SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 5 trường TH-THCS Bình Hưng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học

Trước thời đại công nghiệp hoá – hiện đại hoá của đất nước, Đảng ta xác định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, trẻ em là tương lai của đất nước đang cần được chăm sóc, nuôi dưỡng ngay từ thời thơ ấu. Điều đó thể hiện tầm quan trọng của việc đào tạo thế hệ trẻ đối với đất nước. Vì “Muốn xây dựng đất nước, trước hết phải phát triển giáo dục. Muốn trị nước phải trọng dụng người tài”. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Do đó, trong những năm qua cải cách, đổi mới và đầu tư cho giáo dục liên tục được chú ý đến. Điều đó đặt ra cho quá trình giáo dục nói chung và quá trình dạy học nói riêng không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Làm được điều đó đòi hỏi phải đổi mới tư duy, đổi mới quản lý giáo dục, trong đó nhiệm vụ đặt ra cho từng môn học và trách nhiệm của giáo viên hết sức cần thiết. Chương trình lớp 5 là chương trình dạy học tương đối khó đối với học sinh, ngoài việc ôn tập hệ thống lượng kiến thức ở các lớp dưới còn có các kiến thức kĩ năng mới, khó và dễ nhầm lẫn. Đặc biệt là lớp cuối cấp học, học sinh không những phải tiếp thu, lĩnh hội được các kiến thức ấy mà còn là hành trang chuẩn bị cho các em tiếp tục học trung học cơ sở. Nhưng để trẻ tiếp nhận có kết quả tốt thì chúng ta không thể chỉ dạy học và nhồi nhét các kiến thức ấy mà chúng ta làm sao vừa khắc sâu kiến thức vừa tạo cho tiết học nhẹ nhàng, trẻ có niềm vui, sự hứng thú trong học tập cho các em. Vì vậy, trước đó, các nhà tâm lí học đã nói rằng: “Hứng thú có một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động của con người. Đó là động cơ thúc đẩy con người tham gia tích cực vào hoạt động ấy. Một khi đã có hứng thú dù phải khó khăn con người cũng vẫn cảm thấy thoải mái và đạt được hiệu quả cao”.

doc26 trang | Chia sẻ: Vạn Ngọc | Ngày: 15/08/2023 | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 3Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 5 trường TH-THCS Bình Hưng nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh họa bước đầu cho biện pháp kích thích từ bên trong của quá trình nhận thức nhằm tạo hứng thú học toán cho học sinh tiểu học.
Tóm lại, việc thiết kế các hoạt động học tập giúp HS hứng thú học toán là sự thể hiện tổng hợp các ý tưởng về phương pháp dạy học. Người thiết kế không chỉ xác định đúng đắn mục tiêu học tập mà còn phải chú ý các yếu tố về tâm lý học, về giáo dục học và hiểu rõ vốn kiến thức thực tiễn của HS để phối hợp tốt với các thủ thuật, kỹ thuật thể hiện nội dung toán học, tạo ra các kích thích hợp lí để HS tự học.
2.6. Giải pháp 6: Tạo hứng thú học tập bằng việc xây dựng môi trường thân thiện giữa thầy và trò, trò và trò
Bên cạnh việc tác động vào nội dung và phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, việc thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả thầy và trò. Bởi vì, học là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang lại, mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự học.
Mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy – trò, giữa trò – trò với nhau cũng sẽ tạo hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn hòa bầu không khí thân ái, hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cả thầy và trò. Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo dục có mục đích, tính kỉ luật ý thức trách nhiệm cho học sinh, chúng ta phải tổ chức cho học sinh có một cuộc sống ở trường thật hấp dẫn, thoải mái, gần gũi, tạo được nhiều niềm vui, phấn khởi sao cho học sinh mỗi ngày đến trường có nhiều niêm vui. Học sinh tiểu học rất thích khen và được khen. Nếu hôm ấy, các em học có tiến bộ, làm bài tập tốt thì tôi tặng cho các em một lời khen. Chẳng hạn: Em học có tiến bộ, cô rất vui hoặc em thật đáng khen! Em hoàn thành bài tốt lắm!...Như vậy, các em sẽ rất thích. Các em khi mắc phải lỗi lầm hoặc học hành chưa tiến bộ, tôi thường dùng những lời nói nhẹ nhàng nhằm khuyến khích các em là chính, và cần chú trọng về mặt thành công của trẻ. Đặc biệt là những học sinh học chậm, tôi quan tâm nhiều hơn bằng cách giúp đỡ, lắng nghe các em nói, động viên khen ngợi, khuyến khích các em, trân trọng những cố gắng, dù vẫn còn nhỏ, phát triển cái ưu. Đối với những em chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, tôi không chê trách các em mà luôn động viên, khuyến khích các em để theo kịp bài học với bạn. Hình thức đó, tạo cho các em có tâm thế bình yên trong học tập. Lời khen đúng nó thật diệu kì, nhưng nên nhớ không nên lạm dụng lời khen quá mức sẽ có tác dụng ngược lại. 
Chuyện là vậy, tôi thường khen ngợi em Chủ tịch Hội đồng tự quản và đưa em lên làm tấm gương cho các bạn noi theo. Thỉnh thoảng tôi có bỏ qua một số lỗi lầm nhỏ của em. Nhưng đến khoảng một tháng sau lại có chuyện xảy ra. Tôi nhận thức ý kiến phản ánh của lớp về tính kênh kiệu, thiếu tôn trọng các bạn, có ý muốn làm đàn anh, đàn chị. Chứng kiến được cảnh bắt nạn bạn trong giờ học hay giờ ra chơi còn dõng dạc tuyên bố: “Cô không bao giờ phạt mình đâu, vì mình làm lớp trưởng.” Tôi băn khoăn sẽ làm gì để khắc phục chuyện này. Mặc dù em quản lí lớp rất tốt nhưng cách nói năng và đối xử với các bạn cần xem lại. Làm sao để vừa giữ được nề nếp của lớp, vừa tiếp tục phát huy năng lực của em và giúp em sửa được tính xấu. Cuối cùng, tôi quyết định nói chuyện trực tiếp với em vào lúc giờ ra chơi. Là một học sinh thông minh, nhạy bén và hiểu vấn đề rất nhanh nên buổi nói chuyện giữa tôi và học sinh đã khiến em hiểu ra nhiều điều bổ ích có quanh em. Từ đó, những gì em làm tốt, tôi động viên, khích lệ và khen ngợi. Nhưng với những lỗi em mắc phải, tôi không thờ ơ bỏ qua mà nghiêm túc nhắc nhở, phân tích và chỉ tận tình cái sai, cái chưa được trong cách làm để em hiểu. Thế là tôi được một tập thể đoàn kết yêu thương và biết giúp đỡ nhau. Từ đó, Chủ tịch Hội đồng tự quản lấy lại tình cảm của các bạn trong lớp, trở thành một con người chững chạc, biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu, yêu cái đúng, ghét cái sai và sống đầy trách nhiệm với công việc được giao và giàu lòng tình yêu thương với bạn bè. 
Chính những cử chỉ tưởng chừng như nhỏ ấy của người giáo viên nhưng chứa đựng bao nhiêu là tình cảm, cảm xúc gửi gắm, động viên và là niềm tự hào, niềm tin truyền cho các em biết nhường nào. Các em thấy bản thân mình có ích, quan trọng với thầy cô giáo và vui sướng, tự tin trước các bạn trong lớp; còn các bạn khác lấy đó làm gương phấn đấu để cô giáo tuyên dương và tặng quà như bạn. Chính điều này là động lực, là niềm vui, là hạnh phúc tạo cơ hội và thúc đẩy một phần hứng thú để các em đến lớp, đến trường. 
