Nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4

 Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Tập làm văn là môn tổng hợp cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Mục tiêu của cả người dạy và người học là “ có cảm xúc” trong mỗi tiết học văn. Người giáo viên giúp cho các em cảm nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và thể hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô khan.

 Qua thực tế dạy môn Tập làm văn nhiều năm ở lớp 4, tôi nhận thấy bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Đây là điều tất nhiên, vì ở lứa tuổi này vốn sống và vốn kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó, tôi rất băn khoăn và trăn trở: “ Làm thế nào để giúp các em yêu thích môn văn? Để giúp các em có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, của cảnh vật, thiên nhiên đất nước? Giúp các em có cơ hội bộc lộ cảm xúc của cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách cho các em?”.

 

doc25 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 6871 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Nâng cao hiệu quả dạy Tập làm văn cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i tả.
- Nhìn từ xa, cây bàng một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
- Những trái chuối cong cong vầng trăng khuyết.
- Những chiếc gai những chú lính đứng trang nghiêm gác cho nàng công chúa hoa hồng.
 	 Ở dạng bài này hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống như, tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt.
c. Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích hợp vào mỗi chỗ trống để mỗi dòng dưới trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như (bàn tay vẫy hoặc một mặt trời mới mọc)
- Hoa bỏng treo lủng lẳng từng chùm trên cây như (những chiếc đèn lồng nhỏ xíu hoặc chùm quả).
- Ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như (những mũi tên bay trong gió hoặc những viên đạn rời khỏi lòng súng).
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như (hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che chở cho các chú gà con.
- Ánh mắt dịu hiền của mẹ là (ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời con hoặc ngôi sao dẫn 
đường cho con đi lên phía trước).
- Nụ hồng trông giống hệt những (chiếc tháp) bé bé, xinh xinh.
 Với dạng bài này tôi giúp học sinh thường xuyên luyện tập chọn từ điền thoải mái, không áp đặt. Sau đó nhận xét tìm ra những từ ngữ hay nhất, khen học sinh chọn từ để cho học sinh hứng thú học văn.
d. Tập so sánh.
 	Nâng cao hơn, tôi yêu cầu các em tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt câu. Tôi đưa ra những sự vật ví dụ như: 
- Hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa loa kèn, hoa xoan.
- Con đường, bãi cỏ, đồng lúa chín.
- Tàu dừa, vầng trăng (tròn, khuyết), mặt hồ.
 	 Loại bài tập này khó hơn, nó đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng phong phú lẫn kĩ năng diễn đạt mới có thể chọn ra những câu văn hay. Bởi vậy, tôi thường đưa ra những câu tham khảo khi học sinh đã trình bày hết ý kiến mà vẫn chưa có được những câu văn có thể tích luỹ được để làm tư liệu. Ví dụ:
- Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên cành.
- Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn.
- Đồng lúa chín y hệt một biển vàng.
- Mặt hồ phẳng lặng như một tấm gương lớn in sắc mây, trời.
- v.v.
 Cứ với cách làm như vậy thì trí tưởng tượng của học sinh sẽ ngày một phong phú, khả năng diễn đạt câu văn cũng ngày càng một nâng cao. Trong các bài viết, đưa biện pháp mô tả vào để so sánh một việc làm dễ dàng đối với học sinh.
B. Biện pháp nhân hóa.
Đây là biện pháp quen thuộc với các em. Các em được tiếp xúc từ khi còn trong vòng tay bế bồng của mẹ qua những lời ru cái cò, cái ốc. Rồi những câu chuyện cổ tích của bà, của cô giáo, các em đã được tiếp xúc với cả một thế giới phong phú của nghệ thuật nhân hoá. Không cần phải dạy nhiều, ta chỉ cần giới thiệu học sinh sẽ nhanh chóng nắm được ngay.
