Sáng kiến kinh nghiệm Bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Anh cho học sinh Lớp 5
Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Anh của nhà trường từ năm học 2009- 2010 trở về trước nói chung là ít được quan tâm và đầu tư đúng mức. Chất lượng giải tại các kì thi học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh thấp, số lượng giải ít. Nhiều học sinh không muốn lựa chọn môn Tiếng Anh để tham gia ôn luyện và dự thi mà chuyển sang ôn luyện các môn học khác như Toán, Tiếng Việt . một phần do định hướng của gia đình, phần khác do môn Tiếng Anh ít đạt giải và giải không cao tại các kì thi. Ngoài ra hầu hết các em học sinh tham gia ôn luyện môn Tiếng Anh đều không nắm vững các dạng bài thi cơ bản cũng như phương pháp giải các dạng bài thi đó.
Các giáo viên môn Tiếng Anh cũng không thật tâm huyết và nỗ lực trong công tác bồi dưỡng. Giáo viên bồi dưỡng chưa hệ thống được các dạng bài thi và phần kiến thức trọng tâm trong công tác bồi dưỡng.
Cơ sở vật chất và nguồn tài chính phục vụ công tác bồi dưỡng nói chung còn thiếu thốn và chưa đáp ứng. Các tài liệu, sách tham khảo, sách nâng cao còn thiếu nhiều. Nguồn tài chính chi cho công tác bồi dưỡng hầu như không có.
àm một dạng bài cụ thể dẫn đến chất lượng bài thi thấp, kết quả giải không cao. Sáng kiến này đã khắc phục được những tồn tại trên, đã đưa ra các kinh nghiệm, các dạng bài thi cơ bản nhất, cách thức và phương pháp thực hiện giải một bài tập cụ thể. Hơn nữa sáng kiến còn giúp giáo viên bồi dưỡng sự khái quát, tổng quan về những chủ đề,chủ điểm ngữ pháp, những phương pháp tích cực trong dạy học và những chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi bậc TH nói chung và học sinh giỏi lớp 5 nói riêng. Những điểm mới trên nhằm giải quyết một số vấn đề đó là: Hướng dẫn học sinh làm các bài tập giúp các em nắm được kiến thức cơ bản của môn tiếng Anh Giúp học sinh sử dụng tốt từ vựng và các cấu trúc ngữ pháp đã học để làm một số bài tập khó. Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng lập luận và thực hành cho học sinh Giúp học sinh phát triển năng lực nhận thức, rèn luyện trí thông minh, sáng tạo cho học sinh ( một bài tập học sinh có thể đưa ra nhiều cách giải ) Hướng dẫn học sinh cách tiếp cận đề, hiểu đề nắm yêu cầu đề ra giúp các em tránh bở ngỡ khi gặp các dạng bài mới. Dần dần các em sẽ yêu thích môn Tiếng Anh và xem môn Tiếng Anh không phải là một môn học khô khan và khó hiểu nữa 1.3 Phạm vi áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến này áp dụng để giảng dạy bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng anh cho học sinh lớp 5 2.PHẦN NỘI DUNG: 2.1.Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu: Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Anh của nhà trường từ năm học 2009- 2010 trở về trước nói chung là ít được quan tâm và đầu tư đúng mức. Chất lượng giải tại các kì thi học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện và cấp tỉnh thấp, số lượng giải ít. Nhiều học sinh không muốn lựa chọn môn Tiếng Anh để tham gia ôn luyện và dự thi mà chuyển sang ôn luyện các môn học khác như Toán, Tiếng Việt.. một phần do định hướng của gia đình, phần khác do môn Tiếng Anh ít đạt giải và giải không cao tại các kì thi. Ngoài ra hầu hết các em học sinh tham gia ôn luyện môn Tiếng Anh đều không nắm vững các dạng bài thi cơ bản cũng như phương pháp giải các dạng bài thi đó. Các giáo viên môn Tiếng Anh cũng không thật tâm huyết và nỗ lực trong công tác bồi dưỡng. Giáo viên bồi dưỡng chưa hệ thống được các dạng bài thi và phần kiến thức trọng tâm trong công tác bồi dưỡng. Cơ sở