Sáng kiến kinh nghiệm Áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học
Thực trạng áp dụng đổi mới phương pháp trong dạy học Tiếng Việt ở tiểu học
1.1. Về phía giáo viên
Qua khảo sát thực trạng sử dụng đổi mới phương pháp dạy học trong dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học chúng tôi nhận thấy: Phần lớn giáo viên chưa hiểu rõ đổi mới phương pháp dạy học. Một bộ phận giáo viên khác thì hiểu chưa đúng về phương pháp này họ cho rằng đó chỉ là sự tác động qua lại giữa giáo viên - học sinh, song sự tác động đó chỉ diễn ra theo một chiều là giáo viên tác động đến học sinh chứ chưa có chiều ngược lại, chưa có sự đổi mới phương pháp dạy học giữa học sinh - học sinh; học sinh - giáo viên - môi trường. Chỉ có một bộ phận nhỏ giáo viên có quan niệm đúng đắn và đổi mới phương pháp dạy học, phần lớn trong số họ được đào tạo chính quy ở các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm và đạt được giải cao trong các kỳ thi giáo viên dạy giỏi các cấp.
Tuy nhiên qua việc dự giờ, thăm lớp chúng tôi nhận thấy: Trong quá trình dạy học Tiếng Việt giáo viên mặc dù chưa hiểu biết nhiều về đổi mới phương pháp dạy học, nhưng họ cũng có ý thức tổ chức cho học tập thông qua hoạt động cùng học, cùng chơi với bạn song hiệu quả của sự đổi mới phương pháp dạy học giữa giáo viên - học sinh; học sinh - học sinh; giáo viên - học sinh - môi trường chưa cao. Hoạt động học tập của học sinh thông qua thảo luận nhóm, trò chơi học tập không trở thành hoạt động của từng cá nhân học sinh và của cả tập thể học sinh. Hoạt động học tập thông qua vui chơi của trẻ nhiều khi không phù hợp với nội dung bài học. Chẳng hạn, khi dạy bài tập đọc ''Người mẹ hiền'' TV 2 có giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi đóng vai để diễn tả lại cảnh Nam và Minh chui qua lỗ hổng ở bờ tường. Thành ra tuy có sự đổi mới phương pháp dạy học giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh song sự đổi mới phương pháp dạy học đó lại không nhằm vào củng cố mở rộng, khắc sâu bài học mà chỉ dừng lại ở mức độ minh hoạ cho lý thuyết về đa dạng hoá các phương pháp dạy học một cách máy móc, dập khuôn, khi sử dụng các phương pháp dạy học như giảng giải, hỏi đáp giáo viên không chú ý tạo ra mối liên hệ ngược từ phía học sinh đến giáo viên. Hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu chủ yếu là dạy học cả lớp, ít có dạy học cá nhân, dạy học theo nhóm. Khi tổ chức dạy học theo nhóm hiệu quả cũng chưa cao.
1.2. Về phía học sinh
Môn học Tiếng Việt hầu hết các em đều dành thái độ, tình cảm tốt đẹp đối với môn học này, nhưng các em cũng cho rằng đây là môn học khó. Một phần do ngữ liệu xa rời cuộc sống của các em, trong sách giáo khoa có nhiều bài tập, câu hỏi suất hiện quá nhiều như câu hỏi tái hiện trong phần môn tập đọc, bài tập điền từ trong phần ngôn từ ngữ,.gây tâm lý nhàn chán, đơn điệu ở học sinh khi học, không kích thích được sự hợp tác giữa giáo viên - học sinh trong việc giải quyết các nhiệm vụ học tập. Phần khác do cách thức lên lớp của giáo viên không kích thích được hứng thú học tập của các em, không tạo điều kiện cho mọi học sinh trong lớp được hoạt động, một giờ dạy được đánh giá là thành công khi trong giờ dạy đó có một vài học sinh tham gia phát biểu ý kiến, số học sinh còn lại làm gì giáo viên không kiểm soát được. Ví dụ trong phân môn Tập Đọc học sinh rất hứng thú khi đọc các ngữ liệu, nhưng đến khi giáo viên dạy Tập Đọc thì chỉ có một số em làm việc, số khác ngồi chơi hoặc làm việc khác.
