Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp chỉ đạo tổ chuyên môn đổi mới nội dung và hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ ở trường Tiểu học

- Tổng số CBGV,NV: 22. Trong đó: CBQL: 02; GV: 17; NV: 03

- Trình độ đào tạo: Đại học: 18; Cao đẳng: 04; Trung cấp: 0

- GV đạt chuẩn: 17 - 100%; trên chuẩn: 17 - 100%.

 Đội ngũ giáo viên nhà trường đảm bảo đủ số lượng có 100% số giáo viên trên chuẩn về trình độ đào tạo. Có giáo viên dạy Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Tiếng Anh, Tin học.

Trong những năm qua số giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp tăng lên. Nhiều giáo viên đã sáng tạo, sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng dạy. Trong năm học mỗi giáo viên đều có báo cáo sáng kiến kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học đã được áp dụng tại lớp mình và nhân rộng ra các lớp khác đạt hiệu quả tương đối cao.

Hầu hết giáo viên nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm cao trong công việc, thực hiện tốt mọi nội quy, quy chế của Nhà trường, đoàn thể đề ra, thương yêu, tôn trọng học sinh.

 

doc19 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1554 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp chỉ đạo tổ chuyên môn đổi mới nội dung và hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ ở trường Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 dụng ngôn ngữ và khả năng giao tiếp cho mọi đối tượng học sinh.
+ Rèn luyện và phát triển “ Năng lực hợp tác” cho học sinh là một trong những mục tiêu giáo dục hàng đầu hiện nay.
- Cần giải quyết các mối quan hệ để xác định phương pháp dạy học theo nhóm hay không ? Giữa mục đích, tác dụng với hình thức tổ chức lên lớp; giữa đối tượng nhận thức và trình độ học sinh; giữa phương tiện học tập, giảng dạy và cơ sở vật chất lớp học; giữa cách tổ chức học tập cá nhân hay toàn lớp.
- Cần đảm bảo tiến trình tiến hành phương pháp dạy học theo nhóm:
 + Giáo viên nêu vấn đề;
 + Chia nhóm;
 + Giao nhiệm vụ cho nhóm;
 + Hướng dẫn nhóm thực hiện nhiệm vụ;
 + Tổ chức thảo luận chung;
 + Tổng kết vấn đề - nhận xét quá trình làm việc.
 Trong quá trình lên lớp cần lưu ý:
 - Phân nhóm cho phù hợp, luân phiên thay đổi nhóm trưởng, chỗ ngồi để tạo cho các em có cơ hội được thể hiện mình, giúp các em mạnh dạn và tự tin hơn trong học tập.
 - Xây dựng mô hình hoạt động nhóm hợp lí, phù hợp với yêu cầu tổ chức hoạt động dạy học; Đảm bảo có lối di chuyển để giáo viên có thể tiếp cận giúp đỡ các nhóm; Học sinh có thể tự xoay trở dễ dàng, không bị ngồi sai tư thế; Không cố định vị trí của học sinh hoặc cố định nhóm.
 - Biết sử dụng 4 bức tường của lớp học để dạy học (Treo kết quả làm việc của nhóm)
* Tổ chức triển khai thực hiện:
Định hướng, chỉ đạo các tổ chuẩn bị mọi điều kiện và dạy thể hiện 3 tiết:
 Tổ1: Môn TNXH, bài: Trời nóng, trời rét
 Tổ 2&3: Môn Tập đọc, bài: Mặt trời xanh của tôi
 Tổ 4&5: Môn toán, bài: Ôn tập về hình học
 Mục đích: Ba tiết dạy này phải thể hiện rõ phương pháp dạy học theo nhóm. Vì thế, chuyên môn chọn bài, ba tổ thảo luận, xây dựng thiết kế bài dạy, phân công giáo viên dạy thử . Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, cán bộ tổ dự, phân tích, góp ý xây dựng hoàn thiện. Sau đó mới dạy thể nghiệm. 