vật chất và nguồn tài chính phục vụ công tác bồi dưỡng nói chung còn thiếu thốn và chưa đáp ứng. Các tài liệu, sách tham khảo, sách nâng cao còn thiếu nhiều. Nguồn tài chính chi cho công tác bồi dưỡng hầu như không có. Kết quả học sinh giỏi tham gia thi giao lưu Olympic Tiếng Anh từ năm học 2008 – 2009 đến năm học 2009 - 2010 như sau: * Kì thi chọn học sinh giỏi cấp trường: Năm học Lớp Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 2008- 2009 5 03 01 giải khuyến khích 2009- 2010 5 02 01 giải khuyến khích * Kì thi chọn học sinh giỏi cấp huyện: Năm học Lớp Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 2008- 2009 5 01 0 giải 2009- 2010 5 01 0 giải * Kì thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh: Năm học Lớp Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 2008- 2009 5 0 0 giải 2009- 2010 5 0 0 giải * Với những khó khăn như vậy cho nên nhưng năm học trước đây khi chưa áp dụng những kinh nghiệm BDHSG này thì chất lượng các hội thi học sinh giỏi bộ môn tiếng Anh lớp 5 còn thấp. *Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên đó là: Môn Tiếng Anh là một môn học khó, với lượng từ vựng lớn, nhiều cấu trúc nhỏ lẻ, hơn nữa lại phát triển ở 4 kĩ năng: Nghe, Nói, Đọc, Viết do vậy đòi hỏi người học phải có sự kiên trì chăm chỉ Trong những năm học trước đây, Ban giám hiệu chưa thật sự quan tâm và quan tâm sát sao đến chất lượng bồi dưỡng môn Tiếng Anh, chưa đầu tư về cơ sở vật chất cũng như tìm các nguồn tài chính hỗ trợ cho công tác bồi dưỡng của giáo viên. Công tác khen thưởng cho những giáo viên bồi dưỡng học sinh đạt giải trong các kì thi chưa đáp ứng và tương xứng với công sức và sự đầu tư của giáo viên. Trong quá trình dạy học, người giáo viên còn chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm được kiến thức cơ bản. Nguyên nhân là do giáo viên dạy nhiều môn, thời gian dành để nghiên cứu tìm tòi những phương pháp dạy HSG còn hạn chế. Bên cạnh đó thời gian bồi dưỡng cho học sinh cũng không có nhiều. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn dàn trải. Trong giảng dạy giáo viên còn coi nhẹ việc hướng dẫn học sinh đọc kĩ đề bài để hiểu rõ nội dung, yêu cầu của bài tập cho nên phần lớn các em làm bài một cách hấp tấp theo cảm tính mà không cần đến tư duy chặt chẽ nên bài thi không đạt kết quả cao như mong đợi Học sinh chưa chú trọng đến môn tiếng Anh vì nó còn là môn học tự chọn. Tất cả những yếu tố trên đã làm ảnh hưởng đến kết quả chất lượng các hội thi học sinh giỏi bộ môn Tiếng Anh lớp 5 2.2.Các giải pháp: Muốn thực hiện có hiệu quả công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cần phải nâng cao chất lượng đại trà, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cụ thể, khoa học, có hệ thống theo từng giai đoạn, từng năm học. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi phải được thực hiện theo từng chuyên đề bồi dưỡng, theo trình tự nhất định và điều quan trọng là giáo viên bồi dưỡng phải kiên trì, bền bỉ, tâm huyết với công việc. Để nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Anh cho học sinh lớp 5 , tôi xin đưa ra một số giải pháp sau: 1.