 	 Để học sinh thấy được sự ưu việt của biện pháp nghệ thuật này, tôi đã cho các em so sánh các cặp ví dụ cụ thể:
 1. Thân chuối màu đen khô ráp vì nắng gió.
 2. Chị chuối thật giản dị trong bộ áo đen khô ráp vì nắng gió.
 1. Gà Mái Mơ nuôi con rất khéo.
 2. Chị gà Mái Mơ dịu hiền chăm sóc con thật khéo léo.
 1. Những con gà chạy lung tung khắp nơi.
 2. Những bé gà hiếu động tung tăng chạy khắp nơi.
 1. Gốc hồng màu đen xám.
 2. Gốc hồng như một người mẹ già đi trong bộ áo xám đen nhường sắc non xanh cho hoa, cho lá.
 1. Bông hồng nhung vươn cao.
 2. Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc đẹp của mình.
 1. Nắng chiếu đầy vòm lá.
 2. Những tia nắng tinh nghịch đùa trên vòm lá.
 v.v .
 	Không khó khăn cho học sinh trong việc lựa chọn, tất cả đều có chung một câu 
trả lời: Câu văn thứ hai hay hơn câu văn thứ nhất.
 “ Nó hay hơn vì sao?”. Nhiều học sinh lúng túng trước câu hỏi này. Tôi nghĩ giáo viên cần lí giải: Câu thứ 2 hay hơn vì đã sử dụng biện pháp nhân hóa: Chị Mái Mơ, chị chuối, bé gà, cô hồng nhung trở nên sinh động, đáng yêu vì đã có những suy nghĩ, tính cách của con người.
 	Sau khi các em nắm bắt được tác dụng của biện pháp này, tôi giới thiệu cho các em cách nhân hoá sự vật.
a. Gọi tên sự vật.
Chúng ta có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên người: Cô trăng, chị gió, bác mặt trời, anh gà trống, chị Mái Mơ, bác mèo mướp, chị chuối tiêu.
b. Gắn suy nghĩ, tính cách, hoạt động của người vào sự vật.
- Hoa quỳnh trầm tư.
- Đào bích cười tươi roi rói.
- Phong lan yểu điệu.
- Chị Mái Mơ hiền lành.
- Những bé gà ngơ ngác.
- Nắng nhảy nhót.
- Trăng tinh nghịch nhòm qua cửa sổ.
- Quyển vở sung sướng, hãnh diện khoe điểm 10 đỏ chói v.v.
 	Song song với việc giới thiệu, tôi thường dành thời gian đọc cho các em nghe những câu chuyện có sử dụng nhiều biện pháp nhân hoá như: Dế Mèn phiêu lưu kí, Võ sĩ Bọ Ngựa, Hai con ngỗng của nhà văn Tô Hoài (tiến hành vào tiết Sinh hoạt tập thể, Kể chuyện).
 Nhắc học sinh liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích có các con vật đáng yêu 
thông minh, tinh nghịch. Đó là những câu mẫu mực cho học sinh tập,để nắm được cách sử dụng biện pháp nghệ thuật này.
 	Học sinh có được sự hiểu biết rõ ràng về biện pháp nghệ thuật này ta cho các em luyện tập ngay một số dạng bài tập:
1. Tập nhân hoá các con vật, cây cối, đồ vật xung quanh bằng cách 1 hoặc cách 2?
2. Nêu tâm trạng của các loài hoa vào mùa xuân?
3. Tưởng tượng ra cuộc trò chuyện của bầy chim, những chú chó, mèo?
4. Chị Mái Mơ rất giống một người mẹ hiền. Em hãy tưởng tượng những cử chỉ, lời nói, việc làm của chị chứng tỏ điều đó?
Dựa vào những câu chuyện đã được nghe, những bộ phim hoạt hình đã được xem thì những bài tập trên không khó lắm đối với học sinh. Tuy nhiên giáo viên cần lưu ý chủ đề viết. Có thể gợi ý học sinh như sau: 
- Bác mặt trời toả tia nắng ban mai hồng tươi.