a chiêng; đánh giá kết quả học tập; đánh mất vở ..... và 20 thẻ bằng giấy màu khác có kích thước bằng nhau, trên mỗi thẻ ghi rõ một nghĩa của từ ''Đánh'' . Ví dụ: Dùng roi để làm cho đau; Dùng một vật tác động vào một vật khác để tạo ra âm thanh; định giá trị cho kết quả học tập, làm xảy ra việc không may do sơ xuất ... Giáo viên chuẩn bị 4 tờ giấy khổ rộng cho 4 đội. Cách tiến hành: - Luật chơi: Mỗi đội được phát 5 thẻ ghi rõ kết hợp của từ ''đánh'' và 5 thẻ ghi rõ nghĩa của từ ''đánh'' tương ứng với các kết hợp trên. Khi có lệnh ''bắt đầu'' các thành viên trong đội trao đổi để ghép lời giải nghĩa của từ ''Đánh'' trong mỗi kết hợp sau đó nhanh chóng dán cặp lời giải vào giấy khổ rộng rồi dán lên bảng để cho các bạn (đội khác) và giáo viên kiểm tra, cho điểm. Đội nào làm đúng, nhanh là thắng. - Phân công chơi: Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm đội, cử đội trưởng phát giấy khổ rộng cho các nhóm. - Tiến hành chơi: Học sinh bàn bạc, trao đổi để ghép lời giải nghĩa chứa từ “đánh” trong mỗi kết hợp, chẳng hạn: “Dùng roi để làm cho đau” ghép với kết hợp “đánh mấy roi”; “Dùng một vật tác động vào một vật khác để tạo ra âm thanh” ghép với kết hợp “đánh trống khua chiêng”... - Nhận xét: Giáo viên và học sinh dựa vào số lượng và độ chính xác của cặp lời giải, mức độ làm xong nhanh hay chậm của các nhóm. Trò chơi 3 : Trò chơi: Ai tìm từ giỏi. Được sử dụng cho tất cả các bài ôn tập phần học vần ở lớp 1. - Tên trò chơi: : Ai tìm từ giỏi. - Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các thẻ hình chữ nhật trên đó ghi các âm, vần học sinh đã được học trong tuần. Ví dụ: Ở tuần 7 có các vần, ai, ai, ôi, ơi, ưu, ui, ưi, ươi, uôi, ay, ây. - Cách thức tiến hành : - Luật chơi: Khi trọng tài lấy một thẻ chữ bất kỳ giơ cho mọi người nhìn rõ và hô ''bắt đầu'' từng thành viên trong nhóm nhanh chóng thảo luận để tìm từ, tiếng có âm vần có trong thẻ chữ và ghi vào giấy. Hết thời gian quy định các nhóm nhanh chóng dán kết quả lên bảng để tổ trọng tài kiểm tra và ghi điểm - Phân công chơi: + Giáo viên chia lớp thành các nhóm nhỏ, số lượng thành viên trong mỗi nhóm là như nhau, mỗi nhóm chuẫn bị một mảnh giấy nhỏ trên đó ghi sẵn tên của nhóm. + Giáo viên cử 1 nhóm từ 3 -5 học sinh làm trọng tài. - Tiến hành chơi: Học sinh tìm từ tiếng có âm, vần trong thẻ chữ rồi ghi vào giấy. - Nhận xét: Tổ trọng tài căn cứ vào số lượng và độ chính xác của từ, tiếng các đội tìm được, mức độ làm xong nhanh hay chậm của các nhóm... 2. Hình thức dạy học 2.1. Học cá nhân trên lớp Đứng trên lập trường của đổi mới phương pháp dạy học có thể hiểu hình thức dạy học cá nhân là hình thức dạy học mà học sinh được lĩnh hội kiến thức thông qua sự giúp đỡ, hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên có thể hướng dẫn, giao nhiệm vụ học tập cho từng học sinh để đáp ứng yêu cầu học tập của các em và ngược lại từng học sinh có thể làm việc trực tiếp với giáo viên. Giáo dục học hiện đại đã chỉ ra rằng: Việc tổ chức dạy học theo hình thức học cá nhân trên lớp phải được hiện theo đúng trình tự sau: Giáo viên giao nhiệm vụ học tập cho từng học sinh, sau khi nhận nhiệm vụ học tập học sinh tiến hành thực hiện các nhiệm vụ được giao, sau đó giáo viên tổ chức cho học sinh thể hiện kết quả làm việc của mình, gíao viên lắng nghe và nhận xét kết quả học tập của cá nhân. Trong môn học Tiếng Việt ở tiểu học hình thức dạy học này được sử dụng rộng rãi