Một số kinh nghiệm giúp học sinh Tiểu học học tốt từ vựng môn Tiếng Anh ở trường Tiểu học Hộ Phòng C
Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục của Đảng là: “ nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” xuất phát từ những mục tiêu trên
mà đòi hỏi từng cấp học bậc học phải làm thế nào đảm bảo chất lượng giảng
dạy của giáo viên cũng như chất lượng học tập của học sinh.
Sự tồn tại của phương pháp dạy học luôn là cụ thể. Bởi thế mọi chủ
trương quan điểm, mọi lý thuyết về đổi mới phương pháp sẽ vẫn là “màu
xám” nếu nó không được chuyển hóa thành ý thức tình cảm, tri thức và kỹ
năng của người giáo viên.
Ngày nay chúng ta đang từng bước xây dựng một nền giáo dục chất
lượng ngang tầm thế giới, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,
càng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho giáo viên. Đặc biệt trong xu thế
hội nhập môn học tiếng Anh càng quan trọng hơn, mà từ thưở khai sinh
tiếng Anh đã là một môn học khó . Để đáp ứng được với xu thế phát triển và
yêu cầu của xã hội, kiến thức và phương pháp giảng dạy tiếng Anh cũng
không ngừng phát triển và thay đổi hàng ngày. Đòi hỏi người giáo viên phải
luôn tiến bộ và phát triển, nên việc tìm kiếm những phương pháp dạy học
hợp lí, hay, và tích cực luôn là đề tài nóng hổi cho những ai đang gánh vác
sứ mệnh “ trồng người” cao cả.
Tiếng Anh là một bộ môn, kết hợp tất cả mọi kỹ năng của con người
trong lúc học. Tiếng Anh của Tiểu học nhìn ở gốc độ chuyên môn thì không
có gì quá khó khăn về mặt kiến thức. Nhưng đối với học sinh tiểu học, khi
mà những khái niệm về từ ngữ, câu, cách hành văn của tiếng mẹ đẻ còn
tương đối mơ hồ thì những khái niệm xa lạ về từ loại, cách phát âm, cách
viết, ghi nhớ từ vựng của một ngôn ngữ tiếng nước ngoài là quá phức tạp
với trình độ hiểu biết của các em.
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ‘‘Một số kinh nghiệm giúp học sinh tiểu học học tốt từ vựng môn tiếng Anh ở trường tiểu học Hộ Phòng C’’ I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Như chúng ta đã biết mục tiêu giáo dục của Đảng là: “ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” xuất phát từ những mục tiêu trên mà đòi hỏi từng cấp học bậc học phải làm thế nào đảm bảo chất lượng giảng dạy của giáo viên cũng như chất lượng học tập của học sinh. Sự tồn tại của phương pháp dạy học luôn là cụ thể. Bởi thế mọi chủ trương quan điểm, mọi lý thuyết về đổi mới phương pháp sẽ vẫn là “màu xám” nếu nó không được chuyển hóa thành ý thức tình cảm, tri thức và kỹ năng của người giáo viên. Ngày nay chúng ta đang từng bước xây dựng một nền giáo dục chất lượng ngang tầm thế giới, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, càng đặt ra nhiều cơ hội và thách thức cho giáo viên. Đặc biệt trong xu thế hội nhập môn học tiếng Anh càng quan trọng hơn, mà từ thưở khai sinh tiếng Anh đã là một môn học khó . Để đáp ứng được với xu thế phát triển và yêu cầu của xã hội, kiến thức và phương pháp giảng dạy tiếng Anh cũng không ngừng phát triển và thay đổi hàng ngày. Đòi hỏi người giáo viên phải luôn tiến bộ và phát triển, nên việc tìm kiếm những phương pháp dạy học hợp lí, hay, và tích cực luôn là đề tài nóng hổi cho những ai đang gánh vác sứ mệnh “ trồng người” cao cả. Tiếng Anh là một bộ môn, kết hợp tất cả mọi kỹ năng của con người trong lúc học. Tiếng Anh của Tiểu học nhìn ở gốc độ chuyên môn thì không có gì quá khó khăn về mặt kiến thức. Nhưng đối với học sinh tiểu học, khi mà những khái niệm về từ ngữ, câu, cách hành văn của tiếng mẹ đẻ còn tương đối mơ hồ thì những khái niệm xa lạ về từ loại, cách phát