Khi lên lớp với nhiều tình huống và các kiến thức, các môn học không giống nhau. Chính từ những điểm này mà đòi hỏi giáo viên phải điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp với từng phân môn, tránh sự trùng lặp về nội dung giảng day. Đồng thời tạo cho các em sự hứng thú và yêu thích đến lớp, đến trường. Làm được điều đó là cả một nghệ thuật của nhà sư phạm.
2.7. Giải pháp 7: Kết hợp giữa nhà trường và phụ huynh để tạo hứng thú học tập cho HS.
Gia đình là tế bào của xã hội vì thế gia đình đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục trẻ. Một đứa trẻ phát triển tốt đòi hỏi phải sống trong một gia đình có cách giáo dục tốt. Mà muốn trẻ giáo dục tốt thì cần phải bắt đầu từ tuổi ấu thơ, đây chính là nền tảng ban đầu của đứa trẻ. Đặc biệt trẻ học được tấm lòng vị tha, nhân ái, những điều hay lẽ phải trong cuộc sống thì bắt đầu bằng việc giáo dục và hành động của người lớn trước hết là gia đình.
Muốn tạo cho các em nguồn cảm hứng, sự hứng thú khi đến trường thì cha mẹ các em cần phải tạo cho các em một thói quen tốt ngay từ nhỏ và gần gũi với các em. Giáo viên cần trao đổi ngay với phụ huynh khi trẻ có hiện tượng vắng học, có biểu hiện chán học, không để hiện tượng vắng học, chán học kéo dài. Trao đổi với phụ huynh rằng: Một khi trẻ không thích đi học hay có một số biểu hiện chán học phụ huynh cần bình tĩnh hỏi han, cùng trẻ tìm ra nguyên nhân do đâu các em không thích đi học. Khi học sinh đã nói ra nguyên nhân mình không thích đi học như: Thấy cô đơn, không theo kịp kiến thức, bị thầy cô chê trách, cha mẹ không nên trách mắng trẻ, nên tạo cho trẻ môi trường thoải mái để có hứng thú học tập. Cha mẹ học sinh cần phối hợp với giáo viên chủ nhiệm để tìm ra giải pháp tối ưu nhất cho trẻ như thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp với bạn bè, tạo cho các em lại niềm tin về bản thân, nên khuyến khích trẻ và nói những điều tốt về trường học.
Đồng thời đã qua thực tế và thấy: Do điều kiện ở đây còn khó khăn, một số gia đình quan tâm đã có tương đối đầy đủ đồ dùng học tập nhưng vẫn còn một số gia đình chưa quan tâm và còn khó khăn về kinh tế nên chưa có cho các em đầy đủ đồ dùng học tập. Vì vậy, ngoài những đồ dùng bắt buộc như sách giáo khoa, vở thì tôi tìm hiểu và cho học sinh thêm các dụng cụ học tập như bút, giấy vẽ, hoặc mượn được một số đồ dùng ở thư viện trường để các em trong lớp có đồ dùng học tập tốt hơn.
Giáo viên cần trao đổi với phụ huynh, cần phối kết hợp với họ để ở trường giáo dục là giáo viên, còn ở nhà phần giáo dục của gia đình rất quan trọng. Đứa trẻ tiếp xúc với trường học đầu tiên ấy là gia đình.
Do đó, gia đình cần giành thời gian quan tâm, động viên, gần gũi trẻ, không nên vì hoàn cảnh khó khăn mà bắt con em mình ở nhà phụ giúp gia đình. Gia đình cần cộng tác với thầy cô giáo. Cha mẹ các em nên báo với giáo viên những lúc học sinh và gia đình cảm thấy khó khăn để giáo viên tìm hướng giải quyết, nếu vấn đề phức tạp giáo viên khó giải quyết sẽ nhờ sự giúp đỡ và kết hợp của Ban giám hiệu hay của cấp trên. Ở nhà phụ huynh cần nhắc nhở, kiểm tra, đôn đốc việc học của các em. Cần chuẩn bị bài, học bài, làm bài tập và kiểm tra đồ dùng học tập trước khi đến lớp.