 - Chuyên đề này thể hiện rất thành công, vì huy động hết trí tuệ, năng lực của nồng cốt chuyên môn nhà trường tham gia cho bài dạy.
- Đặc biệt, toàn thể giáo viên có cơ hội tiếp cận, phần nào hiểu được về phương pháp dạy học theo nhóm.
- Giáo viên mạnh dạn vận dụng tổ chức dạy học theo nhóm vào thời điểm thích hợp của tiết học.
- Biết dành thời gian cho học sinh thảo luận nhóm để đảm bảo hoàn thành các bước: Học sinh làm độc lập, thảo luận trong nhóm, trình bày kết quả và thảo luận chung;
- Nắm được khi sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm phải có nội dung hoạt động nhóm cụ thể, thay đổi nhóm qua từng nội dung bài. Biết tạo không khí sôi nổi, khi thảo luận;
- Giao việc cụ thể, yêu cầu rõ ràng đối với mỗi học sinh, làm cho các em tích cực hoạt động, không ỷ lại;
- Học sinh làm quen dần với hoạt động nhóm, biết thảo luận nhóm và nhiều nhóm làm việc khá hiệu quả qua sự phân công trách nhiệm rõ ràng và sự điều hành linh hoạt của nhóm trưởng. 
2.2.5. Chỉ đạo tổ chuyên môn rút kinh nghiệm sau dạy thể hiện chuyên đề và thao giảng nhằm giúp giáo viên tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình dạy học.
Đây là hoạt động trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của buổi sinh hoạt chuyên môn. Để đạt được mục đích của buổi thảo luận, những người tham dự cần tham gia tích cực và chia sẻ ý kiến với tinh thần học hỏi, lắng nghe. Trong quá trình thảo luận, vai trò của người chủ trì hết sức quan trọng. Người chủ trì không những có khả năng chuyên môn mà còn phải có năng lực tổ chức, nhanh nhạy, linh hoạt xử lý các tình huống để điều hành, dẫn dắt buổi sinh hoạt chuyên môn đi đúng hướng, đúng trọng tâm, đạt hiệu quả và tạo được bầu không khí thân thiện, cởi mở, gắn bó giữa các thành viên trong nhà trường.
* Tiến trình buổi thảo luận
- Bước 1: GV dạy minh họa nêu mục tiêu của bài học, cách tiến hành bài dạy minh họa để đạt mục tiêu, những thay đổi về nội dung, phương pháp, đồ dùng dạy học để phù hợp với đối tượng học sinh và cảm nhận sau khi dạy bài học, sự hài lòng, những băn khoăn, khó khăn khi thực hiện bài dạy.
- Bước 2: GV dự giờ chia sẻ ý kiến về bài dạy
	+ Khuyến khích tất cả các GV dự giờ chia sẻ những quan sát, suy nghĩ, cảm nhận của mình về giờ học, những thông tin thu được qua quá trình quan sát. Người dự giờ có thể mô tả một tình huống học tập có vần đề hoặc mô tả chi tiết hoạt động của một HS hay một nhóm HS, phân tích nguyên nhân của hiện tượng đó và đề ra giải pháp cần thiết.
	+ Người chủ trì có thể gợi ý thảo luận khi cần thiết:
	> Những điều mình học được qua dạy minh họa?
	> Những khó khăn HS gặp phải trong giờ học?
	> Mô tả những hiện tượng quan sát được, những biểu hiện cụ thể của HS như: vẻ mặt, thái độ, hoạt động, sản phẩm..
	>Nguyên nhân của những khó khăn?
	> Giải pháp khắc phục những khó khăn?
	> Baì học có gì mới,/ sáng tạo so với SGK và SGV, điều này được thể hiện qua kết quả học tập của HS như thế nào?
	> Các nội dung/ hoạt động học tập có phù hợp với khả năng nhận thức của HS hay không?(đủ thời gian học, dễ hiểu, thu hút sự tham gia của HS)
	> HS được quan tâm/ hổ trợ như thế nào? (HS tích cực, HS yếu kém, HS bị “bỏ quên”)
	> HS có cơ hội liện hệ kiến thức đã biết để hình thành kiến thức mới như thế nào? Các em có cơ hội gúp đỡ nhau trong học tập không? Nếu có thì đó là trường hợp nào?