âm, cách viết, ghi nhớ từ vựng của một ngôn ngữ tiếng nước ngoài là quá phức tạp với trình độ hiểu biết của các em. Chính vì thế mà việc nghiên cứu ra những phương pháp để giúp học sinh tiếp thu đầy đủ, ghi nhớ sâu sắc từ vựng tiếng Anh là khá cần thiết và quan trọng đối với học sinh Tiểu học, khi mà yêu cầu của môn học là học sinh chưa cần phát triển nhiều các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết như học sinh THCS và THPT. Có những kinh nghiệm do trãi nghiệm mà có, cũng có - 1 - những kinh nghiệm do học hỏi mà có được. Mong rằng những kinh nghiệm mà tôi sắp trình bày sau đây sẽ một phần nào giúp ích cho quý đồng nghiệp trong công tác giảng dạy môn tiếng Anh ở bậc Tiểu học nói chung, và giúp học sinh học tốt từ vựng tiếng Anh nói riêng. II/ NỘI DUNG 1. Thực Trạng: Vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh tiểu học, sau vài tiết học đầu tiên, tôi cho học sinh làm bài kiểm tra từ vựng, tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Cuối cùng tôi thu được kết quả như sau : Lớp TSHS Nối từ Dịch sang tiếng Việt Dịch sang tiếng Anh 3 27 20 15 10 4 18 15 10 8 5 18 15 12 6 Với kết quả như thế, và thông qua quá trình quan sát các tiết học kế tiếp tôi nhận thấy như sau: * Thuận Lợi: - Được sự quan tâm nhiều của BGH nhà trường, tổ bộ môn, và các bậc cha mẹ học sinh. - Nhà trường tương đối có đủ các trang thiết bị phục vụ cho môn học: sách giáo khoa, băng đĩa, màn hình và đèn chiếu. - Giáo viên có trình độ chuyên môn, chịu học hỏi, có sáng tạo và nhiệt tình trong công tác. - Học sinh đa phần thông minh, lanh lợi, hào hứng và yêu thích môn học Tiếng Anh. * Khó khăn: - Kiến thức môn tiếng Anh ở các khối lớp 3, 4, 5 ở các trường Tiểu học nói chung và trường tiểu học Hộ Phòng C nói riêng là chưa thống nhất, tính hệ thống và liên thông là chưa rõ ràng. Gây khó khăn cho quá trình lĩnh hội kiến thức của học sinh. - Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em đã không thành công. - 2 - - Về phía giáo viên, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. - Học sinh mau quên, không nhớ nghĩa của từ, đọc sai từ, viết sai từ - Học sinh còn thiếu các trang thiết bị, môi trường học tập Từ những thực trạng trên, trong quá trình giảng dạy tôi đã cố gắng tìm ra các giải pháp để khắc phục các khó khăn, cùng với nhà trường nâng cao chất lượng giảng dạy, nhằm giúp các em có được những thói quen tốt trong học từ vựng tiếng Anh, một vốn từ cơ bản để các em đủ tự tin bước vào học tập chính thức môn học này ở chương trình THCS. 2. Nguyên nhân: - Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh ở trường tiểu học Hộ Phòng C mỗi tuần 04tiết, lớp 3, 4 thì học sách “Let’s Go”, lớp 5 thì học sách “Family and Friends” mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Điều này gây ra khó khăn cho việc lĩnh hội hệ thống kiến thức của học sinh và có phần quá tải với số lượng tiết khá nhiều trong một tuần. - Mặc dù Tiếng Anh bắt đầu học từ lớp 3, khi mà học sinh đã biết đọc, biết viết tiếng Việt, nhưng thật sự là chưa thành thạo. Học sinh lớp 3 thì viết từ rất chậm, có em mất gần hết từ thời gian một tiết học mới hoàn thành xong, hay giọng đọc còn ngọng nghệu chưa biết cách luyến láy, “xì hơi” Học sinh lớp 5 thì do phải rèn luyện nhiều các môn học chính là Toán và tiếng Việt để hoàn thành bậc học, nên việc học tiếng Anh chỉ là để vui chơi, có em tỏ rỏ thái độ không cần học. - Là môn ngoại ngữ, xa lạ và khá mới mẽ nên không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. - Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. 