- Chị gió tinh nghịch nô đùa cùng đám lá.
- Mèo mướp lười biếng nằm sưởi nắng ở dưới sân.
- Cô gà mái đảm đang dẫn đàn con đi kiếm mồi.
- Chị chim sâu chăm chỉ lách chách chuyền cành.
- Hồng nhung lộng lẫy trong chiếc áo đỏ thắm mịn màng.
- Cúc vàng ủ rũ nhìn các bạn đi hội xuân. Nó không còn bộ quần áo nào lành lặn cả.
- Hễ kiếm được miếng mồi nào chị Mái Mơ cũng lục tục gọi bầy con đến nhường cho chúng.
- Chị dang đôi cánh ấm áp ủ bầy con nhỏ.
- Từ ngày nuôi lũ con, bộ lông chị gà cứ xơ xác hẳn đi.
- Chị gà rất giàu kinh nghiệm, chị chẳng bao giờ dẫn đàn con đến gần rãnh nước.
 	Bằng cách luyện tập này thì việc vận dụng biện pháp nhân hoá vào bài tiến bộ rõ rệt .Câu trả lời này, tôi sẽ minh hoạ bằng bài văn của các em ở phần sau.
 	Trên đây là các bước “dạo đầu” giúp các em có một vốn văn học nhất định phục vụ cho việc viết bài. Học sinh sử dụng các “viên gạch” đó xây nền các “ngôi nhà” như thế nào mới quan trọng. Muốn có bài văn hay cần gì trong tiết dạy? Tôi xin trả lời bằng nội dung của phần 2 đề tài.
II. DẠY VIẾT BÀI VĂN.
Mục tiêu lớn nhất của việc dạy văn là chất lượng của bài viết. Một bài viết hay là một bài văn được kết hợp hài hoà nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc. Nhiệm vụ của người giáo viên là làm sao để bài văn của học sinh cần có tất cả các yếu tố đó. Muốn vậy trong mỗi tiết làm văn ta tập chung giải quyết 3 nhiệm vụ. 
1. Xây dựng nội dung.
 	Phong phú về nội dung là yêu cầu đầu tiên của một bài viết tốt. Giải quyết nhiệm vụ này tương đối khó nên giáo viên cần hướng dẫn kĩ. Khi dạy, giáo viên cần 
lưu ý hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa vì chương trình văn được soạn cho trình độ phổ cập, đối với lớp khá ta có thể bổ sung thêm. Đích đầu tiên học sinh cần đạt là phải hoàn thiện về bố cục (có 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài) ý phong phú có trọng tâm.
 	Khi đã hoàn thiện về bố cục. Tôi tiếp tục chú ý đến nội dung bài văn. Muốn bài văn phong phú học sinh phải biết cách trả lời câu hỏi. Thường mỗi câu hỏi học sinh phải trả lời bằng một đoạn văn chứ không phải một câu cộc lốc. Ví dụ như câu hỏi:
- Thân cây thế nào? (trong bài quan sát cây hoa hồng). Tôi không bằng lòng với câu trả lời kiểu: “Thân cây khẳng khưu, cành đâm ra mọi phía”. Cao hơn, tôi đòi hỏi ở học sinh sự quan sát tỉ mỉ (màu sắc, độ cao, to, cách bố trí, các cành, cành non, cành già, gai) và trả lời bằng một đoạn văn.
- Thân cây thâm thấp, màu xanh tươi. Cành cây khẳng khưu đan chéo vào nhau, vươn ra mọi phía. Đôi ba mầm non mới trồi lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác trên cành lá những chú gai nhọn hoắt đứng nghiêm trang như những chú lính gác cho nàng công chúa hoa hồng .
