hiệu quả đạt được:
 1.1.Hiệu quả xã hội:
Với các giải pháp mới mà chúng tôi đề xuất vào việc giảng dạy thơ hiện đại lớp 9, đã bước đầu góp phần vào việc phát triển năng lực cho học sinh, góp một phần vào mục tiêu của ngành giáo dục là đào tạo những con người phát triển toàn diện. Các em được hình thành năng lực như năng lực hợp tác, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Tất cả các năng lực đó trong cuộc sống đều rất cần. Không một lĩnh vực nào của xã hội mà không cần giao tiếp tiếng Việt, không lĩnh vực nào không cần đến năng lực hợp tác, sự sáng tạo...tất cả đều rất cần cho xã hội hiện đại.
Các giải pháp trên không chỉ vận dụng vào dạy các tác phẩm thơ hiện đại lớp 9 mà còn vận dụng được ở các tác phẩm thơ hiện đại và thơ của trung đại ở các lớp dưới. Thậm chí có thể áp dụng trong dạy học môn Ngữ văn cấp THCS nói chung.
 Đó chính là tính mới mang lại hiệu quả xã hội thiết thực nhất.
 1.2.Hiệu quả kinh tế: 
Với việc ứng dụng những giải pháp trên vào việc dạy và học môn Ngữ văn, không mất nhiều thời gian, tiền của, lại đem đến sự hứng thú học tập, khơi gợi trong học sinh niềm say mê, khám phá. Các em sẽ không mất thời gian vào những trò chơi vô bổ, lãng phí thời gian và có tâm lý học tập tốt không chỉ môn Ngữ văn mà ở tất cả các môn khác nữa. 
 	2. Kết luận 
 2.1.Kết quả cụ thể khi áp dụng đề tài:
Khi áp dụng giảng dạy vào thực tế, hầu hết học sinh đều rất phấn khởi, có hứng thú với giờ học và tích cực học tập.
Cụ thể: Khi kiểm tra tại lớp học: 20 em học sinh, chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm trung bình
Điểm yếu
4 (20%)
6 (30%)
10 (50%)
0 (0%)
Đối chiếu với kết quả đầu năm
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm trung bình
Điểm yếu
2 (10%)
3 (15%)
13 (65%)
2 (10%)
Đối chiếu với kết quả: Lớp 9A của năm trước:
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm trung bình
Điểm yếu
1/ 25 (4%)
5/25 (20%)
17/25 (68%)
2/25 (8%)
Đối chiếu với lớp 9B không áp dụng dạy thực nghiệm:
9A (chưa thực nghiệm)
Sĩ số: 25hs
Điểm giỏi:
2/25=8%
Điểm khá
4/25=16%
Điểm TB
17/25=68%
Điểm yếu
2/25=8%
9B (dạy thực nghiệm)
Sĩ số: 20hs
4/20=20%
6/20= (30%)
10/20= (50%)
0/20= 0%
Như vậy, rõ ràng áp dụng cách dạy này đã có hiệu quả rõ rệt.
 	 2.2. Bài học kinh nghiệm:
Để việc dạy thơ hiện đại lớp 9, cũng như dạy các tác phẩm thơ khác ở các lớp khác của môn Ngữ văn cấp THCS hướng tới phát triển năng lực người học, người giáo viên có thể vận dụng nhiều hình thức tổ chức dạy học phong phú, đa dạng. Trong khi tổ chức các hoạt động ấy phải vận dụng các phương pháp đặc thù vốn có của môn Ngữ văn một cách linh hoạt kết hợp với việc vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực như thảo luận nhóm, dạy học nêu vấn đề, dạy theo bảng thông minh... Đồng thời cần vận dụng dạy đọc hiểu với dạy học theo hướng tích hợp phân môn và liên môn. 
 VI. Điều kiện và khả năng áp dụng của đề tài:
Điều kiện: Để đề tài được ứng dụng rộng rãi không chỉ ở giờ dạy và học Văn, mà còn ở các môn khác, đòi hỏi người giáo viên luôn phải suy nghĩ tìm tòi, vận dụng và rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả giờ dạy của mình. Người thầy phải thực sự say nghề, yêu nghề và nắm bắt nhanh nhạy tâm lý người học để tự điều chỉnh phương pháp, ứng phó kịp thời với các tình huống sẽ xảy ra trong giờ học. 
Về phía các nhà trường cũng cần quan tâm tới việc đổi mới phương pháp ở giáo viên, biểu dương kịp thời những giáo viên vận dụng sáng tạo phương pháp mới, khuyến khích nhân rộng việc đổi mới phương pháp tới từng giáo viên. Động viên giáo viên tham gia các cuộc thi chuyên môn như giáo viên giỏi, thi kiến thức liên môn để nâng cao tay nghề và có điều kiện học hỏi bạn bè đồng nghiệp các nơi.
Khả năng áp dụng:
Với đề tài trên, giáo viên Ngữ văn có thể vận dụng rộng rãi các giải pháp mới vào dạy nhiều kiểu bài khác nhau, nhiều thể loại văn học (Thơ, truyện...) và thậm chí áp dụng trong cả dạy tiếng Việt và làm văn. Việc vận dụng dạy tích hợp kiến thức liên môn, dạy học nêu vấn đề rất khoa học có thể vận dụng hết sức sáng tạo trong các môn học khác nữa. Các môn học khác như Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc, Công dân, Sinh, Hóa...cũng có thể tích hợp với môn Ngữ văn. 
Xác nhận của cơ quan, đơn vị Tác giả sáng kiến
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn – Nhà xuất bản giáo dục – năm 2007.
2.Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 9 – Nhà xuất bản giáo dục.
3.Bình giảng văn 9 – Vũ Dương Quỹ, Lê Bảo – Nhà xuất bản giáo dục – năm 2005.
4.Hệ thống câu hỏi Đọc – Hiểu Ngữ văn 9 – Trần Đình Chung – Nhà xuất bản giáo dục – năm 2005.
5.Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn Ngữ văn – Bộ giáo dục đào tạo – năm 2014.
. 

File đính kèm:

  • doc7. PGD HL_Van Day hoc tho hien dai lop 9 theo dinh huong PT nang luc HS.doc
Sáng Kiến Liên Quan