3. Các biện pháp khắc phục: 3.1/ Giáo viên cần tham mưu với cấp lãnh đạo, tổ bộ môn về một chương trình học, bộ sách giáo khoa thống nhất giữa các trường và các khối lớp. Cũng như một phân phối chương trình phù hợp với lứa tuổi và trình độ tiếp thu của các em học sinh. Nếu trong trường hợp chưa thống nhất được thì - 3 - giáo viên phải dành thời gian sắp xếp, hệ thống kiến thức, chủ động linh hoạt trong từng tiết dạy. 3.2/ Giáo viên phải chọn từ để dạy. 3.3/ Giáo viên phải soạn giảng tốt, nắm vững các thủ thuật và tiến trình lên lớp của một tiết dạy từ vựng. Điều này sẽ giúp học sinh bước đầu tiêp thu nhanh chóng và ghi nhớ tốt từ mới. 3.4/ Giáo viên phải có đầy đủ ĐDDH, phương tiện giảng dạy trong một tiết dạy từ vựng. Vì sẽ gây được hứng thú cho các em học sinh Tiểu học. Đặc biệt là lôi kéo, tạo dựng lòng tin, tính ham học cho học sinh lớp 5. 3.4/ Hướng dẫn học sinh lớp 3 viết nhanh hơn. 3.5/ Hướng dẫn học sinh các biện pháp nhớ từ vựng hiệu quả. 3.6/ Hướng dẫn kỹ học sinh học bài ở nhà và cách phụ huynh kiểm tra các em như thế nào. 4. Các giải pháp thực hiện: 4.1/ Vào đầu năm học giáo viên cần đề xuất, bàn bạc cùng lãnh đạo và tổ bộ môn về một bộ sách giáo khoa chung cho các trường tiểu học trong huyện, và giữa các cấp học. Sau đó cùng xây dựng PPCT, tiết học cho phù hợp và thống nhất , điều này sẽ rất thuận lợi cho công tác kiểm tra, đánh giá tay nghề của giáo viên và chất lượng học tập của bộ môn. Theo nhận xét của bản thân tôi, tổ bộ môn tiếng Anh bậc Tiểu học tại huyện Giá Rai hoạt động khá tích cực và nhiều giáo viên rất tâm huyết, có tài. Tuy nhiên do yêu cầu của bộ môn là một môn học tự chọn, chưa có tính ràng buột giáo viên và học sinh về mặc quy chế nên ở một khía cạnh nào đó chúng ta chưa khai thác hết tiềm năng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Trở lại với vấn đề chương trình sách giáo khoa, số lượng tiết học chưa thống nhất với vấn đề học tiếng Anh của học sinh nói chung và hệ thống từ vựng tiếng Anh mà học sinh được học nói riêng. Khi cùng một bộ SGK từ lớp 3, 4 đến lớp 5, học sinh sẽ dễ nhớ từ hơn, dễ khắc sâu hơn bởi tính lặp đi lặp lại và sự liên quan giữa các bài học, lớp học trong cùng một cùng một chương trình soạn giảng, cùng một tác giả, cùng một hệ thống các trang thiết bị, tài liệu phục vụ cho bộ SGK đó. Thiết nghĩ việc thống nhất này nên được khẩn trương hoàn tất càng sớm càng tốt. Riêng trường Tiếu học Hộ Phòng C, nơi tôi công tác, cũng đang chưa có sự thống nhất này. Trước mắt tôi căn cứ vào yêu cầu của môn học, kiến thức của các quyển sách giáo khoa, và tham khảo ý kiến của các đồng nghiệp, tôi xây dựng hệ thống từ vựng ở các tiết dạy sao cho có tính liên thông nhất. Tôi thường xuyên nhắc lại từ củ trong bài học mới và thường xuyên kiểm tra các em mọi lúc trong giờ học. Có khi là đầu giờ, có khi giữ tiết học và có khi cuối tiết học. Trong một bài tập kiểm tra từ vừa mối học, - 4 - tôi đều thiết kế theo một, hai từ vựng cũ của các bài học trước hoặc năm học vừa qua cho các em làm. Trong quá tring2 làm học sinh sẽ nhớ lại và được khắc sâu rất nhiều. 4.2/ Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu môi là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề : - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary) Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form.( hình thức) + Meaning.( nghĩa) + Use.( sử dụng) Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. - Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. - 5 - - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. 