	+ Khi thảo luận cần lơu ý tập trung vào giải quyết các vấn đề nêu trên.
	+ Để đảm bảo không khí buổi sinh hoạt chuyên môn thân thiện, cởi mở, không căng thăng, nặng nề, người chủ trì cần tích cực khéo léo hướng buổi thảo luận đi đúng trọng tâm, đạt được mục đích, không nên để người dự xoi mói, chỉ trích hạn chế của GV dạy minh họa.
	+ Người dự cần căn cứ vào mục tiêu của bài học để đưa ra các giải pháp giúp người dạy khắc phục những hạn chế nhằm tạo cơ hội cho tất cả các HS đều được tham gia học tập, tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả.
	+ Mỗi người dự tự tìm ra những yếu tố tích cực, suy nghĩ xem mình đã học được gì từ bài dạy minh họa này, rút kinh nghiệm, học hỏi từ những vấn đề các đồng nghiệp gặp phải.
	+ Không áp đặt ý kiến, kinh nghiệm chủ quan của mình, quá chú trọng đến các quy định truyền thống của một giờ dạy.
	+ Nếu cần thiết, các GV có thể cùng thảo luận thiết kế lại bài học dựa trên thực tế và những kinh nghiệm, biện pháp được rút ra trong bài học minh họa để tiến hành ở những bài học sau.
	+ Người chủ trì tóm tắt lại các vấn đề cần lưu ý, các giải pháp để mõi GV tự suy nghĩ, rút kinh nghiệm/ áp dụng trong các giờ học thức tế và trong buổi sinh hoạt chuyên môn tiếp theo. Cụ thể trong các bài dạy được phân công của các tổ như sau:
> Những ưu điểm nổi bật:
>> Kiến thức: Một số tiết dạy, giáo viên đã thoát li được sách giáo khoa, lựa chọn được nội dung dạy phù hợp với đối tượng học sinh, xác định được kiến thức trọng tâm của bài. Giáo viên đã thể hiện được tính chủ động, linh hoạt trong dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức.
>> Phương pháp: Thông qua hoạt động nhóm, đã chú trọng đổi mới phương pháp dạy học. Tính hợp tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Học sinh tích cực, chủ động chiếm lĩnh kiến thức, giờ học nhẹ nhàng, có hiệu quả.
 Giáo viên đã biết chú ý:
 Sử dụng phương pháp dạy học phù hợp, linh động, sáng tạo.
 Nghệ thuật trình bày đồ dùng dạy học đúng mục đích, đúng thời điểm
 Phân bố thời gian hợp lí
 Hình thức dạy học chủ yếu: Cá nhân - nhóm - lớp.
> Những hạn chế:
 >>GV hiểu chưa sâu sắc các bài dạy, khai thác kiến thức mới chỉ trườn qua các câu hỏi ở sách giáo khoa, chưa tìm ra điểm nhấn trong bài.
 Ví dụ: Bài: "Ôn tập về dấu câu" phân môn Luyện từ và câu lớp 5. 
 Ở bài tập 3, sửa dấu câu cho phù hợp vào đoạn văn có tên: "Tỷ số chưa được mở". GV chưa khai thác hết yếu tố gây cười trong chuyện: Tỷ số chưa được mở chính là điểm bài tập Toán và Tiếng việt vẫn là điểm 0. Từ đó cho HS hiểu về ý thức và thái độ học tập của nhân vật Hùng trong câu chuyện.
Một số tiết kiến thức truyền thụ chưa chính xác, chưa có hệ thống, khai thác nội dung bài chưa phát huy năng lực học tập của học sinh.