trong cả 8 phân môn, song để tổ chức hình thức dạy học này có hiệu quả cần tiến hành như sau: - Trước tiên giáo viên giao nhiệm vụ học tập cho từng các nhân, nhiệm vụ đó có thể giống nhau hoặc khác nhau phụ thuộc vào nội dung bài học, trình độ nhận thức của từng học sinh và được thể hiện bằng phiếu học cá nhân hoặc bằng lời nhưng tốt nhất là dùng phiếu bài tập, phiếu bài tập là hệ thống bài tập và nhiệm vụ mà từng học sinh phải thực hiện trong giờ học để lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, hình thành kỹ xảo. Sau đây là một số phiếu bài tập được xây dựng trên tinh thần của đổi mới phương pháp dạy học: Phiếu 1 : Em hãy điền tên nhân vật (Sẻ hoặc Chích) vào trước hành động thích hợp và sắp xếp các hoạt động ấy thành một câu chuyện . Kể lại câu chuyện : 1) Một hôm ............................................ được bà gửi cho một hộp kê . 2) Thế là ngày nào .................................... cũng nằm trong tổ ăn kê một mình. 3) ........................................ đi kiếm mồi tìm được những hạt kê ngon lành ấy. 4) Khi ăn hết, ............................................................ bèn quẳng chiếc hộp đi. 5) .......................... không muốn chia cho ........................ cùng ăn. 6) .................... bèn gói cẩn thận những hạt kê còn sót lại vào chiếc lá rồi đi tìm người bạn thân của mình. 7) Gió đưa những hạt kê trong hộp bay xa. 8) ....................................... vui vẻ đưa cho ........... một nửa. 9) .......... ngượng nghịu nhận quà của ............... và "tự nhủ............ đã cho mình một bài học quý giá về tình bạn.” (“Kể lại hành động nhân vật” - TV 4) Phiếu 2: Câu 1: Câu nào trong đoạn văn sau em cho là khó đọc ? Dùng một gạch xiên ( / ) thể hiện chỗ ngắt giọng, một gạch đứng ( | ) thể hiện chỗ nghỉ và gạch chân dưới những từ ngữ cần nhấn giọng trong câu đó: a) “Có một cậu bé được bà sai đi chợ. Bà đưa cho cậu haiđồng và hai cái bát, dặn: - Cháu mua một đồng tương, một đồng mắm nhé !....” b) “Cậu bé vâng dạ, đi ngay. Gần tới chợ, cậu bỗng hớt hải chạy về hỏi bà: - Bà ơi, bát nào đựng tương, bát nào đựng mắm ? Bà phì cười. - Bát nào đựng tương, bát nào đựng mắm mà chẳng được !...” c) “Cậu bé lại ra đi. Đến chợ, cậu lại ba chân bốn cẳng chạy về hỏi : - Nhưng đồng nào mua mắm, đồng nào mua tương ạ ?” Câu 2: Nối nhân vật với giọng đọc của nhân vật mà em cho là đúng. Cậu bé Trầm, nhẹ nhàng, không nén nổi buồn cười. Bà Chậm rãi, hài hước. Người dẫn chuyện Ngây thơ, ngốc nghếch, trong sáng. Câu 3: Đánh dấu nhân vào ô trống em lựa chọn. £ Truyện vui “Đi chợ” nói lên sự thông minh, nhanh trí của cậu bé. £ Truyện vui “Đi chợ” nói đến chuyện tương và mắm ở quê cậu bé rất ngon. £ Truyện vui “Đi chợ” nói lên sự ngây thơ ngốc nghếch của cậu bé. Câu 4: Nếu được trả lời cậu bé thay bà, em sẽ nói với cậu bé như thế nào? (“Đi chợ” - TV ). Phiếu 3:Hãy nhớ và viết đoạn thơ từ “Nhìn thấy gió”đến “cử kính vỡ rồi” trong bài “Tiểu đội xe không kính”(Chính tả - TV4) Phiếu 4: Vì sao bức tranh quê hương rất đẹp? Chọn câu trả lời đúng nhất. 1- Vì quê hương rất đẹp. 2- Vì bạn nhỏ trong bài thơ vẽ rất gỏi. 3- Vì bạn nhỏ yêu quê hương. (“Vẽ quê hương” - TV 3 - CTTN) Phiếu 5: Tìm một từ có thể điền vào các chỗ trống dưới đây: a. Một ....bút một....thuyền, b. Một ....sao một...con thỏ c. Một....bộ đội một ....học sinh. (Luyện từ và câu - TV 3) Từ những phiếu học trên ta thấy: Phiếu học có thể sử dụng