Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt nội dung học hát
Giáo dục thẩm mỹ cho con người không thể thiếu được trong mục đích giáo dục hiện nay của chúng ta. Việc giáo dục một con người toàn diện không chỉ giáo dục cho họ có đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết, nắm chắc các kiến thức khoa học và xã hội, có sức khoẻ, biết lao động, sẵn sàng lao động mà còn phải giáo dục cho họ biết nhìn nhận, phân biệt, biết thưởng thức cái đẹp và biết làm đẹp cho cuộc sống. Một trong những con đường giáo dục thẩm mỹ nhanh và hiệu quả nhất là giáo dục thông qua các môn học nghệ thuật. Trong đó có môn âm nhạc.
Âm nhạc là phương tiện hiệu quả nhất trong giáo dục thẩm mỹ, đặc biệt là ở bậc tiểu học, thông qua môn học này đã hình thành cho các em những kiến thức ban đầu về ca hát, về kiến thức Âm nhạc, đặc biệt là trang bị cho các em có một thế giới tinh thần thoải mái hơn, giúp các em phát triển toàn diện hơn, từ đó giúp các em học tốt các môn học khác.
Học Âm nhạc các em sẽ yêu thích bộ môn nghệ thuật này. Các em cảm thụ và cảm nhận được cái hay cái đẹp từ các bài hát được học. Làm cho các em thêm yêu quý và trân trọng các sản phẩm văn hóa tinh thần của cha ông ta để lại
như các bài dân ca, bài đồng dao,
heo. Như thế sẽ khắc sâu kiến thức cho học sinh ngay khi học bài mới. Khi tập hát cần sự đồng đều hoà giọng chính xác và diễn cảm với những trạng thái khác nhau. Việc củng cố luyện tập từng đoạn của bài hát giúp các em cảm nhận giai điệu và lời ca, tự tin. Đặc biệt là giúp các em loại bỏ sự chán nản khi chưa thực hiện đúng yêu cầu của giáo viên. Giáo viên có thể tách cho tổ, dãy bàn, nhóm hát để kịp thời sửa sai cho các em. Hát cả bài: Giáo viên cho học sinh hát cả bài theo giai điệu của đàn, chú ý những chỗ ngân, nghỉ và sửa sai cho các em, lưu ý học sinh cách phát âm, hát rõ lời và cảm xúc của bài hát, tránh gào thét đây là lỗi hay mắc phải ở học sinh tiểu học. Khi bắt nhịp cho học sinh hát, giáo viên cũng lưu ý về nhịp của bài để bắt cho học sinh hát. Ví dụ: Bài “ Em yêu hòa bình ”, bài này viết ở nhịp 2/4, có nhịp lấy đà là một nốt móc đơn. Khi bắt nhịp giáo viên đếm 1- 2. Sau đó kết hợp nhạc đệm, phần nhạc đệm giáo viên chuẩn bị và lưu sẳn trong đàn. Như vậy, khi học sinh hát với nhạc đệm giáo viên vẫn có thể quan sát, theo dõi được các em. Giáo viên kết hợp kiểm tra học sinh thực hiện theo nhiều hình thức như: Cả lớp, dãy, tổ, Nhóm, cá nhân Kết hợp gõ đệm, vận động và phụ họa: Giáo viên hướng dẫn cho học sinh thực hiện gõ đệm, cách gõ đệm tùy thuộc vào từng bài cụ thể. Lưu ý các bài hát có nhịp lấy đà. Ví dụ: Bài “ Em yêu hòa bình ” , Nhạc và lờ: Nguyễn Đức Toàn. Bài này được viết ở nhịp 2/4. Có nhịp lấy đà là một nốt móc đơn. Khi hướng dẫn học sinh hát kết hợp gõ đệm theo nhịp, phách giáo viên phải nhắc học sinh hát và mở tay gõ vào tiếng “ yêu ”. Giáo viên cần sử dụng các nhạc cụ để gõ đệm theo khi hát làm cho bài hát sinh động, gây hứng thú, giúp các em giữ được nhịp độ của bài mà không bị cuốn nhanh. Thông thường, có 3 cách gõ đệm để luyện tập củng cố bài hát đó là: Hát gõ đệm theo nhịp, phách, tiết tấu. Tuy nhiên, tuỳ theo từng bài hát cụ thể mà vận dụng cho phù hợp. Ví dụ: Bài “ Bạn ơi lắng nghe ” dân ca Ba na, sử dụng cách gõ đệm theo phách và gõ đệm theo tiết tấu đã được viết sẵn vào bảng phụ trên khuông nhạc, chia làm 2 cách gõ đệm khác nhau. Một nhược điểm mà học sinh hay mắc phải trong bài hát tập thể là hát bị cuốn nhịp tức là các em không giữ được theo nhịp độ ban đầu và có xu thế hát nhanh dần lên, do cảm thụ âm nhạc còn yếu cùng với sự ồ ạt khi hát tập