Rèn luyện thói quen quan sát nhiều góc cạnh của sự vật sẽ giúp học sinh có 
được những bài văn “giàu ý”. Tuy nhiên không thể dàn trải mênh mông mà bài văn phải có trọng tâm. Học sinh biết lựa chọn chi tiết nổi bật, lướt qua chi tiết phụ để viết sâu dùng “từ đắt”. Ví dụ bài: Tả cây hoa hồng thì phải tả kĩ. Nhìn tổng thể hoa trên cây, nhìn chi tiết từng bông: Bông nở to, bông chúm chím, nụ. Phát hiện vẻ đẹp riêng của chúng, so sánh chúng. Quan sát kĩ từng cánh hoa, cách cấu tạo và điều quan trọng nhất là phải làm nổi bật hình ảnh loài hoa, cây hoa mình quan sát.
2. Đưa nghệ thuật vào bài văn.
 	Nói đến nghệ thuật ta có cảm giác nó cao siêu và xa vời với học sinh Tiểu học. Nhưng cái “nghệ thuật” ở các em chỉ đơn giản là việc chọn lọc từ ngữ, hình ảnh và sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa. Bởi vậy nó cũng rất gần gũi quen thuộc với các em vì các em đã có được cả một quá trình học tập và rèn luyện.
 	Trong quá trình tập diễn đạt nội dung, có thể gợi ý bằng các câu hỏi:
- Ta có thể tả màu sắc hoa hồng nhung bằng từ nào? (đỏ thẫm, đỏ thắm).
- Gốc hồng làm nhiệm vụ gì?
Tuy nó sần sùi màu nâu và khô cằn. Em có thể dùng biện pháp so sánh hay nhân hoá để làm nổi bật nét đẹp trong hình thức xấu xí của nó được không? (gốc cây như người mẹ giản dị trong bộ áo nâu xám. Nhường sắc xanh tươi cho lá, cho hoa).
- Những chiếc gai có thể nhân hóa được không? (Nhân hoá như những người lính).
- Tàu lá chuối có thể so sánh với cái gì? ( Cái quạt khổng lồ, tấm lụa màu xanh lục).
- Những quả chuối cong cong giống cái gì? (Vầng trăng khuyết).
Bằng cách gợi mở, dẫn dắt như vậy học sinh sẽ nêu ra những ý kiến của mình. Sau khi nghe phần trình bày của các em, tôi sẽ rút ra một số từ ngữ, hình ảnh, câu văn hay để cả lớp có thể học tập và đưa vào bài của mình.
3. Đưa cảm xúc vào bài văn.
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu “cảm xúc” của người viết. Cảm xúc không chỉ có ở phần kết luận. Nó phải được thấm đậm trong từng câu, từng lời của bài văn. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật là trừu tượng.
 	Bởi vậy ta không nên đòi hỏi các em một cách chung chung. Các em lồng được tình cảm của mình vào từng ý văn, giáo viên nên gợi ý cụ thể như sau:
- Hoa hồng đẹp đến khó tả được. Khi ngắm nhìn hoa em cảm thấy như thế nào? (Hoa đẹp lộng lẫy say đắm lòng người).
- Hương chuối chín thơm lừng gợi cho em cảm giác như thế nào? (Thèm được ăn ghê lắm).
- Được ăn trái ngon em có suy nghĩ gì về người trồng? (Biết ơn).
Tương tự như vậy ta cần “bắt” học sinh đưa ra những suy nghĩ, nhận xét cảm xúc của mình trước một vật, sự việc. Bài văn sẽ không đơn giản là sự liệt kê. Nó thấm đẫm các suy nghĩ, cảm xúc của người viết.
Kết hợp được 3 yếu tố trên: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc thì bài văn của học sinh cũng đạt tới một thành công lớn. Nó sẽ là mảnh đất màu mỡ cho ta vun trồng những năm học tới.
4. Kết quả.
	Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. Chất lượng học văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy gọn, mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh, điểm khá, điểm giỏi ngày càng nhiều. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn điển hình của các học sinh lớp 
tôi.