4.3/ Các thủ thuật dạy từ: Giáo viên cần nắm vững và linh hoạt các thủ thuật dạy từ trong từng tiết học cũng như từ vựng đó sẽ sử dụng thủ thuật nào hiệu quả nhất. Ví dụ: - Khi từ mới là những dụng cụ học tập nhẹ nhàng thì giáo viên sử dụng thủ thuật “Realia” (vật thật). - Nhưng khi giới thiệu về các loại trái cây, các loài hoa, đồ vật trong gia đình tuy rằng có những loại chúng ta có thể tìm được ở chợ, có mô hình nhưng khá phức tạp khi mang theo lên lớp thì chúng ta sử dụng thủ thuật “ Visual” (nhìn). - Nhưng khi những từ khá trừu tượng thì giáo viên phải sử dụng các thủ thuật “ explaination” hay “ translation” Nắm vững được các thủ thuật dạy từ, kiểm tra từ phù hợp cho từng từ vựng, từng nhóm từ vựng là giáo viên đã giúp được học sinh 50% thành công trong lĩnh hội từ vựng đó. 4.4/ Các phương tiện, ĐDDH hiệu quả: - Phương tiện hiệu quả nhất hiện nay là sử dụng thành thạo phần mềm Powerpiont trong giảng dạy từ vựng. Không ai có thể phủ nhận tính tiện dụng, khả thi của phần mềm này trong giảng dạy từ vựng tiếng Anh. Và với những tiết học thường xuyên ứng dụng CNTT, học sinh của tôi vô cùng tò mò, hào hứng, thích thú tiết học. Những em học sinh lớp 5 không chú trọng đến môn học cũng khá tò mò trước những hình ảnh sinh động, lạ mắt, vui nhộn của các thiết bị điện tử mang lại. Và việc lơi kéo các em ngồi nghiêm túc, quan sát bài học, động viên các em tích cực xây dựng bài không còn khó khăn như trước nữa. - Phương tiện đồ dùng thứ 2 là tranh ảnh, giáo viên phải sưu tầm, vẽ Đây là phương tiện truyền thống có mất chút thời gian nhưng giáo viên có thể áp dụng một cách thực tế, thuận tiện nhất. - Các bảng phụ, bảng con của học sinh là những đồ dùng không thể thiếu trong lúc học từ vựng của thầy trò trường tôi. Và thường được dùng trong lúc kiểm tra, củng cố từ. 4.5/ Hướng dẫn học sinh viết từ nhanh hơn: - Không khéo giáo viên rất dễ bị “cháy” giáo án hay không đảm bảo thời gian tiết học vì học sinh Tiểu học viết chữ khá chậm chạp, nắn nót. Các em thường nhìn từng chữ cái một trong lúc viết. Nên tôn đã hướng dẫn các em chỉ nhìn một lần xem từ mới đó có bao nhiêu chữ cái và cúi đầu xuống - 6 - viết một mạch. Dần dần về sau quả là các em có tiến bộ lên rõ rệt các tiết học cũng đảm bảo thời gian hơn. 4.6/ Các biện pháp học thuộc và nhớ từ hiệu quả: - Học sinh nào của tôi cũng có 1 quyển tập chép từ mới ở nhà. Sau mỗi tiết học khi về nhà học sinh sẽ chép lại các từ mới khoảng từ một đến hai trang từ. Cách làm này giúp học sinh mau thuộc từ và thuộc sâu sắc hơn. - Cách kế tiếp là tôi yêu cầu học sinh ghi từ tiếng Anh dán vào các dụng cụ học tập, đồ dùng ở nhà. Ví dụ: trên cây viết dán chữ “pen”, trên cây thước dán chữ “ruler”, cái bàn ở nhà dán chữ “table” để học sinh có thể học mọi lúc mọi nơi. ` - Hướng dẫn học sinh sử dụng từ điển và yêu cầu học sinh tìm cho thầy một từ mới tiếng Anh mỗi ngày thông qua các phương tiện truyền thông, sách báo, nhãn mát, băng- gon, biển báo hiệumà các em thấy hàng ngày trong cuộc sống, ghi vào vở ở nhà và sử dụng từ điển tra nghĩa, khi tôi kiểm tra sẽ hướng dẫn cách phát âm Học sinh của tôi khá hào hứng với phong trào này, tăng cường tính quan sát, tìm tòi học hỏi, và thực tế hóa kiến thức của môn học. - Ngoài ra tôi thường xuyên tổ chức các trò chơi vể từ mới như: slap the board, bingo, matchingtrong các tiết học giúp học sinh hứng thú trong học tập. Và với tính “sợ thua” ngây thơ của tuổi nhỏ các em chuẩn bị rất tốt kiến thức các phần thi để tranh tài cùng các bạn. - Xung quanh lớp học tôi thường treo các khẩu hiệu, động từ cơ bản, tính từ cơ bảnđể học sinh có thể tự nhiên mà học thuộc. Trong một lần tham quan trường Tiểu học Hộ Phòng B, các thầy giáo dạy Tiếng