Định hướng tư tưởng cho học sinh: Việc tham gia ôn thi học sinh giỏi khiến học sinh phải bỏ ra rất nhiều thời gian cho môn học này do đó it nhiều sẽ ảnh hưởng đến các môn học khác. Đã không ít học sinh có ý định bỏ cuộc giữa chừng khi các em đang tham gia ôn tập. Để các em có thái độ tích cực ngoài giờ học tôi thường tâm sự phân tích cho các em hiểu về lợi ích sau này của việc ôn thi học sinh giỏi chứ không đơn thuần là ôn tập để thi là xong. Môn Tiếng Anh sẽ còn theo các em rất lâu trong quá trình học tập cũng như lợi ích của nó trong công việc tương lai của các em sau này. Từ đó các em thấy được tầm quan trọng của môn học và có thái độ tích cực hơn trong khi ôn tập. Ngoài ra để tạo điều kiện cho các em tham gia các môn học khác được tốt tôi thường bố trí thời gian học tập, ôn tập phù hợp cho các em tránh sự qúa tải về thời gian cũng như việc nhồi nhét kiến thức. 2. Cung cấp các dạng bài thường có trong đề thi: Việc cung cấp và giúp học sinh nhận biết các dạng bài thường gặp trong đề thi giúp các em học sinh có sự khái quát, tổng quan về các dạng bài tập qua đó các em sẽ đỡ bỡ ngỡ và tự tin hơn trong quá trình làm bài thi. Các dạng bài thường gặp trong đề thi đó là: + Give the corect tense of the verbs in brackets. + Rearrange the letters or words in the right order. + Complete sentence with one suitable word + Leave one unnecessary letter in these words to make them correct. 3. Hướng dẫn học sinh cách thức, phương pháp làm từng dạng bài: Giáo viên cần hướng dẫn và yêu cầu học sinh khi gặp bất cứ một dạng bài nào cần phải thực hiện trình tự các bước giải bài, không được làm tắt * Dạng bài thứ nhất: Give the correct tense of the verbs in brackets Bước 1: Xác định thì của động từ dựa vào các dấu hiệu nhận biết của thì đó trong câu hoặc dựa vào nội dung, tình huống của câu. Ví dụ 1: We usually ( play) sports in the afernoon. → “Usually” là trạng từ chỉ tần suất, sự thường xuyên, lặp đi lặp lại của một hành động, sự việc. do vậy ta xác định động từ trong ngoặc phải được chia ở thì hiện tại đơn: We usually play sports in the afernoon. Ví dụ 2: Hoa ( not do) .. English exercise last night. → “last night” là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ, diễn tả hành động đã xảy ra và kết thúc trong quá khứ, do vậy ta xác định từ trong ngoặc phải được chia ở thì Qúa khứ đơn: Hoa didn’t do English exercise last night Ví dụ 3: Look! The man ( drive) .too fast on the road. → “Look!” là từ diễn tả hành động, sự việc đang diễn ra tại thời điểm nói do vậy ta xác định động từ trong ngoặc phải được chia ở thì hiện tại tiếp diễn: Look! The man is driving too fast on the road. Bước 2: Xác định dạng câu là khẳng định, phủ định hay câu hỏi: Ví dụ 1: They always ( play) .. tennis in the afernoon. → Trong câu trên không có từ “not” đứng trước động từ, cũng không có dấu “?” ở cuối câu, do vậy ta xác định câu trên cần phải chia động từ ở dạng câu khẳng định: They always play tennis in the afernoon. Ví dụ 2: I ( not visit ) . Ha Long Bay next week. → Trong câu trên có từ “not” đứng trước động từ, cũng không có dấu “?” ở cuối câu, do vậy ta xác định câu trên cần phải chia động từ ở dạng câu phủ định: I am not going to visit Ha Long Bay next week. Ví dụ 3: Where you ( go) . yesterday? → Trong câu trên không có từ “not” đứng trước động từ, có dấu “?” ở cuối câu, đầu câu lại có từ để hỏi là “ Where”, do vậy ta xác định câu trên cần phải chia động từ ở dạng câu hỏi: Where did you go yesterday? * Dạng bài thứ hai: Rearrange the letters or words in the right order. Đây là dạng bài tập sắp xếp những từ hoặc cụm từ thành câu hoàn chỉnh, trước khi hướng dẫn trình tự các bước thực hiện dạng bài , giáo viên cần lưu ý học sinh một số điểm quan trọng để tránh nhầm lẫn với những dạng bài khác: + Thứ nhất : không được thêm từ, không được bớt từ. + Thứ hai: không được chia động từ theo thì hoặc theo cấu trúc ( trừ trường hợp đầu bài yêu cầu) Bước 1: Đọc kỹ các từ, cụm từ cho sẵn để hiểu khái quát nội dung chính của câu và phát hiện ra các cấu trúc ngữ pháp được sử dụng trong câu. Đếm số lượng từ, cụm từ trong câu mục đích để tránh bỏ sót từ hoặc cụm từ sau khi đã xếp lại Bước 2: Hướng dẫn học sinh lựa chọn những từ có thể đi với nhau để ghép thành những cụm từ hoặc mệnh đề ngắn. Sứ dụng những cụm từ hoặc mệnh đề ngắn để ghép thành những mệnh đề dài hơn, rồi từ những mệnh đề dài ghép thành câu hoàn chỉnh. Ví dụ 1: a pair/ much/ How/ of shorts?