*/ Bài số 1: Đề bài: Tả chiếc áo mà em thích?
Bài làm:
	Em có một tủ quần áo với rất nhiều quần áo đẹp. Nhưng em thích nhất chiếc áo trắng đồng phục mùa hè. Đây là chiếc áo, em được mẹ may cho từ đầu năm học.
	Đó là một chiếc áo sơ mi trắng tinh. Màu trắng tinh khôi của tuổi học trò, tuy giản dị nhưng với em nó thật đẹp. Quanh cổ và ống tay áo được trang trí thêm đường diềm kẻ sọc màu nâu xen lẫn màu đen, rất khoẻ khoắn. Bên ống tay trái may thêm một chiếc túi xinh xắn và cặp cầu vai bồng bồng. Thân áo hình chữ A mặc lên người nhìn rất điệu đà, hợp với học sinh chúng em. áo may bằng vải phin trắng, đặc biệt thấm mồ hôi vào những ngày hè nóng bức. Chính vì vậy em thấy rất tự tin và thoái mái mỗi khi mặc nó.
	Hàng tuần, cứ vào thứ hai, thứ tư, thứ sáu em lại khoác trên người tấm áo thân yêu. Sân trường em dường như dịu đi dưới cái nắng hè chói chang nhờ những tấm áo màu trắng ấy. Nhìn từ trên cao xuống sân truờng em như có hàng trăm chú cò đang bay lượn.
	Em luôn hãnh diện và tự nhủ phải luôn cố học thật tốt để xứng đáng là con ngoan trò giỏi.
 Nguyễn Thị Hà Giang – Lớp 4Đ
*/ Bài số 2: Đề bài: Tả cây bóng mát hoặc cây hoa em thích?
Bài làm:
	Mảnh vườn xinh xắn nhà em có rất nhiều hoa nhưng nổi bật nhất là cây hoa hồng nhung. Bố em trồng từ mùa xuân năm ngoái.
	Nhìn từ xa, cây hoa hồng giống như một cây nấm màu xanh điểm xuyết vài chấm đỏ. Khi lại gần ta mới thấy hết vẻ đẹp tuyệt vời của cây. Thân cây thâm thấp, gốc như một người mẹ giản dị khoác tấm áo màu nâu xám nhường sắc xanh tươi, đỏ thắm cho lá, cho hoa. Cành cây khẳng khiu đan chéo vào nhau vươn ra mọi phía. Đôi ba mầm non mới nhú lên mập mạp đầy sức sống. Rải rác trên cành lá những chú lính gai nhọn hoắt đứng trang nghiêm canh gác cho nàng công chúa hoa hồng. Lá cây cũng lạ lắm, chúng được viền một hàng răng cưa màu tía đều đặn. Đầu cành những chùm lộc non màu nâu đỏ mỡ màng vươn mình đón những tia nắng ban mai ấm áp.
	Nổi bật trên nền lá xanh là những bông hoa đỏ thắm, đẹp lạ lùng. Cánh hoa mịn màng như nhung, cuốn quanh vầng nhuỵ. Đôi ba nụ hồng chúm chím e lệ, lấp ló trong nền áo xanh mỏng. Một vài bông muốn khoe hết vẻ đẹp của mình, xoè rộng từng chiếc cánh, phô vầng nhuỵ vàng óng, thật lộng lẫy, ngào ngạt toả hương thơm. Mùi hương quyến rũ, lũ ong bướm bay tới như đi hội. Hoa hồng đẹp nhất vào buổi sáng sớm, khi ấy những hạt sương còn đọng trên cánh hoa, lấp lánh như những hạt ngọc. Ai đi qua cũng phải trầm trồ khen “Hoa hồng đẹp quá!”. Chủ nhật hay ngày lễ, mẹ em thường ngắt vài bông hoa mang vào nhà cắm.
