Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học
Thế kỷ XXI, thế kỷ của khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng.Yêu cầu chủ nhân tương lai của thế kỷ XXI phải là những con người có năng lực, trí tuệ cao. Để đào tạo những con người đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ mới, đó là nhiệm vụ của ngành giáo dục, trong đó bậc Tiểu học là bậc học đóng vai trò làm nền móng. Nghị quyết TW II khoá VIII đã nêu rõ mục tiêu giáo dục tiểu học đến năm 2020 là “Nâng cao chất lượng toàn diện bậc tiểu học”.Cùng với những môn học khác, môn Toán ở tiểu học giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc hình thành nhân cách, phát triển năng lực trí tuệ cho học sinh. Nó trang bị cho học sinh những kiến thức cần thiết nhằm phục vụ đời sống và phát triển của xã hội. Môn Toán ở lớp 1 và lớp 2 là cơ sở ban đầu có tính quyết định cho việc dạy học Toán sau này của học sinh.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục, chương trình giáo dục tiểu học đã thực hiện đổi mới sách giáo khoa và nội dung chương trình dạy học ở các lớp, các môn học nói chung và môn Toán lớp 2 nói riêng. Năm học này là năm học thứ năm thực hiện chương trình này. Để thực hiện tốt mục tiêu của môn Toán, người giáo viên phải thực hiện đổi mới các phương pháp dạy học, sao cho học sinh là người chủ động nắm bắt kiến thức của môn học một cách tích cực, sáng tạo góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu tự học, tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề đặt ra trong bài học. Từ đó chiếm lĩnh nội dung mới của bài học, môn học.
Để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo dục, thì định hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và môn Toán nói riêng, là dạy học trên cơ sở tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh, kết hợp với mặt tích cực của các phương pháp truyền thống. Song việc vận dụng linh hoạt, phù hợp với phương pháp dạy học là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng giờ dạy. Vì vậy việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học Toán 2 phải đảm bảo yêu cầu sau:
+ HS phải tham gia các hoạt động học tập một cách tích cực, hứng thú, tự tin và tự nhiên. Tạo cho học sinh tính tự giác, tích cực trong học tập.
+ Giáo viên phải tổ chức hướng dẫn nhẹ nhàng dưới sự trợ giúp đúng mức, đúng lúc của sách giáo khoa, đồ dùng dạy học Toán, để từng học sinh (từng nhóm học sinh) tự phát hiện và tự giải quyết vấn đề của bài học, tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức và có thể vận dụng được kiến thức đó vào luyện tập thực hành, giúp cho việc phát triển năng lực cá nhân học sinh.
+ Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại hoá. Thay thế các phương pháp dạy học đơn điệu ít tác dụng bằng các phương tiện kĩ thuật hiện đại. Giúp học sinh hứng thú trong học tập, hiểu sâu, nhớ lâu kiến thức.
Thực hiện tốt chủ đề năm học: Tiếp tục “ Ổn định - phát triển - hội nhập ” trên cơ sở “Hiện đại - tăng tốc - bền vững” góp phần đáp ứng yêu cầu đổi mới nội dung sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Ban giám hiệu Trường Tiểu học Phạm Thận Duật đã chỉ đạo toàn bộ các khối đặc biệt là khối 2 nghiên cứu và thực hiện chuyên đề: “ Dạy học Toán lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới.” Để tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của môn học.