/ are → Trong câu trên ta lấy các từ có thể đi được với nhau để ghép thành những cụm từ đó là: + How much/ a pair of shorts?/ are Từ những cụm từ hoặc mệnh đề trên ta dễ dàng ghép thành câu hoàn chỉnh: + How much are a pair of shorts? Bước 3: Rà soát lại để kiểm tra cấu trúc và nội dung câu. Đếm lại số lượng từ hoặc cụm từ trong câu xem có đủ so với lượng từ hoặc cụm từ đã cho hay không. Ví dụ 1: like/ is/ in spring? /What/ the weather → Trong câu trên ta thấy có đủ 7 từ bị xáo trộn, do vậy sau khi sắp xếp lại thành câu hoàn chỉnh ta cũng phải kiểm tra lại xem có đủ 7 từ hay không: What is the weather like in spring? * Dạng bài thứ ba: Complete sentence with one suitable word Bước 1: Xác định từ cần điền vào chỗ trống thuộc loại từ nào ( danh từ, động từ, tính từ, trạng từ, mạo từ.. ) dựa vào các dấu hiệu nhận biết của những từ hoặc cụm từ đứng trước hoặc đứng sau chỗ trống hoặc dựa vào cấu trúc ngữ pháp trong câu. Nếu từ cần điền là danh từ thì cần xem xét danh từ đó là số nhiều hay số ít, danh từ chỉ người hay vật. Nếu từ cần điền là động từ thì cần xem xét động từ đó thuộc thể chủ động hay bị động và được chia ở thì nào. Nếu từ cần điền là tính từ hay trạng từ thì cần xem xét tính từ hay trạng từ đó mang nghĩa tích cực hay mang nghĩa không tích cực. Ví dụ 1: That is a dog. You must be careful. → Từ loại cần điền trong câu trên là một tính từ do nó đứng sau động từ “tobe” và đứng trước danh từ “dog” trong câu. Tính từ đó mang nghĩa không tích cực do ta dựa vào nghĩa của câu “You must be careful” . Vì vậy ta xác định tính từ phải điền là: harmful Ví dụ 2: He is a hard He works in a factory. → Từ loại cần điền trong câu trên là một danh từ do nó đứng sau mạo từ “a” và tính từ “hard” trong câu. Danh từ đó là số ít vì có chủ ngữ “He” và mạo từ “a” trước danh từ. Thêm vào đó ta dựa vào nghĩa của câu “He works in a factory” nên ta xác định danh từ phải điền là: worker. Bước 2: Hướng dẫn học sinh nắm được cách thành lập từ ( danh từ, tính từ, trạng từ, .. ). Cung cấp cho học sinh các tiền tố (preffix), hậu tố (suffix) và các ví dụ , các từ được thành lập từ những từ phái sinh để học sinh học thuộc. Bước 3: Lựa chọn từ phù hợp nhất để hoàn thiện câu hoặc đoạn văn. * Dạng bài thứ tư: Leave one unnecessary letter in these words to make them correct. Đây là dạng bài tập loại bỏ một chữ cái không cần thiết thành từ có nghĩa, trước khi hướng dẫn trình tự các bước thực hiện dạng bài , giáo viên cần lưu ý học sinh một số điểm quan trọng để tránh nhầm lẫn với những dạng bài khác: + Thứ nhất : không được thay đổi trật tự của các chữ cái cho sẵn trong từ đã cho. + Thứ hai: không được thêm chữ cái vào, chỉ được bớt một chữ cái. Bước 1: Đọc kỹ các chữ cái cho sẵn để hiểu khái quát nội dung chính của từ và phát hiện ra từ có nghĩa đúng nhất. Đếm số lượng chữ cái trong từ mục đích để tránh bỏ sót chữ cái sau khi đã xếp lại. Bước 2: Hướng dẫn học sinh lựa chọn những chữ cái ghép với nhau thành từ không có nghĩa thì ta loại dần. Nếu chữ cái nào chưa loại bỏ thì ta loại bỏ tiếp để tìm ra từ có nghĩa phù hợp nhất. Ví dụ 1: VIKSIT → Trong từ trên ta loại bỏ lần lượt các chữ cái ghép với nhau thành từ không có nghĩa đó là: VKSIT, VIKSI, VIKST, VIKIT Vậy chỉ còn lại 1 chữ cái chưa được loại bỏ là “K” nên ta