Là học sinh cuối cấp Tiểu học vì thế phụ huynh nên hướng dẫn cho trẻ lập thời gian biểu riêng hàng ngày, giờ nào học, giờ nào chơi, lúc nào phụ giúp gia đình, hãy tạo điều kiện để trẻ vừa học vừa chơi, thấy việc học cũng vui, cũng bổ ích, lí thú chứ không nhàm chán, không phải là nhiệm vụ quá nặng nề đối với các em.
3. Điều kiện cần thiết để áp dụng giải pháp:
- Điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị:
	+ Trong giảng dạy cần có những đồ dùng, hình ảnh trực quan sinh động, gần gũi, phù hợp với mỗi bài học. Nhìn vào đó sẽ giúp cho các em có hứng thú và học tốt hơn. Cần bảo quản, giữ gìn đồ dùng ngay sau khi sử dụng xong.
	+ Trang bị máy chiếu, đồ dùng dạy học để phát huy các môn học tốt hơn.
	+ Phòng học cần thoáng mát, sạch sẽ và trang trí khang trang.
	- Điều kiện về nhân lực:
	+ GV cần có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp, nên có phong thái nhẹ nhàng, gần gũi, quan tâm đến HS. Trong giảng dạy có nhiều HS nhận thức chậm. GV phải kiên trì, không nên khắt khe, mà nên tạo điều kiện cho các em được tham gia vào các hoạt động học tập, được chia sẻ để tự tin hơn. GV nên tôn trọng ý kiến của HS.
	+ Sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học để giúp HS nắm vững kiến thức, yêu thích môn học. Thường xuyên luyện tập thực hành, GV phải động viên, khuyến khích, khích lệ học sinh trong học tập.
4. Những thông tin cần được bảo mật : Không
5. Thực hiện áp dụng/áp dụng thử giải pháp
- Thời gian áp dụng: Từ tháng 09/ 2019 đến tháng 05/ 2020.
- Địa điểm áp dụng: Tại lớp 5 trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng.
- Những người tham gia tổ chức áp dụng giải pháp lần đầu (nếu có, là người tham gia áp dụng giải pháp mmới cùng với tác giả nhưng không phải là các đồng tác giả)
Stt
Họ và tên
Ngày tháng năm sinh
Nơi công tác
Chức danh
Trình độ chuyên môn
Nội dung công việc hỗ trợ
1
Đinh Vũ Hoàng Lê
16/03/1993
Trường TH&THCS Bình Hưng
GV
Đại học Sư phạm
Khảo sát mức độ hứng thú học tập của học sinh.
Áp dụng các giải pháp cụ thể để mang lại kết quả cao.
IV. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG/CHUYỂN GIAO ÁP DỤNG GIẢI PHÁP
1. Lĩnh vực mà giải pháp có thể áp dụng
Áp dụng trong tất cả các môn học và các hoạt động giáo dục nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. Khơi gợi ở học sinh khả năng tự học, tìm tòi, sáng tạo, ham thích đến trường, yêu mến thầy cô.
2. Phạm vi có thể áp dụng/chuyển giao áp dụng của giải pháp:
Giải pháp này được áp dụng ở lớp 5 tại trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng, thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa và đã đạt được hiệu quả đáng kể.
Sáng kiến này không những áp dụng được cho HS khối lớp 5 trong trường Tiểu học và Trung học cơ sở Bình Hưng mà còn có thể áp dụng cho các khối lớp khác cũng như ở các đơn vị trường bạn trong toàn thành phố, toàn tỉnh. Nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu, áp dụng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của lớp, của trường thì sẽ đem lại kết quả như mong muốn.