	Hoa đã làm đẹp cho cuộc đời, đem niềm vui đến cho mọi người. Ngày nào em cũng dậy thật sớm để tưới cho cây. Chăm sóc cây hoa là một việc làm thú vị phải không các bạn?.
 Nguyễn Thị Thu Uyên – Lớp 4Đ
*/ Bài số 3: Đề bài: Tả một con vật nuôi trong nhà?
	 Tả đàn gà mẹ và đàn gà con?
Bài làm:
	Sáng sớm ông mặt trời tỉnh giấc, vươn vai, vén màn rọi những tia nắng ban mai xuống làng quê, cảnh vật thay đổi, tươi tỉnh hẳn. Chị Mái Mơ dẫn đàn con đi kiếm ăn.
	Đàn gà trông thật xinh xắn, chúng kêu liếp nhiếp chạy quanh chân mẹ giống như cái kén vàng ươm biết cử động. Đôi mắt chúng ngơ ngác nhìn quanh tỏ vẻ lạ lùng, giống như những em bé mới cất tiếng khóc chào đời. Đôi chân nhỏ xíu như chiếc tăm màu hồng hồng. Cái mỏ như hai vỏ trấu chắp lại nhưng em chắc rằng chúng phải cứng cáp hơn nhiều. Trông đàn gà con bé bỏng, tuổi thơ lại chợt hiện về với bao ký ức đẹp đẽ. Con gà mái mẹ thì lo lắng để mắt đến con mình. Đôi mắt ấy mới dịu dàng làm sao, nó cứ dõi theo từng bước chân của đàn con nhỏ. Chân chị bước thong thả cho đàn con kịp theo. Thấy mẹ “lục tục”, đàn con ùa về chân mẹ để được chia phần. Trên mặt chị Mái Mơ hiện rõ niềm vui. Khi mặt trời lên cao, đôi cánh của chị đủ rộng che mát cho cả đàn con của mình. Chú trống choai thấy mẹ con gà Mái Mơ đi kiếm ăn ở vườn lạ cũng đi theo. Thỉnh thoảng chú lại cất giọng gáy lanh lảnh của mình cho tất cả cùng nghe. Gió nhẹ thổi làm cỏ cây rung rinh. Trên cành cây chim hót véo von.
	Nhìn đàn gà con đáng yêu lòng em tràn ngập niềm vui. Em mong sao các chú gà con nhanh lớn để có thêm đàn gà con mới.
 Phạm Thị Thanh Loan – Lớp 4Đ
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
 - Qua một năm giảng dạy và áp dụng những biện pháp trên tôi thấy chất lượng 
làm văn của học sinh lớp tôi đã được nâng lên rõ rệt. Từng bước khắc phục những khó 
khăn đã nêu ở trên . Sau đây là kết quả đối chứng chất lượng làm văn đầu năm và cuối năm học 2011-2012 của lớp tôi như sau.