tiếp tục loại bỏ tiếp để tìm ra từ có nghĩa phù hợp nhất đó là : VISIT 4. Cung cấp các bài tập , tài liệu và hướng dẫn học sinh làm bài tập theo từng dạng bài, từng chuyên đề ôn luyện Sau khi giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu các dạng bài và các bước thực hiện đối với từng dạng bài thì giáo viên cần sưu tầm các bài tập, sách tham khảo, tài liệu bồi dưỡng. để giúp học sinh thực hành giải các bài tập theo từng dạng bài và từng chuyên đề hướng dẫn. Mỗi dạng bài, chuyên đề cần dành thời gian khoang từ 10 đến 15 tiết để thực hành, luyện tập. Việc ôn tập bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi cần phải cho học sinh thực hành làm thật nhiều các dạng bài tập nâng cao khác nhau do vậy bản thân tôi đã sưu tầm rất nhiều loại sách nâng cao qua từng năm học. Qua nhiều năm sưu tầm, lựa chọn và tìm mua đến nay tôi đã có khá nhiều sách dùng để ôn tập và nâng cao cho mỗi khối lớp. Toàn bộ nguồn kinh phí này do chính bản thân tôi bỏ ra mua sắm để sử dụng lâu dài. Ngoài ra, giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm đọc những tên sách, danh mục sách, loại sách cần thiết ở thư viện và các nguồn khác. Ví dụ: - Vở bài tập bổ trợ nâng cao lớp 3, 4,5 - Vở luyện bài tập lớp 3, 4,5 - 50 bộ đề lớp 3, 4,5 - Activity book 1, 2 - Vở tự luyện Olympic 3, 4,5 - Một số đề thi các cấp. 5. Hướng dẫn học sinh thực hành giải một số đề thi học sinh giỏi của các cấp từ những năm học trước . Giáo viên sưu tầm đề thi học sinh giỏi các cấp từ những năm học trước để tổ chức cho học sinh thi thử nhằm giúp các em cọ xát, rèn luyện và đánh giá chất lượng của học sinh giúp giáo viên có sự điều chỉnh cần thiết. Nói về việc học ngoại ngữ một nhà ngôn ngữ học đã từng nói: “ Practice makes perfect” tạm dịch là “ thực hành làm nên sự hoàn hảo”. Do vậy trong quá trình ôn tập tôi dành rất nhiều thời gian cho các em thực hành. Có những bài tập có thể cho các em làm đi làm lại một vài lần vì với số lượng kiến thức khổng lồ các em sẽ không thể khắc sâu nếu các em chỉ được thực hành 1 lần. Trong thực hành tôi cũng dành thời gian cho học sinh viết chính tả (dictation) . Tưởng chừng việc này sẽ gây nên sự tốn kém về thời gian của cả thầy và trò nhưng thực chất việc này lại giúp học sinh luyện tập về ngữ âm và từ vựng cũng như củng cố thêm về kỹ năng nghe nữa. Đó cũng là cách để giúp các em thực hành. Với thời gian trên lớp hạn hẹp không đủ để các em thực hành được nhiều do vậy khi về nhà tôi thường giao bài tập và đưa cho các em các đĩa nghe để các em thực hành tại nhà. 6. Việc BDHSG thông qua các kì thi viết hoặc giao lưu Olympic tiếng Anh đòi hỏi ở các em cần nắm đươc kiến thức Tiếng Anh một cách toàn diện,song hiện nay các kì thi tổ chức qua mạng ngoài những yếu tố đó học sinh cần phải biết cách sử dụng và thao tác máy thành thạo.Cho nên tạo điều kiện để các em được luyện tâp trên máy là rất cần thiết và càng nhiều càng tốt. Để khắc phục tình trạng này vài năm gần mạng Internet rất phát triển và phổ biến, tôi thường cho các em lên mạng để làm quen với các đề thi cũng như các dạng bài tập trắcnghiệm trong các phần mềm trên mạng (phòng máy của trường). Điều này cũng giúp các em thực hành được nhiều hơn do không phải mất thời gian chép đề và cũng gây nhiều hứng thú để các em học tập. Một số trang web mà tôi nghĩ là tốt và hiệu quả đối với học sinh của mình như: , đây là những website rất hữu ích cho cả thầy và trò, nhằm mục tiêu tập hợp các tư liệu cần thiết cho chuyên môn để các em tham khảo tránh việc các em “lang thang trên mạng” gây hiệu quả ngược lại. 3. PHẦN KẾT LUẬN: 3.1.