 Ví dụ: Dạy các bài tập có dạng “Tìm hai số khi biết tổng (hoặc hiệu) và tỷ số củả hai số”, GV không đi từ phân tích tỷ số giữa các số đã cho, từ tỷ số đó cho ta biết điều gì? để từ ý nghĩa đó hướng dẫn HS vẽ sơ đồ, từ sơ đồ mới có cách giải, lời giải phải chặt chẽ. Trong trình bày bài giải thiếu đi những cụm từ quan trọng “Theo bài ra ta có sơ đồ”; “Từ sơ đồ ta có”. 
 	Hình thành kiến thức, kỹ năng cho học sinh thông qua hoạt động trên vật thực cho học sinh lớp 1, 2 chưa tốt. Hệ thống câu hỏi nêu vấn đề và tổ chức việc làm của GV chưa thể hiện chặt chẽ theo ý đồ SGK.
 Ví dụ: Dạy bài Phép cộng trong phạm vi 100 (cộng không nhớ). GV cần phải làm rõ ý đồ SGK: Từ hoạt động cộng trên que tính, suy ra được cách đặt tính. Còn cách thực hiện cộng từ phải qua trái hay từ trái qua phải trong trường hợp không nhớ thì đều được nhưng yêu cầu HS thực hiện từ phải qua trái để có một kỹ năng thống nhất cho mọi trường hợp. Khi dạy, GV cần đưa phép cộng 35 que tính với 24 que tính ra trước rồi nêu vấn đề: Muốn biết cộng 3 chục 5 đơn vị với 2 chục 4 đơn vị được mấy chục, mấy đơn vị ta làm thế nào? (ta phải cộng chục với chục, đơn vị với đơn vị). Muốn cộng chục với chục, đơn vị với đơn vị ta đặt que tính như thế nào ? Cho học sinh thực hành trên que tính: Lấy 35 que tính đặt rời ra, lấy 24 que tính đặt 2 chục thẳng với 3 chục, 4 đơn vị thẳng với 5 đơn vị. Như vậy tất cả có mấy chục, mấy đơn vị? (2 chục với 3 chục là 5 chục; 5 đơn vị với 4 đơn vị là 9 đơn vị). GV nói: người ta quy định cộng 5 đơn vị với 4 đơn vị là 9 đơn vị trước, 2 chục với 3 chục là 5 chục sau. Vậy cộng 35 với 24 ta đặt tính thế nào? Cộng thế nào?...
Sử dụng đồ dùng dạy học chưa hiệu quả như chưa xác định được tác dụng của bản đồ, lược đồ.
 Ví dụ: Dạy bài Địa lý lớp 5: “Các đại dương trên thế giới”
 Khi học sinh quan sát trên quả địa cầu để nhận ra rằng: Màu xanh nước biển chiếm nhiều nhất, chứng tỏ rằng đại dương chiếm phần lớn diện tích trái đất. Chứ không phải học sinh đọc thông tin ở SGK để rút ra kết luận: Đại dương chiếm phần lớn diện tích trái đất. Sau đó giáo viên minh họa trên quả địa cầu. 
 Hay dạy bài: Trái Đất; Quả địa cầu, lớp 3. Khi sử dụng quả địa cầu giáo viên quay và hướng dẫn học sinh quay quả Địa cầu không đúng theo chiều quay của trái đất (trái đất quay từ Tây sang Đông). Phân biệt Bán cầu Bắc/ Bắc bán cầu. 
>>Tổ chức hoạt động nhóm còn hình thức. GV đã cho HS trước câu hỏi và câu trả lời nên hầu hết các bài dạy đi theo một chiều, không có tình huống sư phạm. Thiếu linh hoạt khi gọi HS trình kết quả học tập khi hoạt động nhóm (đa số em nhóm trưởng được nói, được phát biểu). 
>>Một số tiết dạy tổ chức hoạt động nhóm nhưng hình thức dạy học chủ yếu là hỏi - đáp trước lớp. 
>>Có tiết dạy GV chuẩn bị bài thiếu chu đáo, dẫn đến bài dạy lúng túng làm cho học sinh không phát huy được tính tích cực, chủ động để chiểm lĩnh kiến thức mới.