trừ có nhớ trong phạm vi 100. + Các bài dạy về phép nhân với 2,3,4,5 và giới thiệu bảng nhân 2,3,4,5 + Các bài dạy về phép chia với 2,3,4,5 và giới thiệu bảng chia 2,3,4,5. + Các bài dạy về thành phần của mỗi phép tính và tìm thành phần của phép tính. + Tính giá trị của biểu thức số đơn giản. - Trong mỗi bài dạy về phép cộng (phép trừ, nhân, chia) sau khi hình thành ý nghĩa của phép toán, kĩ thuật tính, cần nêu quy tắc thực hành tính. Sau đó rèn luyện kĩ năng tính cho học sinh. - Trong một bài dạy về thành phần của phép tính cộng, trừ, nhân, chia, sau khi giới thiệu tên gọi của từng thành phần chưa biết của phép tính, thì nêu cách tìm thành phần chưa biết, rồi phát biểu thành quy tắc. Sau đó rèn luyện kĩ năng giải toán dạng “tìm x”. - Mục tiêu yêu cầu của các bài: “một phần hai, một phần ba, một phần tư, một phần năm,” chủ yếu chỉ là nhận biết được “các thành phần bằng nhau của đơn vị” không yêu cầu coi đây là dạy học phân số ở lớp 2. - Phần tính giá trị của biểu thức số chỉ dừng lại ở các biểu thức với hai phép tính cộng và trừ , chưa sử dụng dấu ngoặc. b. Đồ dùng dạy học: - Đó là bộ đồ dùng Toán 2 của giáo viên và học sinh. Có các mô hình tấm bìa có các chấm tròn: hai chấm tròn, ba chấm tròn, bốn chấm tròn, năm chấm tròn. Để học về phép nhân, phép chia và bảng nhân, bảng chia. - Học về cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100, HS và GV dùng bộ que tính và các thẻ que tính c. Phương pháp dạy học Tư tưởng chỉ đạo việc định hướng về phương pháp dạy học trong SGK toán 2 là tổ chức giờ học thành các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh , khuyến khích học sinh tự tìm tòi phát hiện ra kiến thức mới của bài học, vận dụng sáng tạo kiến thức mới vào giải quyết các dạng bài tập, vào thực tiễn đời sống. Sử dụng và khai thác triệt để các hình thức tổ chức dạy học như dạy học theo nhóm nhỏ, dạy học cá nhân. Phương pháp dạy học các phép tính cũng theo định hướng này. Các phương pháp truyền thống được sử dụng trong dạy các phép tính đó là phương pháp trực quan, phương pháp hỏi đáp, phương pháp thực hành luyện tập. Ví dụ 1: Dạy bài : 6 cộng với một số: 6 + 5 - Trực quan: Là 1 chục que tính và 1 que tính rời. - Học sinh được làm trên que tính tìm kết qủa 6 + 5 = 11 - GV cho HS nêu các cách làm (có nhiều cách), cô làm trên mô hình bảng gài để chốt lại cách hay nhất * Khi dạy về số học cần chú ý về phương pháp dạy học như sau: + Dạy học dựa trên vốn kiến thức của HS + Không làm thay, nói thay HS, mà tổ chức các hoạt động học tập cho HS + Cho HS thao tác trên các que tính, thẻ số. + Cho HS nói cách làm và kết quả. + Cho HS quan sát kiểm tra việc làm và kết quả khi thao tác với các vật thật, với mô hình và kết quả trong SGK. + Cho HS tìm nhiều phép tính trên một mô hình, diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau của cùng một nội dung. + HS phải tự tìm ra kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV. + Hãy tạo không khí vui vẻ, để HS thi đua hợp tác với nhau trong quá trình tìm kiếm phát hiện và vận dụng kiến thức. Dạy học đại lượng và đo đại lượng ở lớp 2. a. Mục tiêu: Giúp HS. + Nhận biết đơn vị đo độ dài dm, cm, km, mm,. Biết cách đọc, viết, các số đo độ dài theo đơn vị đo mới học. + Nắm được quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài, giữa dm và cm, m và dm, giữa cm, mm, km và m. + Tập chuyển đổi các đơn vị đo độ dài. Biết thực hiện các phép tính cộng, trừ với các số đo