V. HIỆU QUẢ THU ĐƯỢC HOẶC DỰ KIẾN CÓ THỂ THU ĐƯỢC KHI ÁP DỤNG GIẢI PHÁP
1. Hiệu quả kinh tế: Không
2. Hiệu quả xã hội
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến này vào thực tế công tác chủ nhiệm lớp, giảng dạy học sinh và qua những kinh nghiệm của bản thân. Tôi áp dụng một số giải pháp và khắc phục những hạn chế trên đã đạt được những kết quả nhất định trong việc dạy – học. Chất lượng học sinh được nâng cao. Học sinh hứng thú, rất sôi nổi và mạnh dạn, tự tin hơn, năng lực chủ động, phát huy tính tích cực của mình trong giờ học. Đặc biệt là các em yêu thích đến trường. Hứng thú học giúp trẻ tiếp thu, lĩnh hội kiến thức dễ dàng và mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp.   
Căn cứ vào những kết quả thu được tôi đã thực hiện các giải pháp ở trên cùng với những nỗ lực và cố gắng của bản thân, vận dụng một số kinh nghiệm vào việc giảng dạy thời gian qua. Tôi nhận thấy việc áp dụng một số biện pháp ở trên vào việc dạy học và hướng dẫn học sinh hứng thú đến trường thực sự đạt hiệu quả.
Qua một thời gian lớp có chuyển biến rõ rệt về chất lượng học tập. Trong giờ học có sự kết hợp giữa giáo viên và học sinh nhịp nhàng, tình trạng thụ động tiếp thu bài không còn nữa, không khí học tập trở nên sôi nổi, tiết học nhẹ nhàng, học sinh thực sự có hứng thú khi đến lớp, đến trường; đi học không phải là sự ép buộc mà đi học rất lí thú và cần thiết, là niềm vui mỗi ngày của các em.         Đồng thời yêu thích đến trường vì theo các em đến trường tiếp thu những điều thú vị, thầy cô giáo rất gần gũi với các em, có nhiều bạn bè chơi rất vui, Các em đã có hứng thú đến trường, so với trước đây thì bây giờ các em đã chuẩn bị đồ dùng học tập và chuẩn bị bài chu đáo, đã tích cực tham gia vào các hoạt động học tập cũng như các hoạt động tập thể khác. Trẻ thật sự muốn đến trường, đối với các em đến trường có những điều đầy thú vị và bổ ích. Trẻ hứng thú và yêu thích đến trường làm cho trẻ mạnh dạn hơn trong học tập, dẫn đến đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp,
Khả năng giao tiếp giữa học sinh với giáo viên, giữa các em với nhau được gần gũi hơn. Học sinh bộc lộ lên những ý muốn, những sở thích riêng của mình với bạn bè với thầy cô.
Việc vận dụng những kinh nghiệm đó đã nâng cao hiệu quả của giờ lên lớp, phát  huy được tính chủ động sáng tạo và tạo được niềm cảm xúc, sự hứng thú say mê thực sự đối với  học sinh.
Về chuyên cần được theo dõi theo tháng:
Sĩ số: 27
Chuyên cần đi học
Tháng 8 và 9
24 em đi học đều (3 em có xin phép nghỉ học một buổi)
Tháng 10
24 em đi học đều (2 em có xin phép nghỉ học một buổi, 1 em nghỉ một buổi học không có phép)
Tháng 11
25 em đi học đều (2 em có phép một buổi học)
Tháng 12
27 em đi học đều
Dựa vào số liệu thống kê chuyên cần đi học của các tháng (từ tháng 8 đến tháng 12) , nhận thấy các em đi học có đều hơn. Học sinh nghỉ học không phải vì chán học mà do bị bệnh. Có em nhà không có điện thoại nên không thể liên lạc với tôi được và cũng không thể ra trường xin phép, vì lí do nhà không có ai giữ em nhỏ.