 Sau khi được góp ý, trao đổi về giờ dạy, giáo viên thấy mình “lớn lên” nhiều trong chuyên môn và tự tin hơn trong đổi mới phương pháp dạy học.
 2.2.6. Chỉ đạo tổ chuyên môn hướng dẫn giáo viên tìm những biện pháp hay trong các lĩnh vực mà giáo viên đảm nhận để viết sáng kiến kinh nghiệm.
- Vào đầu năm học tổ triển khai công tác nghiên cứu khoa học và viết SKKN, cho giáo viên đăng kí tên đề tài, SKKN. 
- Nhà trường hướng dẫn lại cho cán bộ, giáo viên về cách viết và kết cấu của một SKKN theo bố cục mà ngành quy định.
- Định hướng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu SKKN cho giáo viên:
+ Hướng về viết SKKN ở phạm vi hẹp, tức là kinh nghiệm thiết kế và dạy học một chương; một bài cụ thể. Chẳng hạn như việc thiết kế dạy học một bài Tập đọc, Toán,theo tinh thần ĐMPP, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập. Chọn những bài khó dạy hay những bài mà bản thân tâm đắc.
+ Các nội dung nghiên cứu để viết SKKN rất phong phú, song cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng đại trà, chất lượng mũi nhọn học sinh giỏi, luyện viết chữ đẹp hay rèn kĩ năng đọc, viết cho học sinh lớp 1,GV lựa chọn nội dung và viết SKKN sát với chức trách, nhiệm vụ được giao.
+ Hàng tháng, BLĐ nhà trường, tổ CM đốc thúc, kiểm tra tiến độ nghiên cứu của GV. Cuối năm học, HĐKH tổ chức chấm và góp ý công khai, thẳng thắn, chọn lựa những đề tài, SKKN hay, đạt yêu cầu gửi lên HĐKH ngành.
 2.2.7. Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo và kiểm tra của Ban giám hiệu.
    Việc quản lý, chỉ đạo các tổ chuyên môn sinh hoạt vô cùng quan trọng trong việc 
thúc đẩy và nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ cũng như chất lượng dạy và học. Từ tình hình thực tế của nhà trường, tôi đã phối hợp với chuyên môn và trực tiếp chỉ đạo đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn như sau: 
- Chỉ đạo bố trí thời khóa biểu hợp lý, tạo thời gian thuận lợi cho các tổ chuyên môn sinh hoạt theo định kì. 
- Luôn quan tâm, theo dõi cũng như kiểm tra sinh hoạt CM của các tổ. Dành thời gian dự họp với các tổ chuyên môn. Việc dự họp với tổ chuyên môn là vô cùng cần thiết bởi vừa nắm bắt được tình hình hoạt động chuyên môn, vừa lắng nghe tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của anh chị em để từ đó đề ra những giải pháp chỉ đạo phù hợp với từng tổ, kịp thời động viên, khích lệ tổ trưởng cũng như CBGV nỗ lực phấn đấu để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Thường xuyên kiểm tra hồ sơ tổ, đặc biệt là biên bản sinh hoạt tổ chuyên môn. Theo định kì, tôi thường kiểm tra hồ sơ của tổ chuyên môn 1 lần/tháng. Kiểm tra biên bản sinh hoạt tổ xem các tổ có sinh hoạt đủ số lần không? Có triển khai những nội dung liên quan đến chuyên môn mà nhà trường đã triển khai không? Nội dung sinh hoạt có bàn về chuyên môn không hay là triển khai các công việc mang tính hành chính sự vụ để kịp thời nhắc nhở các tổ sinh hoạt có chất lượng. 
- Thường xuyên giao ban giữa BLĐ nhà trường với các tổ trưởng chuyên môn, khu vực trưởng vào chiều thứ 6 hàng tuần. Thông qua các cuộc họp này, tổ trưởng báo cáo việc thực hiện chương trình và công việc trong tuần, đồng thời BLĐ sẽ triển khai các công việc tuần tới của nhà trường cho các tổ trưởng, khu vực trưởng nắm. Từ đó, tổ lên KH hoạt động từng tuần để chỉ đạo GV thực hiện. 