Anh ở đây cũng có phương pháp này tại các lớp học, khi được các thầy chỉ lên các khẩu hiệu hỏi cách đọc, nghĩahọc sinh của tôi tự tin trả lời một cách rất chính xác. 4.7/ Hướng dẫn học sinh học tự học và vựng ở nhà: Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tổ chức cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Cho nên ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà như: chuẩn bị từ vựng, học thuộc lòng từ vựng - 7 - Và để giúp cho phụ huynh không đứng ngoài cuộc trong việc học tiếng Anh của con em mình. Tôi đã yêu cầu các em viết rõ nhiệm vụ về nhà sau mỗi tiết học vào vở học trên lớp như: - Viết một trang từ và học thuộc, làm bài tập 1, 2...trong vở bài tập Sau khi về nhà thực hiện xong phần nhiệm vụ ở nhà các em phài trình cho cha, mẹ ký tên vào xác nhận là “con tôi có viết từ, có học bài, làm bài ở nhà. Chỉ yêu cầu phụ huynh xem các em có thực hiện đầy đủ không? Còn đúng hay sai là nhiệm vụ của giáo viên khi đến lớp. Với giao ước này phụ huynh nào cũng đống ý, ủng hộ, có phụ huynh còn tham gia học tập cùng các em. 5. Kết quả và bài học kinh nghiệm: Sau một năm học, cũng với một bài kiểm tra 15 phút như đầu năm về từ vựng là tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Có kết quả như sau : Lớp TSHS Nối từ Dịch sang tiếng Việt Dịch sang tiếng Anh 3 27 27 25 20 4 18 18 15 13 5 18 18 15 15 So sánh với kết quả đầu năm thì học sinh của tôi đã có một bước tiến dài trong quá trình học và nhớ từ vựng tiếng Anh. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những hạn chế mà giáo viên cần rút kinh nghiệm như sau: - Giáo viên cần có những phương pháp dành riêng cho học sinh năng khiếu. - Việc sử dụng đèn chiếu, màn hình, ứng dụng công nghệ thông tin còn nhọc nhằn, khó khăn, mất thời gian do chưa có phòng học bộ môn - Việc thống nhất SGK giáo viên chưa thật sự chủ động, còn phụ thuộc điều kiện cơ sở vật chất và ý kiến của lãnh đạo cấp trên. - Giáo viên cần làm chủ thời gian hơn khi tiến hành lồng ghép các trò chơi vào tiết học. - Các biện pháp cần được duy trì một cách liên tục và hiệu quả cao hơn. III/ KẾT LUẬN: Những kinh nghiệm này chỉ giúp ít học sinh một phần trong quá trình học tốt tiếng Anh, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học thuộc lòng từ vựng và phát âm có chuẩn hay không. - 8 - Nhưng để đề tài thật sự có ý nghĩa không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của học sinh. Bởi vì một kiến thức nào dù nhỏ mà học sinh không quan tâm, không siêng năng, không ham học thì dù có được tổ chức tiếp thu tốt, được kiểm tra chặc chẽ như thế nào thì sau đó cũng trôi vào quên lãng, nhất là việc học mang tính chất “ thuộc lòng” và “duy trì” như học từ vựng tiếng Anh. Bên cạnh đó môi trường xung quanh cũng rất quang trọng, một môi trường tiếng Anh, sử dụng nhiều tiếng Anh, những lợi ích thực tế từ môn học mang lại là còn khá mơ hồ đối với một tỉnh vùng nông thôn, sâu xa như Bạc Liêu. Chính vì thế giáo viên nhiệm vụ của người giáo viên không dừng lại ở đó mà còn phải tạo được lòng tin, rèn luyện tinh thần hiếu học cho các em học sinh nhiều hơn nữa, thì thiết nghĩ phương pháp nào rồi cũng sẽ thành công đối với một thế hệ học trò có nền tảng là những đức tính tốt của con người Việt Nam giàu truyền thống hiếu học và tính nhân văn cao cả. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng đề tài chắc chắn vẫn còn nhiều sai sót, rất mong sự đóng góp nhiệt tình của quý đồng nghiệp để xây dựng cho đề tài hay hơn. Xin trân trọng kính chào! Hộ phòng, ngày 03 tháng 05 năm 2014 Người viết Nguyễn Văn Lý - 9 -
File đính kèm:
- skkn ly 2014.pdf