Về chất lượng giữa học kì 1 (Sĩ số: 27 HS)
Môn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
Toán
6
22.2
20
74.1
1
3.7
Tiếng Việt
7
25.9
20
74.1
0
0
Chất lượng cuối học kì 2 (Sĩ số: 27 HS)
Môn
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
Toán
11
40.7
16
59.3
0
0
Tiếng Việt
13
48.1
14
51.9
0
0
Số liệu thống kê cho thấy môn Toán và môn Tiếng Việt có tiến bộ. Chất lượng học tập môn Toán và Tiếng Việt có nhiều chuyển biến rõ rệt.
Một số chuyển biến khác
Sĩ số : 27
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Mạnh dạn- tự tin
10
37.0
12
44.4
13
48.1
17
63.0
Nêu ý kiến
6
22.2
9
33.3
11
40.7
15
55.6
Trật tự
13
48.1
17
63.0
17
63.0
18
66.7
Hứng thú trong học tập các môn học của học sinh (Sau khi áp dụng sáng kiến):
Sĩ số
Hứng thú
Ít hứng thú
Không hứng thú
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
27
14
51.9
12
44.4
1
3.7
BIỂU ĐỒ SO SÁNH SỰ HỨNG THÚ CỦA HS (Số liệu %)
Số liệu Một số chuyển biến khác trong học tập là dựa trên tình hình học tập từng ngày của học sinh mà tôi cập nhật được thông qua quá trình tích cực học tập của các em. Với số liệu thống kê như vậy, tôi nhận thấy hài lòng về khả năng học tập của các em.
VI. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Ý nghĩa của giải pháp trong thực tiễn công tác
Một số biện pháp trên đã được một số giáo viên thực hiện và đều mang lại hiệu quả. Điều quan trọng là các biện pháp có mối liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ tích cực cho nhau trong quá trình dạy học các môn học. Chính vì vậy để mang lại hiệu quả thực sự cao, khi thực hiện cần áp dụng đầy đủ, triệt để các biện pháp trên.
2. Khả năng ứng dụng, triển khai kết quả của giải pháp
Sáng kiến của tôi không phải là mới, những biện pháp tôi đã làm cũng rất bình thường nhưng kết quả đạt được lại rất khả quan. Rõ ràng qua cách làm này, nhận thấy học sinh lớp 5 trường TH và THCS Bình Hưng hứng thú trong học tập, việc học ngày càng tiến bộ rõ rệt. Các em ngày càng chăm ngoan, ham thích môn học, tình cảm thầy- trò, bạn bè  ngày càng gắn bó và thân thiện.
3. Những bài học kinh nghiệm được rút ra từ quá trình áp dụng giải pháp.
Trải qua những năm thực hiện kế hoạch “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, tôi thấy phần nào mình đã có sự thành công nhất định với các biện pháp đã đề ra, học sinh thích đi học, tự tin, có mạnh dạn, chuyên cần hơn, làm bài tốt hơn và lễ phép trật tự hơn. Các em biết sống có trách nhiệm, biết giúp đỡ bạn bè, kính trọng thầy cô và qua đây tôi muốn chia sẻ những hiệu quả đạt được, tuy chưa nhiều so với khu vực trung tâm. Nhưng nếu so với khu vực vùng xa, các em đa phần thuộc gia đình khó khăn, ban ngày đến trường, tối đến phụ giúp bố mẹ, thành quả như thế là đáng ghi nhận. Bản thân tôi không ngừng học hỏi để tiếp tục tìm ra những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để kế hoạch mà mình đề ra luôn đạt hiệu quả tốt nhất.
Nghề dạy học là nghề sáng tạo trong những nghề sáng tạo. Ngoài sáng tạo, tôi cũng phải rèn luyện tính kiên nhẫn, luôn tìm ra những biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tại sao ta không biến những điều không thể thành có thể bằng những phương pháp dạy học tích cực?