- Tích cực, chủ động linh hoạt và sáng tạo trong việc quản lý, chỉ đạo, điều hành. Các biện pháp đưa ra không chỉ đúng về quy chế CM mà còn phải phù hợp với tình hình thực tế nhà trường và được đông đảo CBGV ủng hộ.
- Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ trong công tác quản lý, chỉ đạo của tổ trưởng chuyên môn. Coi đây là lực lượng nòng cốt trong việc giúp nhà trường thực hiện các hoạt động chuyên môn và nâng cao chất lượng giáo dục cho nhà trường.
 2.3. Kết quả đạt được: 
Một năm học với bao trăn trở, suy nghĩ và trải nghiệm thực tế đã mang lại cho nhà trường những chuyển biến mạnh mẽ, rõ nét trong hoạt động chuyên môn. Năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên và kết quả học tập của học sinh từng bước được khẳng định. Với việc vận dụng thành công các biện pháp đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn đã có tác dụng lớn trong công tác giảng dạy và học tập, mang lại kết quả cao trong đợt khảo sát cuối năm học. Cụ thể: 
- Năng lực sư phạm của giáo viên: 
TS
Tốt
Khá
Đạt yêu cầu
Ghi chú
SL
TL
SL
TL
SL
TL
17
9
48,3
8
51,7
0
Tăng
02
11,8
So sánh với đầu năm học
- Kết quả học tập của học sinh cuối năm học: 100% hoàn thành nội dung các môn học, có 65% số HS được khen toàn diện và các mặt.
3. Phần kết luận:
3.1. Ý nghĩa của sáng kiến kinh nghiệm.
Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động thường xuyên của nhà trường và có ý nghĩa hết sức quan trọng. Đó là một trong những hình thức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, giúp giáo viên chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh của lớp, của trường mình.
Nếu chỉ đạo tốt sinh hoạt chuyên môn, nhất là đổi mới nội dung sinh và hình thức sinh hoạt thì tổ chuyên môn và chuyên môn trường sẽ là nơi tụ hội của nhiều giáo viên ham học hỏi, tâm sự, giải bày những vướng mắc trong chuyên môn để từng bước tự hoàn thiện mình về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực sư phạm nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Đây cũng chính là điểm tụ hội của những giáo viên có tâm huyết với nghề và bồi dưỡng giáo viên giỏi làm nòng cốt trong các tổ chuyên môn. 
 3.2. Bài học kinh nghiệm: 
 Qua trải nghiệm thực tế chỉ đạo tổ chuyên môn đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt tổ, tôi nhận thấy: Những giáo viên có ý thức trách nhiệm cao trong công việc, tâm huyết với nghề thì không bao lâu sẽ thành đạt trong lĩnh vực chuyên môn. Vì thế, trong chỉ đạo sinh hoạt tổ chuyên môn cũng như trong giảng dạy mỗi cán bộ quản lí và giáo viên cần lưu tâm những vấn đề sau:
Một là: Ban giám hiệu nhà trường cần cải tiến cách quản lí từ khâu chỉ đạo đến khâu thực hiện, xây dựng kế hoạch trên cơ sở của tổ chuyên môn, chuyên môn trường. Đồng thời, biết thống nhất nội dung cần sinh hoạt, có quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn nội dung và hình thức sinh hoạt chuyên môn (tổ, trường, cụm trường) cho phù hợp, phong phú, đa dạng và sinh động hơn.
Hai là: Bồi dưỡng năng lực tổ chức, điều hành cho đội ngũ tổ trưởng. Thực tế cho thấy một buổi sinh hoạt chuyên môn thành công phụ thuộc vào khả năng và chuyên môn của người điều hành. 
 Ba là: Ban giám hiệu cần quản lí chặt chẽ nội dung các buổi sinh hoạt chuyên môn, tùy theo tình hình thực tế của nhà trường hay từng khối lớp để có sự hướng dẫn, định hướng nội dung sinh hoạt chuyên môn phù hợp.