Kết quả đối chứng đầu năm và cuối năm học 2011-2012
Khảo sát
Sĩ số h/s
Bài điểm 9-10
Bài điểm 7- 8
Bài điểm 
5- 6
Bài điểm 
3- 4
Bài điểm 
1- 2
Đầu năm
31
2
10
16
2
1
Cuối năm
31
10
14
7
0
0
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
	Để mỗi giờ dạy Tập làm văn đạt hiệu quả cao, người giáo viên biết sáng tạo, phối hợp hài hoà nhiều yếu tố. Hơn thế nữa, người giáo viên còn cần tận tâm với nghề, với bài dạy để tự rút kinh nghiệm sau mỗi tiết học. Để dạy văn được tốt, trước tiên: Hãy suy nghĩ thật kĩ, dạy thật tốt các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện. Bởi chúng có tác động trực tiếp đến Tập làm văn. Nó giúp học sinh tích luỹ vốn từ, hiểu và vận dụng từ, vận dụng những câu văn, đoạn văn hay của bài Tập đọc vào bài văn của các em. Mặt khác thông qua những bài văn hay cần cho học sinh nhận xét việc sử dụng từ ngữ, các biện pháp nghệ thuật, từ đó giúp các em tích luỹ được vốn kiến thức văn học. Hay trong giờ Luyện từ và câu, Hướng dẫn học tôi luôn khuyến khích, hướng dẫn học sinh tìm các từ hay (theo chủ đề), đặt câu văn giàu hình ảnh, phân tích từ, so sánh câu. Môn Tập làm văn quả là khó đối với học sinh. Bài Tập làm văn là một tác phẩm văn học của các em. Tác phẩm này hay, dở còn phụ thuộc vào năng lực của mỗi em, kĩ năng giao tiếp, điều kiện sống của gia đình. Với lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nghề, tôi đã khắc phục được khó khăn và giúp học sinh lớp tôi ngày càng yêu thích môn Tập làm văn hơn và tôi thấy các em học văn thực sự có hiệu quả.
	Trên đây là một số biện pháp tôi đã thực hiện trong quá trình giảng dạy nhằm bồi dưỡng niềm say mê, yêu thích môn Tập làm văn cho học sinh lớp 4. Trong quá trình thực hiện tôi đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ song không tránh được những thiếu sót. Vậy tôi rất mong nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và đóng góp chân thành của các cấp lãnh đạo, các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường và bạn bè đồng nghiệp để tôi giảng dạy ngày một tốt hơn, góp một phần công sức nhỏ bé của mình nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy của Trường Tiểu học Tri Thủy.
	Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tri Thủy, ngày 25 tháng 04 năm 2012
 Người viết
 Phạm Thị Hạnh
Ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học cơ sở.
..
..
.........
. 	 	
 Chủ Tịch Hội Đồng
 	 	 	 (Ký tên, đóng dấu)
Ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học cấp huyện.
.
.
.
. 	 	 
 Chủ Tịch Hội Đồng
 	 	 	 (Ký tên, đóng dấu)
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU 
I. Lý do chọn đề tài: Trang 2
II. Sơ lược cơ sở lí luận: Trang 2 
III. Đối tượng nghiên cứu: Trang 3
IV.Thời gian nghiên cứu: Trang 3
V. Nhiệm vụ nghiên cứu: Trang 3
VI. Phương pháp nghiên cứu: Trang 3
B. PHẦN NỘI DUNG
I.Thực trạng làm văn của học sinh lớp 4 hiện nay. Trang 3
II. Các biện pháp nâng cao hiệu quả dạy tập làm văn cho học sinh. Trang 4
1.Cung cấp các kiến thức văn học : Trang 5
2. Luyện điền từ, chọn từ : Trang 6
3. Dạy viết câu có kết cấu đơn giản : Trang 6 
4.Dạy viết một vài dạng câu có kết cấu phức tạp: Trang 7
5. Dạy các biện pháp nghệ thuật: Trang 8
III. Dạy viết bài văn: Trang 15
1. Xây dựng nội dung: Trang 15
2. Đưa nghệ thuật vào bài văn: Trang 16
3. Đưa cảm xúc vào bài văn: Trang 16
4. Kết quả: Trang 17
C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Kết quả đạt được: Trang 19
II. Bài học kinh nghiệm : Trang 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục 2005
2. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II.
tác giả: GSTS Lê Phương Nga - Nguyễn Trí - Hà Nội 1995
3. Luyện thực hành tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Đà Nẵng - năm 2003.
4. Dạy học Chính tả ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2000.
5. Dạy Tập đọc ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục – năm 2000.
6. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Năm 2005 - Nhà xuất bản Giáo dục.
7. Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 2005
8. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1999. 

File đính kèm:

  • docSKKN_LOP_4.doc
Sáng Kiến Liên Quan