trong toàn bộ tiến trình lên lớp, nhưng cũng có thể chỉ sử dụng ở một khâu nào đó của quá trình. Song về mặt nội dung phiếu học chứa đựng hệ thống kiến thức, kỹ năng cần hình thành cho học sinh trong quá trình học tập. Chính hệ thống bài tập và nhiệm vụ trong phiếu là phương tiện truyền tải tác động sư phạm của giáo viên tới 100% học sinh. Sau khi giao nhiệm vụ học tập cho từng thành viên trong lớp giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi để hướng dẫn học sinh tìm hiểu yêu cầu của phiếu sau đó từng thành viên trong lớp tiến hành các hành động học tập để giải quyết các nhiệm vụ, giáo viên lúc này có quan sát, giúp đỡ học sinh học năng lực còn hạn chế, khen thưởng học sinh học tốt. Khi học sinh làm bài tập xong giáo viên tổ chức cho học sinh trình bày kết quả làm việc của mình để học sinh khác, giáo viên kiểm tra hoặc yêu cầu học sinh kiểm tra chéo. Giáo viên lắng nghe học sinh trình bày kết quả làm việc vủa mình, nhận xét sửa sai cho các em và đưa ra đáp án chính xác của các nhiệm vụ học tập đó để “chốt” lại nội dung bài học, ý “chốt” này của giáo viên là thước đo kết quả làm bài của học sinh. Như vậy, thông qua phiếu học giáo viên thể hiện vai trò của người hướng dẫn qua việc thiết kế, tổ chức, điều khiển hoạt động giải bài tập và nhiệm vụ của học sinh theo một trình tự nhất định nhằm giúp học sinh sáng tạo (với nghĩa là sáng tạo lại) những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho bản thân, đó là cách tối ưu nhất để học sinh hiểu sâu, rộng những kiến thức, kỹ năng này bởi “Sáng tạo ra sự vật là cách tốt nhất để hiểu sự vật”. Trong quá trình tác động đến học sinh, giáo viên cũng thu được những tín hiệu ngược lại từ phía học sinh cụ thể là: Thông qua quá trình tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập và đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên có thể biết được tác động sư phạm của mình là tích cực hay tiêu cực để từ đó có biện pháp duy trì hoặc điều chỉnh nó. Như vậy thông qua phiếu học giáo viên đã tác động tới học sinh và học sinh cũng tác động trở lại giáo viên. Trong khi thực hiện cùng một nhiệm vụ học tập ở những học sinh khác nhau có thể có những đáp án khác nhau. Chính sự khác nhau này đã thôi thúc các em suy nghĩ, lý giải căn nguyên của hiện tượng trên. Trong quá trình suy nghĩ, lý giải đó các em sẽ phát hiện ra chỗ sai, chỗ đúng, chỗ thiếu,... của bạn, của mình để có biện pháp học tập hoặc sửa chữa. Hoặc khi giải quyết các nhiệm vụ học tập khác nhau thì việc lắng nghe kết quả làm bài của bạn cũng là cách giúp học sinh lĩnh hội tri thức cho bản thân. Như vậy là thông qua việc thực hiện và thể hiện đáp án của bài tập và nhiệm vụ trong phiếu giữa học sinh với học sinh cũng có sự tác động qua lại. Tuy nhiên trong quá trình tác động qua lại giữa học sinh - học sinh, giáo viên đóng vai trò đặc biệt quan trọng bởi với tư cách là người trọng tài giáo viên sẽ lắng nghe và giúp các em xác định đâu là chân lý khoa học để từ đó học sinh đối chiếu với kết quả làm việc của bản thân để kiểm tra và điều chỉnh nó. Việc làm của giáo viên như vậy là giáo viên đã thực hiện tác động đến học sinh. Vậy môi trường trong dạy học cá nhân ảnh hưởng như thế nào đối với giáo viên, học sinh? Có thể hiểu một cách chung nhất về môi trường trong dạy học cá nhân theo tinh thần của đổi mới phương pháp dạy học đó là bầu không khí cởi mở, thoải mái nhưng nghiêm túc giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh. Môi trường này được xây dựng trên mối quan hệ bình đẳng, cùng hợp tác giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh. Giáo viên không còn là người đứng ở trên cao áp đặt kiến thức xuống đầu học sinh, trái lại giáo viên cùng là người hợp tác, giao lưu với học sinh để cùng học sinh giải quyết các nhiệm vụ học tập theo cách của người hướng dẫn. Chính bầu không khí được xây dựng trên quan hệ đó đã kích thích tính tích cực học tập, giao lưu, cùng học cùng tham gia của các tác nhân làm cho nhiệm vụ học tập được giải quyết một cách nhẹ nhàng, hiệu quả. Bên cạnh việc dùng phiếu bài tập giáo viên có thể sử dụng phương pháp trò chơi, đàm thoại...trong khi tổ chức hình thức dạy học cá nhân, song việc sử dụng nó phải đảm bảo cho 100% học sinh được tham gia vào hoạt động học tập và hợp tác với bạn, với thầy. 2.2. Dạy học theo nhóm Dạy học theo nhóm là hình thức dạy học chia lớp thành nhiều nhóm, chế độ hoạt động của học sinh trong nhóm là: Thảo luận, trao đổi, bàn bạc và kiểm tra chéo nhau trên cơ sở đó mà lựa chọn giải pháp đúng đắn nhất. Vận dụng kết quả nghiên cứu của giáo dục học về hình thức tổ chức dạy học theo nhóm vào một môn học cụ thể là môn Tiếng Việt ở tiểu học, chúng tôi nhận thấy muốn sử dụng hình thức dạy học này cần thực hiện các công việc sau: - Để có thể dạy học theo nhóm trước hết phải có nhóm học tập, muốn vậy giáo viên phải nắm được kỹ thuật chia nhóm tuỳ theo nội dung, tính chất bài học, môn học mà giáo viên chia nhóm theo trình độ, sở thích của học sinh hay tổ chức các nhóm hỗn hợp. Việc chia nhóm của học sinh không nên cố định trong một thời gian dài bởi nó ảnh hưởng đến hiệu quả giao tiếp, hợp tác của học sinh (Xem thêm mục 1.1. Phương pháp thảo luận). Có thể nói lúc này giờ học lúc này được cấu thành bởi từng nhóm học tập nhỏ thay vì cá nhân riêng lẻ... - Sau khi chia nhóm giáo viên giao nhiệm vụ học tập cho các nhóm, nhiệm vụ học tập này có thể giống hoặc khác nhau ở các nhóm song phải được xây dựng trên cơ sở nội dung bài học và trình độ nhận thức của học sinh. Chính nhiệm vụ học tập làm nên nét khác biệt giữa nhóm học tập với nhóm ngoài xã hội, nhiệm vụ này sẽ quy định sự tồn tại của nhóm, cách thức tổ chức nhóm trong dạy học, tạo nên dự giàng buộc trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thành viên. Chính nhờ điều này mà nhóm và hình thức dạy học theo nhóm trở thành một phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao đặc biệt trong việc hình thành các phẩm chất trí tuệ, phẩm chất nhân cách của con người trong xã hội cùng tồi tại, phát triển. Nhiệm vụ học tập của nhóm về mặt hình thức được thể hiện bằng phiếu hoặc bằng lời, về mặt nội dung đó là hệ thống các chuẩn mực về kiến thức, kỹ năng, thái độ của học sinh trong một giờ học, một bài học.Sau đây là một số nhiệm vụ học tập thường được sử dụng trong dạy học theo nhóm ở một số phân môn của môn Tiếng Việt: Ví dụ 1: Hãy cùng bạn quan sát một loại cây em thích và trả lời các câu hỏi sau: Câu 1: Đánh dấu x vào ô trống xác định trình tự quan sát cái cây em thích: £ Từ gần đến xa. £ Từ dưới lên trên £ Từ xa đến gần £ Từ trên đến dưới. Câu 2: Ghi lại các đặc điểm của cây sau khi quan sát (theo các câu hỏi gợi ý sau): a) Thân cây: + Màu sắc ra sao? ............................................................................. + Sờ tay vào thân cây em thấy thế nào? ............................................ b) Lá cây: + Hình gì? .......................................................................................... + Màu sắc ra sao? .............................................................................. + Có thể so sánh lá cây với vật gì?..................................................... c) Hoa: + Màu sắc ..................................................................................................... + Hương thơm thế nào? Có thể so sánh với hương thơm của loại hoa gì?... + Dáng vẻ ra sao ? Có thể so sánh hoa, cánh hoa, nhuỵ hoa với vật gì?... d) Em hãy tìm một số từ ngữ diễn đạt những ý quan sát được: .................... Ngoài những bộ phận trên, em còn quan sát được những bộ phận nào khác của cây? Hãy ghi rõ hình dáng, màu sắc của chúng? ........................................... Câu 3: + Cái cây mà em quan sát có đặc điểm gì nổi bật ? Có thể dùng từ ngữ nào để diễn đạt ? .... + Khi quan sát các bộ phận của cây em thấy hình ảnh nào đáng chú ý nhất ? Hãy nêu rõ cảm xúc, suy nghĩ của mình ? .... (“Tập quan sát cây cối” - TV 4 - CT TN) Ví dụ 2: Khi nói về mục đích tác động đến người đọc có 2 ý kiến: 1-Tác giả muốn ca gợi đức tính chí công vô tư biết vì lợi ích chung của Tô Hiến Thành. 2- Tác giả muốn nêu lên một bài học kinh nghiệm về việc sử dụng người đúng với khả năng không màng danh lợi. Hãy trao đổi với bạn nhận xét của em về 2 ý kiến trên. (“Một người chính trực” - T V 4) Ví dụ 3: Hãy cùng bạn bên cạnh tìm các từ chứa tiêng có âm r, d, gi có nghĩa như sau: - Có nét mặt, hình dáng, tính nết, màu sắc... gần như nhau. - Phần thân cây lúa càn lại sau khi gặt. - Truyền kiến thức, kinh nghiệm cho người khác. - Bộ phận để bao bọc cơ thể người, động vật. (Chính tả: Phân biệt r/d/gi - TV 3) Ví dụ 4: Em sẽ nói gì khi: - Lỡ dẫm vào chân bạn. - Em mải chơi, quên làm việc nhà. - Em đùa nghịch va phải một cụ già. (“Nói lời xin lỗi” - TV 2) Sau khi nhận nhiệm vụ học tập các nhóm trưởng đọc nội dung thảo luận cho từng thành viên trong nhóm nghe, dưới sự điều kiển, phân công của nhóm trưởng các thành viên trong nhóm lần lượt trao đổi, bàn bạc về nội dung học tập từ đó chọn ra giải pháp hợp lý nhất để chẩn bị trình bày trước lớp. Giáo viên trong quá trình học sinh làm bài cần bao quát lớp, không để các em đùa nghịch làm ảnh hưởng đến hoạt động học tập của cả nhóm. Để bao quát được lớp giáo viên cần đến với các nhóm, giúp các em học tập đồng thời động viên các em tham gia học tập cùng nhóm, em nào mải chơi, mải nghịch giáo viên cần nhắc nhở ngay, ý kiến của nhóm có thể được trình bày bằng lời hoặc tóm tắt trên giấy khổ lớn. Sau mỗi lần các nhóm trình bày cần có thời gian để học sinh nhóm khác hỏi, thắc mắc, chất vấn và nhóm vừa trình bày phải giải thích thêm hoặc cung cấp thêm thông tin. Kết thúc thảo luận giáo viên tổng kết, “chốt” lại ý đúng và giảng giải thêm cho học sinh hiểu sâu hơn về nhiệm vụ học tập. Từ quy trình tổ chức dạy học theo nhóm như trên trên chúng ta thấy trong hình thức dạy học theo nhóm những kiến thức, kỹ năng, thái độ mà học sinh lĩnh hội được hình thành thông qua quá trình tự vận động của bản thân và trao đổi giao lưu với bạn, thầy. Trong quá trình đó các em còn biết cách lắng nghe, kiểm tra, kiểm soát đánh giá công việc của nhóm của từng thành viên và của bản thân mình. Nhờ sự tác động nhiều chiều như vậy mà tri thức được hình thành trở nên sâu sắc hơn, bền vững hơn. Bầu không