 Bốn là: Sinh hoạt chuyên môn nhằm giúp giáo viên mạnh dạn vận dụng đổi mới phương pháp dạy học, biết thiết kế bài dạy, biết vận dụng phương pháp DH như thế nào để giúp học sinh hiểu bài và vận dụng vào làm bài tập có hiệu quả. Song tùy nội dung từng bài (Hình thành kiến thức, luyện tập, ôn tập, kiểm tra...) mà tổ chức các hoạt động học tập phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức của học sinh.
 Năm là: Phương pháp dạy học theo nhóm tương đối mới đối với một số giáo viên. Qua sinh hoạt chuyên môn, vận dụng dạy học theo nhóm giúp giáo viên biết chia nhóm ngẩu nhiên, nhóm cùng đối tượng, nhóm lớn, nhóm đôitổ chức hoạt động nhóm vào thời điểm nào cho phù hợp. Biết thiết kế các phiếu giao việc, phiếu học tập, cách giao việc và cách kiểm tra kết quả học tập của học sinh như thế nào để có hiệu quả.
 Sáu là: Tổ chức sinh hoạt chuyên môn rút kinh nghiệm sau các giờ dạy thao giảng, chuyên đề, thi giáo viên dạy giỏi các cấp, từ đó giúp giáo viên mạnh dạn, tự tin hơn trong ĐMPP dạy học. Những kiến thức giáo viên tích cóp được làm hành trang vững chắc trong quá trình giảng dạy. 
 Bảy là: Khi bản thân giáo viên tự tìm tòi, nghiên cứu, thiết kế bài dạy và thể hiện bài dạy của mình, được đồng nghiệp góp ý, họ càng khắc sâu kiến thức, kĩ năng và PPDH, từ đó viết sáng kiến kinh nghiệm. Đây chính là công đoạn giáo viên được trải nghiệm trong bồi dưỡng và tự bồi dưỡng, các giáo viên tâm huyết biết chia sẻ, giúp đỡ giáo viên yếu và cũng là những hạt nhân nòng cốt chuyên môn của tổ, của trường; tạo điều kiện cho giáo viên học tập lẫn nhau, không ngừng trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực sư phạm cho đội ngũ .
 Tám là: Việc đánh giá, nhận xét, động viên, khen thưởng kịp thời của hiệu trưởng qua các đợt thi đua, dự giờ, dạy chuyên đề, kiểm tra toàn diện là động lực thúc đẩy đội ngũ phấn đấu vươn lên khẳng định năng lực của mình trong tập thể. Người Hiệu trưởng cũng chính là điểm tựa cho giáo viên học hỏi, là người quyết định sự thành đạt của giáo viên trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ.
 Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã suy nghĩ, thể hiện và trải nghiệm ở trường Tiểu học nơi tôi công tác có hiệu quả. Từ đó, tôi đã đúc kết được cách chỉ đạo tổ chuyên môn đổi mới nội dung và hình thức, nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ. Với năng lực và thời gian có hạn, bài viết còn có những hạn chế.Vì thế, tôi kính mong các đồng chí, đồng nghiệp, lãnh đạo các cấp, chuyên viên phòng góp ý, trao đổi để bản thân tôi bổ sung sáng kiến kinh nghiệm được hoàn thiện hơn. Đồng thời giúp các trường Tiểu học nói chung và trường Tiểu học tôi đang công tác nói riêng có cách tổ chức sinh hoạt tổ chuyên môn đảm bảo về nội dung, phong phú, đa dạng về hình thức và mang đậm màu sắc chuyên môn.
 Tôi chân thành cảm ơn !

File đính kèm:

  • docBiện_pháp_chỉ_đạo_tổ_chuyên_môn_đổi_mới_nội_dung_và_hình_thức,_nâng_cao_chất_lượng_sinh_hoạt_tổ.doc
Sáng Kiến Liên Quan