Tất cả những điều này nếu được đáp ứng, nó sẽ khơi dậy lòng ham học ở các em, tạo cho các em một sự hứng thú thi đua trong học tập. Chúng ta luôn tạo một môi trường thuận lợi và tốt nhất cho các em để các em thấy rằng “ Mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. Càng gần gũi các em thì mình sẽ thấy được ở thế giới quanh các em có nhiều điều thú vị mà mình phải nên làm.
Trên đây là một số suy nghĩ và những biện pháp, giải pháp mà tôi đã áp dụng thành công trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh lớp 5. Tôi tin rằng, nếu mỗi giáo viên luôn nhiệt tình rèn luyện và tận tâm dạy bảo thì chắc chắn các em sẽ hứng thú đến trường. Đồng thời trẻ còn tự tin, mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Tất cả những điều đó là hành trang vững bước cho các em sau này sẽ trở thành những con người xứng đáng là những chủ nhân tương lai của đất nước.
4. Những kiến nghị, đề xuất để triển khai, ứng dụng giải pháp, chuyển giao áp dụng giải pháp có hiệu quả.
Trong quá trình công tác, không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, chịu khó nghiên cứu, tìm tòi học hỏi, đúc rút kinh nghiệm. Điều quan trọng là có lòng yêu nghề, mến trẻ, tình đồng nghiệp, đồng chí.
Nếu sáng kiến được áp dụng rộng hơn thì mong rằng đồng nghiệp, giáo viên những người công tác dạy học tiểu học cần vận dụng một cách linh hoạt, phù hợp với lớp mình.
Ngoài những biện pháp trong sáng kiến này, có thể còn có những biện pháp khác, bản thân người viết chưa nhận thấy và mong rằng các đồng nghiệp đọc sáng kiến này đóng góp ý kiến. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, phát triển và vận dụng trong quá trình dạy học ở lớp 5 tại trường TH và THCS Bình Hưng. Mặc dù đã có nhiều chuyển biến về kết quả học tập, sự chuyên cần, tinh thần thái độ học tập của học sinh khi vận dụng đề tài, nhưng không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Rất mong sự góp ý của quý thầy cô để đề tài đạt được hiệu quả cao hơn, để bản thân người viết có thêm điều kiện có thể tiếp tục mở rộng, nghiên cứu về đề tài trong thời gian tới.
Cam Bình, ngày 04 tháng 05 năm 2020.
 Tác giả sáng kiến
Đinh Vũ Hoàng Lê
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học (Nhà xuất bản giáo dục)
Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn- Văn học dân gian Việt Nam - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội - 1996
Nguyễn Minh Thuyết, Hoàng Hoà Bình, Trần Mạnh Hưởng...Sách giáo viên lớp 5 Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam
Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị HạnhTiếng Việt 5/Tập 1, tập 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Bùi Phương Nga, Lương Việt TháiKhoa học 5/Tập 2 Bộ Giáo dục và Đào tạo
Hoạt động vui chơi giữa tiết học ở trường tiểu học- Nhà xuất bản Giáo dục – Tác giả: Hoàng Long- Trần Đồng Lâm- Đỗ Thuật.
Giáo trình Tâm lí học đại cương- Tác giả: PGS.TS Nguyễn Quang Uẩn ( chủ biên) của Trung tâm đào tạo từ xa Huế 2003.
Giáo trình Tâm lí học Tiểu học – Tác giả: Bùi Văn Huệ của Nhà sản xuất Đà Nẵng- 2004.
Giới thiệu Cuộc đời và Sự nghiệp các nhà Toán học- Nhà xuất bản Trẻ- Tác giả: GS. Nguyễn Cang-Đại học Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh và PGS Nguyễn Đăng Phất- Tiến sĩ chuyên ngành Toán học Đại học Sư phạm Hà Nội.

File đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_tao_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_lop.doc
Sáng Kiến Liên Quan