khí học tập tích cực, sôi nổi của nhóm có tác dụng kích thích học sinh tiếp thu kiến thức, trách nhiệm với việc học của mình tạo cho các em cơ hội trình bày quan điểm, suy nghĩ, ý tưởng của mình với bạn, với thầy cô thông qua đó học được cách hợp tác, thích nghi với môi trường tập thể. Từ đó hình thành nên mối liên hệ giữa các thành viên trong nhóm theo hướng biết chan hoà, thông cảm, động viên, hỗ trợ lẫn nhau. Giáo viên thông qua việc lắng nghe ý kiến của học sinh sẽ có biện pháp điều chỉnh hoặc tiếp thu tục duy trì những nội dung và phương hướng học của mình đồng thời điều chỉnh được những ý kiến, quan điểm chưa đúng của học sinh. Còn học sinh sau khi nghe kết luận chung nhất của giáo viên về vấn đề các em đang bàn bạc, các em có thể tự điều chỉnh nhận thức quan điểm của mình làm cho nó trở nên đúng đắn hơn hoặc lĩnh hội nó một cách sâu sắc hơn toàn diện hơn kiến thức lĩnh hội được sẽ giảm bớt tính chủ quan, phiến diện, tính khách quan, khoa học được tăng lên. Có thể nói việc tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ không những nâng cao hiệu quả học mà còn rèn luyện cho học sinh khả năng hợp tác, thích ứng. PHẦN: KẾT LUẬN 1. Kết luận Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi rút ta những kết luận sau: - Ngày nay trong xu hướng đổi mới giáo dục, nhà trường phổ thông nói chung và nhà trường tiểu học nói riêng luôn lấy học sinh làm nhân vật trọng tâm. Kết quả học tập của học sinh được đánh giá cao không chỉ ở mức độ hoạt động nhận thức cá nhân mà còn là mức độ hoạt động của cá nhân trong sự đổi mới phương pháp dạy học với nhóm. Vì vậy việc tổ chức dạy - học không những huy động được phương pháp nhận thức cá nhân mà còn cả cách thức giao tiếp, nhận thức của người học vào việc giải quyết các nhiệm vụ học tập. đổi mới phương pháp dạy học với tư cách là một chiến lược dạy học tiến bộ khi được sử dụng trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở tiểu học hoàn toàn có khả năng làm được điều đó bởi: Sự lĩnh hội các kiến thức ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp của học sinh là kết quả của hoạt động nhận thức cá nhân và sự cọ sát giữa cá nhân với tập thể dưới sự tổ chức hướng dẫn của giáo viên. Không những thế nó còn hình thành ở học sinh bản lĩnh để giải quyết các vấn đề trong một xã hội thu nhỏ (lớp nhóm) và khả năng thích nghi trong môi trường tập thể. - Đổi mới phương pháp dạy học khi được sử dụng trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở tiểu học được thể hiện thông qua phương pháp dạy học thảo luận nhóm, trò chơi học tập với các hình thức dạy học theo nhóm, cá nhân nên việc nắm vững kỹ thuật tổ chức học tập theo nhóm, cơ sở vật chất đặc biệt là chất lượng của vấn đề đưa ra thảo luận, chất lượng của trò chơi có ý nghĩa quan trọng trong việc khẳng định hiệu quả của này. Tuy nhiên trong quá trình dạy học Tiếng Việt ở tiểu học giáo viên không chỉ sử dụng một, hai phương pháp dạy học mà sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau. Do đó phải tuỳ theo mức độ, tính chất của bài học mà xá định thời điểm thích hợp để vận dụng đổi mới phương pháp dạy học vào quá trình dạy học. Điều này có nghĩa quan trọng vì nó quyết định chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học Tiếng Việt. Vĩnh Mỹ B, ngày 21 tháng 12 năm 2018 NGƯỜI THỰC HIỆN Đoàn Văn Hôn
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ap_dung_doi_moi_phuong_phap_trong_day.doc