theo các đơn vị đo độ dài đã học + Tập đo và ước lượng đọ dài trong phạm vi 20cm, 5m + Nhận biết về lít, đọc, viết, làm tính với các số đo theo đơn vị lít. Tập đong, đo, ước lượng theo lít. + Hình thành biểu tượng về khối lượng. + Nhận biết đơn vị đo khối lượng kg, đọc viết, làm tính với các số đo theo đơn vị kg. + Nhận biết đơn vị đo thời gian, giờ, tháng, nắm được mối quan hệ, ngày - giờ, giờ - phút, ngày - tháng. + Biết xem lịch, lịch hằng ngày và lịch quyển. Biết xem đồng hồ, khi kim phút chỉ vào số 12 hoặc chỉ vào số 3, số 6. + Nhận biết tiền Việt Nam (với mệnh giá trong phạm vi đã học) + Tập đếm tiền trong trường hợp đơn giản. b. Phương pháp dạy học đại lượng đo đại lượng. - Phương pháp dạy học đặc trưng ở mạch kiết thức này là phương pháp thực hành luyện tập, kết hợp với phương pháp trực quan. Thông qua thực hành luyện tập để hình thành biểu tượng, thực hành chuyển đổi đơn vị đo. Thực hành tính toán trên các số đo, thực hành đo và tập ước lượng. Ví dụ: Khi hình thành biểu tượng về các đại lượng.Hình thành biểu tượng về khối lượng kg,dung tích lít. Thông qua việc cho HS “cầm”, “ nắm” các đồ vật trong tay như quyển sách, quyển vở và so sánh vật này “ nặng hơn” hay “ nhẹ hơn” vật kia. Học sinh nhận biết được về khối lượng của đồ vật . Biểu tượng này được củng cố thêm khi giới thiệu về đơn vị kg. Hay thông qua việc quan sát sức “chứa”, “đựng” các chất lỏng của những đồ vật của cái ca, cái chai , cái can, hình thành cho học sinh biểu tượng về “dung tích” . Dạy học các yếu tố hình học. a. Mục tiêu: - HS nhận biết được một số hình, hình học đơn giản( hình chữ nhật, hình tứ giác , đường thẳng, đường gấp khúc). - Bước đầu hình thành và rèn luyện kỹ năng hình ( theo mẫu, theo ô vuông). Xếp ghép hình đơn giản (theo mẫu) ,tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác. - Bước đầu làm quen với thao tác lựa chọn phân tích tổng hợp hình. Phát triển trí tưởng tượng qua quá trình học tập các yếu tố hình học. b. Cách tiến hành : - Khi dạy các khái niệm biểu tượng hoặc nhận dạng các hình, hình học mới, có thể tiến hành các hoạt động. - Liên hệ các khái niệm đã học chuyển sang khái niện mới, ví dụ chẳng hạn: Từ đoạn thẳng chuyển sang đường thẳng (kéo dài đoạn thẳng về 2 phía). Hay đường gấp khúc gồm 3 đoạn khép kín thành hình tam giác, từ đó chu vi hình tam giác là tổng độ dài 3 cạnh cũng là độ dài đường gấp khúc đó. - Dùng đồ dùng trực quan hoặc liên hệ các đồ vật trong thực tế có hình dạng hình học, để học sinh nhận biết hình (dạng tổng thể). - Lấy những hình có tính chất “phần ví dụ” để củng cố nhận biết hình dạng các hình đang học (Chẳng hạn: muốn cho học sinh biết hình chữ nhật, có thể cho học sinh quan sát tập hợp gồm những hình: hình tròn, hình tam giác, hình tứ giác, trong đó có cả hình chữ nhật, rồi hỏi học sinh đâu là hình chữ nhật hoặc cho học sinh tô màu hình chữ nhật) - Khi dạy các bài có tiết luyện tập thực hành cần cho học sinh được tự do hoạt động(ví dụ: vẽ, xếp hình được tự tính toán tìm ra kết quả) giáo viên không nên làm thay hoặc hướng dẫn quá kỹ cho học sinh. Dạy học giải toán có lời văn: a. Mục tiêu: Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn về cộng, trừ trong đó có bài toán “nhiều hơn, ít hơn”, loại số đơn vị, các bài toán về nhân, chia (trong phạm vi bảng nhân, chia 2,3,4,5) và bước đầu làm quen giải bài toán có nội dung hình học (tính độ dài, tính chu vi các hình). Rèn phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt (phân tích đề bài, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng nói hoặc viết). b. Đồ dùng dạy học: Đó là các vật thật, quả cam, hay tranh ảnh. c. Cách tiến hành dạy học giải toán có lời văn: - Khi dạy giải toán có lời văn, chủ yếu dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải, mà chỉ cho học sinh làm mỗi phép tính để tìm ra kết quả. Cố gắng để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán (tập trung vào ba bước: tóm tắt bài toán, để biết bài toán cho biết gì, hỏi gì, tìm cách giải quyết, thiết lập mối quan hệ giữa các giữ kiện của đề bài với phép tính tương ứng. Trình bày bài giải, viết câu trả lời phép tính tương ứng và đáp số). - Về phần tóm tắt bài toán, yêu cầu học sinh tự tri giác đề toán rồi nêu (viết ) tóm tắt. Có thể bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng (nên dùng sơ đồ đoạn thẳng để biểu thị trực quan, khái niệm “nhiều hơn, ít hơn”). Phần tóm tắt cần thiết khi học giải toán, tuy nhiên không nhất thiết phải viết vào phần trình bày bài giảng (mục đích tóm tắt bài toán cho biết gì và kết luận, bài toán hỏi gì từ đó giúp học sinh có cách giải thích hợp). - Về trình bày bài giải: học sinh cần viết được câu lời giải và phép tính tương ứng. Giáo viên kiên trì để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời sau đó viết câu lời giải. Lúc đầu học sinh lúng túng, ta nên chấp nhận cách diễn đạt tuy có vụng về nhưng đúng ý là được. Cái khó nhất của giải toán của lớp 2 là trình bày (viết) bài giải. Do đó giáo viên cần cho học sinh tự nguyện viết câu lời giải, không nên vội vàng làm thay cho học sinh. Khi dạy phần tính độ dài đường gấp khúc hoặc tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác, các bài toán dạng đó (bài toán có nội dung hình học) được trình bày bài giải như các bài toán có lời văn đã học. 3. Các biện pháp để thực hiện việc dạy Toán 2 theo hướng đổi mới . Xây dựng tốt kế hoạch bài dạy Hiệu quả của một tiết dạy phụ thuộc rất lớn vào công tác chuẩn bị của giáo viên .Vì vậy trước khi lên lớp, giáo viên cần chuẩn bị tiết dạy cho thật chu đáo và có chất lượng thể hiện rõ kế hoạch của thầy trò và dự kiến được các phương án trả lời của học sinh trong tiết dạy và chốt kiến thức sau mỗi bài tập, mỗi hoạt động .Sự chuẩn bị kĩ lưỡng chu đáo sẽ giúp cho giáo viên xác định được chuẩn về kiến thức, chuẩn bị đồ dùng dạy học cho giáo viên và học sinh, xây dựng hệ thống câu hỏi, dẫn dắt học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới, hay xây dựng trò chơi học tập cho các tiết học, giúp học sinh củng cố khắc sâu kiến thức của bài học. Từ đó giúp giáo viên thêm tự tin, sáng tạo để tổ chức tốt tiết dạy. Ví dụ : Khi dạy bài: Phép nhân . Kiến thức trọng tâm của bài là: Học sinh hình thành được phép nhân từ phép cộng các số hạng bằng nhau, biết đọc, viết và cách tính kết quả của phép nhân. Giáo viên cần chuẩn bị tốt các hoạt động và hệ thống câu hỏi cho phần kiến thức mới. + Tấm bìa có mấy chấm tròn? + Có 5 tấm bìa , mỗi tấm bìa đều có 2 chấm tròn ( hoặc 2 chấm tròn được lấy 5 lần ) . Hỏi có tất cả bao nhiêu chấm tròn ? - Từ đó học sinh nhận xét và giáo viên giới thiệu được phép nhân và chốt được phép nhân là phép cộng các số hạng bằng nhau .2 + 2 +2 +2 +2 = 10 2 x 5 = 10. 3. 2. Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học - Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động là mấu chốt của vấn đề đổi mới . Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học: như dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân, thảo luận, trò chơi toán học. Giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm huy động mọi khả năng của từng học sinh, để học sinh tự tìm tòi, khám phá nội dung mới của bài học. Ví dụ : Dạy bài: 11 trừ đi một số 11 - 5 Giáo viên vận dụng hình thức daỵ học cá nhân, học sinh tự thao tác trên que tính để tự tìm ra kết quả 11 - 5. Sau đó nêu được các cách làm (có nhiều cách) Cách 1: có 11 que tính bớt lần luợt từng que tính đến khi bớt đủ 5 que tính. 11 - 5 = 6 . Cách 2: có 11 que tính bớt đi 2 que tính còn 9 que tính, 11 - 2 = 9. Sau đó bớt tiếp 2 que tính nữa còn 7 que tính, rồi bớt tiếp 1 que tính nữa thì còn lại 6 que tính. Cách 3: có 11 que tính bớt đi 1 que tính còn 10 que tính. Sau đó bớt tiếp đi 4 que tính nữa còn 6 que tính, 11 - 5 = 6. Giáo viên chốt lại bằng cách thao tác lại trên đồ dùng 1 cách hay nhất của học sinh (có 11 que tính bớt đi 1 que tính còn 10 que tính. Sau đó bớt tiếp đi 4 que tính nữa còn 6 que tính, 11 - 5 = 6). Khi đó, học sinh nắm chắc cách làm và vận dụng vào làm các phép tính, dạng tính khác . * Tóm lại : Khi vận dụng các hình thức dạy học giáo viên cần linh hoạt tổ chức cho học sinh hoạt động giúp các em tự phát hiện, tự tìm kiến thức mới của bài học. Biết sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy học, tạo hứng thú học tập cho học sinh, khi đó các em học tập một cách hào hứng tự tin và sáng tạo. 3.3 . Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học trong mỗi tiết dạy . - Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học và lựa chọn xem đồ dùng đó cần đưa ra lúc nào, cho phù hợp với nội dung của từng bài và các hoạt động trong tiết dạy . Tức là sử dụng đồ dùng phải đúng thời điểm . Ví dụ : Dạy bài: 34 - 8 Giáo viên đưa đồ dùng ra sau khi học sinh đã thao tác xong đồ dùng của các em. Tức là giáo viên trình bày lại một cách làm hay nhất, khoa học nhất và cất đi khi đã hình thành xong kiến thức của bài. - Điều quan trọng nữa đó là giáo viên và học sinh phải được chuẩn bị bài ,chuẩn bị đồ dùng môn toán cẩn thận, chu đáo trước mỗi tiết học . Ví dụ : Khi dạy bài 14 trừ đi một số. Giáo viên cần dặn học sinh bài sau là bài 34-8, các em cần chuẩn bị que tính là 2 thẻ que tính loại 1 chục que tính và 14 que tính rời như trong SGK. GV cũng chuẩn bị như học sinh nhưng chuẩn bị thêm một bảng đa dụng, bộ số biểu diễn phép tính. - Hiện nay ở tiểu học việc ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn toán đã giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao hơn. Thu hút được sự chú ý của học sinh, giúp học sinh nắm được nội dung bài học một cách dễ dàng, giờ dạy sẽ nhẹ nhàng, sinh động hơn. Ví dụ : Khi dạy bài: Phép nhân Sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại công nghệ thông tin, quét các tranh trong sgk, song các tranh này được làm hình ảnh động, có âm thanh rất sinh động. Ở phần hình thành kiến thức mới, giáo viên đưa ra các tấm bìa mỗi tấm bìa có 2 chấm tròn, được làm hiệu ứng nhấp nháy, sau đó đổi màu các chấm tròn, nhấn mạnh việc 2 chấm tròn được lấy 5 lần. Hay ở bài 1 phần b với hình ảnh sinh động là một bể cá có 5 con cá, có 3 bể như thế. Học sinh quan sát tìm được tổng số cá là: 5 + 5 + 5 = 15 và viết được phép nhân 5 x 3 = 15. Ngoài ra giáo viên cần tìm thêm những đồ dùng phụ trợ để cho tiết học thêm sinh động, hoặc lựa chọn các trò chơi