Ý nghĩa của sáng kiến: Áp dụng sáng kiến trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi đã giúp giáo viên bồi dưỡng khái quát được hầu hết các dạng bài thường có trong đề thi đồng thời giáo viên dễ dàng hướng dẫn học sinh trình tự các bước giải quyết một dạng bài cụ thể. Các em học sinh đã nắm vững các bước giải các dạng bài khác nhau, biết được cách thức giải từng dạng bài khi gặp trong các đề thi, không còn cảm thấy các dạng bài khó khăn và xa lạ với mình nữa. Sáng kiến còn thúc đẩy phong trào học Tiếng Anh tích cực trong trường học, làm cho các em học sinh cảm thấy hứng thú và yêu thích môn Tiếng Anh hơn, không còn cảm thấy môn Tiếng Anh khó học, các em cũng cảm thấy tự tin hơn trong giao tiếp.. qua đó chất lượng đại trà và chất lượng mũi nhọn môn Tiếng Anh cũng được nâng lên. Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tế tại đơn vị, bản thân tôi nhận thấy học sinh tham gia bồi dưỡng đã tích cực, chủ động học tập, hăng hái tham gia vào các cuộc thi cấp trường ,cấp huyện,cấp tỉnh và cả cấp quốc gia được tổ chức trong những năm học vừa qua. Các em tự tin và lạc quan hơn vào khả năng làm bài của mình. Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi của nhà trường có sự chuyển biến rõ rệt, số lượng và chất lượng giải các cấp đã được cải thiện qua từng năm học, cụ thể như sau: Kết quả thi học sinh giỏi các cấp sau khi áp dụng sáng kiến ( Từ năm học 2010-2011 đến năm học 2014-2015): * Kì thi chọn học sinh giỏi cấp trường: Năm học Lớp Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 2010- 2011 5 04 01 giải nhì, 01 giải khuyến khích 2011- 2012 5 03 01 giải ba, 01 giải khuyến khích 2012-2013 5 03 01 giải nhì, 01 giải ba 2013-2014 5 03 01 giải ba, 01 giải khuyến khích 2014-2015 5 03 01 giải nhì, 01 giải ba * Kì thi chọn học sinh giỏi cấp huyện: Năm học Lớp Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 2010- 2011 5 02 01 giải nhì, 01 giải khuyến khích 2011- 2012 5 02 01 giải khuyến khích 2012-2013 5 02 02 giải khuyến khích 2013-2014 5 02 01 giải khuyến khích 2014-2015 5 02 01 giải nhì, 01 giải khuyến khích * Kì thi chọn học sinh giỏi cấp tỉnh: Năm học Lớp Số học sinh dự thi Số học sinh đạt giải 2010- 2011 5 02 01 giải ba ( được tham gia thi cấp quốc gia đạt bằng danh dự) 2011- 2012 5 01 0 giải 2012-2013 5 02 01 giải ba 2013-2014 5 01 0 giải 2014-2015 5 01 01 giải khuyến khích 3.2.Kiến nghị, đề xuất: Qua quá trình nghiên cứu đề tài này tôi xin đề xuất một vài ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất lượng bồi dưỡng môn tiếng Anh cho học sinh lớp 5 như sau: Phòng giáo dục nên thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên môn theo từng cụm trường cho giáo viên tiếng Anh trên toàn huyện để chúng tôi có điều kiện trao đổi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy cũng như bồi dưỡng học sinh giỏi. Nên có chương trình cụ thể cho việc bồi dưỡng học sinh của từng khối. Cần lựa chọn và thống nhất về chương trình,sách giáo khoa bộ môn tiếng Anh tiểu học. Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc rút được trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi tiếng Anh lớp 5 và cũng đã đạt được những thành công nhất định. Tôi mạnh dạn nêu ra để hội đồng xem xét, bổ sung, góp ý kiến để tôi có thêm những kinh nghiệm trong giảng dạy nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Sáng kiến này của cá nhân tôi không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được sự tham gia góp ý của bạn bè đồng nghiệp. Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của hội đồng.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_boi_duong_hoc_sinh_gioi_tieng_anh_cho.doc