để củng cố kiến thức khắc sâu bài. Ví dụ: Dạy bài lít ngoài đồ dùng là ca một lít và chai 1 lít giáo viên còn phải tìm thêm can 5 lít, cốc loại 3 chiếc 1 lít, 4 chiếc 1 lít và chất lỏng như rượu, sữa để khắc sâu cho các em về biểu tượng nhiều hơn, ít hơn với các chất lỏng và để tổ chức trò chơi khi đong chất lỏng cũng là để củng cố đơn vị đo dung tích. 3.4. Nâng cao hiệu quả chất lượng giờ dạy toán 2 thông qua hoạt động trong nhóm chuyên môn. Với sự chỉ đạo của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, chuyên môn nhà trường, hàng tuần tổ nhóm chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn với nội dung bàn bài khó, tiết khó, chương khó, cùng nhau chỉ ra những tiết khó, phần khó, thảo luận đưa ra các biện pháp, cách giải quyết tốt nhất cũng như đưa ra các biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học Toán 2 nói chung và tiết khó nói riêng. Kiểm chứng lại bằng cách tổ chức lên lớp dự giờ các tiết khó ấy giúp các tiết dạy trở nên nhẹ nhàng, dễ dàng khi giảng dạy, và rút kinh nghiệm cho những tiết sau. Ví dụ: Ở tuần 4 sinh hoạt chuyên môn bài khó, tiết khó: “Bài toán về nhiều hơn” Tổ đã bàn và nêu ra khó khăn khi dạy ở bài này là: Khả năng tư duy, quan sát của học sinh còn hạn chế, còn nhầm lẫn, tìm số lớn lại làm phép tính trừ, học sinh trình bày bài giải chưa đẹp. Tổ bàn các biện pháp thực hiện: Hướng dẫn học sinh quan sát hình vẽ (trực quan). Nêu bài toán và hướng dẫn phân tích bài toán. Gợi ý để học sinh nêu phép tính và câu trả lời rồi hướng dẫn học sinh trình bày bài giải. Sau đó chốt cách tìm số lớn (lấy số bé cộng với phần hơn). Học sinh luỵên tập thực hành thông qua các bài toán củng cố “bài toán về nhiều hơn”. Tương tự như vậy khi dạy: “Bài toán về ít hơn”. Tóm lại: Để thực hiện tốt dạy Toán 2 theo hướng đổi mới, cần phải có sự kết hợp các biện pháp nêu trên. Người giáo viên phải biết gắn kết, xâu chuỗi nhịp nhàng giữa các hoạt động của thầy và của trò, để định hướng cho học sinh con đường tự lĩnh hội tự phát hiện ra kiến thức mới . Từ đó học sinh tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng hiệu quả. 4. Hiệu quả: Qua quá trình vừa nghiên cứu vừa áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy Toán 2, khối 2 chúng tôi đã thu được kết quả khả quan. - Học sinh học tập rất tích cực, hứng thú, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, không khí lớp học sôi nổi, hào hứng. Các em được tự mình phát hiện tìm tòi cái mới, kiến thức mới, các em cảm thấy thú vị và thích thú. Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức điều khiển các hoạt động định hướng, gợi mở, dẫn dắt học sinh lĩnh hội kiến thức mới. Qua khảo sát chất lượng môn Toán lớp 2 của trường vào Tháng 9 năm học 2014 - 2015, bằng đề của tổ khối chuyên môn, chúng tôi thu được kết quả như sau: Lớp Số học sinh Giỏi Khá Trung bình 2A 30 8 18 12 2B 31 10 12 9 2C 31 11 13 7 Cả khối 92 29 (32,5) 33 (35,9) 28 (31.6) Như vậy, với kết quả trên chúng tôi thấy rằng vẫn còn nhiều học sinh đạt điểm trung bình. - Sau khi áp dụng các biện pháp thực hiện đổi mới phương pháp dạy học Toán 2, chúng tôi tiến hành khảo sát cuối học kỡ 1 năm học 2014 – 2015 và thu được kết quả như sau: Lớp Số học sinh Giỏi Khá TB 2A 30 13 10 7 2B 31 15 10 6 2C 31 20 9 4 Cả khối 92 48 (51,2%) 29 (31,5%) 17 (17,3%) So sánh hai bảng kết quả trên, chúng tôi nhận thấy việc thực hiện nghiêm túc đổi mới phương pháp dạy học môn Toán 2, cho thấy giờ dạy chất lượng hơn và kết quả học tập của học sinh tốt hơn, tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng lên, tỉ lệ học sinh yếu chỉ còn 1%. Điều này cho thấy việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao hiệu quả môn Toán là rất quan trọng và hết sức cần thiết đối với bậc Tiểu học nói chung và Toán 2 nói riêng. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1, Kết luận - Qua những năm giảng dạy ở lớp 2, với tư cách dạy trên khi dạy môn Toán lớp 2 tôi nhận thấy học sinh có nhiều tiến bộ. Với cách dạy và học trên học sinh chăm chú say mê học toán, các em không ngại khi giải các bài toán có nội dung khú. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. Nhờ vậy mà học sinh nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin làm cho không khí tiết học sôi nổi, không gò bó, học sinh được thực sự bộc lộ hết khả năng của mình. Từ đó học sinh có hứng thú học toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài để tìm ra cách giải hay và nhanh nhất. - Để có được tiết dạy Toán đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải có bài soạn tốt. Bởi thế giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và mức độ yêu cầu của bài. Từ đó có kế hoạch bài học chu đáo thể hiện rõ từng hoạt động học tập, có chốt kiến thức sau mỗi hoạt động, mỗi bài. Dự kiến sai lầm học sinh thường mắc phải, để sửa sai kip thời cho từng học sinh. Sự chuẩn bị bài chu đáo ,kĩ lưỡng giúp người thầy thêm tự tin . - Giáo viên cần khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học các hình thức dạy học như dạy học cá nhân, theo nhóm, tổ chức tốt các trò chơi học tập để dẫn dắt học sinh để các em tự phát hiện, tự giải quyết nhiệm vụ của bài, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. - Xây dựng tốt nề nếp học toán cho học sinh, luôn động viên khuyến khích học sinh trong các hoạt động học tập, luôn quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Căn cứ vào đặc điểm lớp học để lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp. - Sự chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học trước mỗi tiết học và biết lựa chọn từng đồ dùng hợp lí vào các tiết dạy, làm nên thành công của tiết dạy. Kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại trong dạy học toán, để các tiết dạy sinh động hơn, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. - Về học sinh + Có đầy đủ đồ dùng học tập và luôn có sự chuẩn bị đầy đủ chu đáo, đồ dùng học toán trước mỗi tiết học. + Thao tác đồ dùng thành thạo, chính xác góp phần vào việc hình thành kiến thức mới và khắc sâu bài tốt hơn. 2. Kiến nghị Mỗi giáo viên cần thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn đều đặn có chất lượng, học hỏi các tổ nhóm chuyên môn khác trong nhà trường. Ngoài ra việc thăm lớp, dự giờ nên tổ chức chuyên đề trường, liên trường. Trong quá trình thực hiện chuyên đề “Dạy Toán như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới” cần tìm đọc và tham khảo các tài liệu dạy học của bộ môn, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Tuy kết quả có khả quan, nhưng sỏng kiến kinh nghiệm không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong có sự đóng góp ý kiến của các đồng chí lãnh đạo, các đồng chí cán bộ chuyên môn, các đồng nghiệp để chuyên đề mang tính khả thi hơn. Yờn Mạc, ngày 9 tháng 3 năm 2015 Người viết Phạm Thị Bích Lan
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_lop_1.doc