thể nên việc này rất khó khắc phục. Muốn hạn chế tối đa nhược điểm này, giáo viên lưu ý ngay từ lúc bắt đầu dạy hát và thực hiện tốt các việc sau: - Dạy chính xác về trường độ và cao độ. - Cho các em vừa hát, vừa gõ đệm theo nhịp hoặc theo phách - Giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm nhỏ để luyện về nhịp độ - Lần lượt hát với tốc độ hơi chậm, hơi nhanh, vừa phải. Mục tiêu là để học sinh có thể hát với mọi tốc độ mà vẫn làm chủ về nhịp độ. - Hát theo chỉ huy, giáo viên đánh nhịp thật chắc chắn. Khi phát hiện ra những chỗ nào có xu thế nhanh dần, phải cho ngừng lại nhắc nhở, uốn nắn kịp thời. Để củng cố kĩ năng gõ đệm và hát thuộc bài hát giáo viên tổ chức cho học sinh ôn dưới dạng trò chơi: hát đuổi, hát đối đáp, bên hát lời, bên gõ đệm theo phách, nhịp, hát kết hợp vận động. Ví dụ: Bài “ Trên ngựa ta phi nhanh” Nhạc và lời: Phong Nhã. Giáo viên có thể cho học sinh ôn luyện theo cách hát đối đáp. Chia lớp làm hai nhóm, mỗi nhóm hát một câu kết hợp gõ đệm theo tiết tấu và ngược lại. Hoặc có thể cho một nhóm hát lời, một nhóm gõ đệm theo tiết tấu và ngược lại. Với bài hát viết ở nhịp 3/4 hoặc 3/8 có 3 phách trong một nhịp thì giáo viên chọn cho học sinh cách gõ theo phách là phù hợp, thông qua cách gõ này để giữ vững phách. Ví dụ: Bài “ Chúc mừng ” tiết 19. Phần kết hợp vận động và phụ họa: Tiết học thứ nhất này không đòi hỏi nhất thiết học sinh phải thực hiện thật thành thạo vì vận động và phụ họa có thể tiến hành ở tiết tiếp theo ở phần ôn tập bài hát. Tiết học hát chủ yếu học sinh biết hát kết hợp gõ đệm, giáo viên hướng dẫn một vài động tác đơn giản cho các em làm quen. Các tiết tiếp theo khi đã thuộc lời ca, các em kết hợp thực hiện vận động và phụ họa dễ dàng hơn. Củng cố, kiểm tra: Cho các em trình bày theo cá nhân, nhóm hoặc theo tổ. Giáo viên có thể tranh thủ kiểm tra mức độ tiếp thu của các em. Ví dụ: Giáo viên đàn lại bài hát, yêu cầu học sinh gõ đệm theo nhịp, theo phách hoặc tiết tấu. Giáo viên yêu cầu học sinh hát câu 1, nhẩm và gõ theo phách câu 2 rồi lại hát câu 3, gõ đệm câu 4... cũng có thể chỉ cho các em gõ theo tiết tấu của bài. Các hình thức luyện tập này vừa hiệu quả lại vừa thu hút học sinh tham gia. Tùy vào từng bài hát mà giáo viên có thể kết hợp trò chơi để giờ học thêm phong phú sinh động hơn. Ở tiết học ôn bài hát thì giáo viên xoáy sâu vào luyện tập và biểu diễn. Tuy nhiên có một số em sang tiết này rồi nhưng phần lời ca còn chưa thuộc. Vì vậy giáo viên vẫn cần ôn tập lại để giúp học sinh hát thuộc lời ca. Đối với bài ôn tập, khi vào bài giáo viên vẫn có thể treo tranh ảnh liên quan tới nội dung bài hát. Giáo viên đặt câu hỏi, để các em trả lời, từ đó giúp các em nhớ lại nội dung của bài hát. Ví dụ: Ôn tập bài “Khăn quàng thắm mãi vai em” giáo viên treo tranh có hình ảnh bạn nhỏ đeo khăn quàng, tới trường vào buổi sáng sớm khi bình minh vừa lên. Hoặc giáo viên có thể đàn giai điệu một hai câu trong bài, để học sinh nghe và nhớ lại bài hát đó. Trong giờ học ôn này, giáo viên vẫn phải cho học sinh luyện thanh, nhắc học sinh tư thế ngồi học, cách hát và cách lấy hơi cho đúng. Trước khi vào ôn tập thì giáo viên nên đàn lại cả bài cho học sinh nghe và nhẩm lại bài. Sau đó bắt nhịp cho cả lớp hát, giáo viên chú ý một số đối tượng học sinh chưa tích cực để kịp thời nhắc nhở và giúp đỡ các em. Sau khi các em nhớ và hát thuộc bài giáo viên tiếp tục cho các em ôn sang phần hát kết hợp gõ đệm. Phần này, giáo viên có thể chia nhóm để ôn tập, một nhóm hát và gõ đệm, một nhóm ngồi nhẩm theo. Cho học sinh nhận xét xem nhóm bạn thực hiện như thế nào. Từ đó giáo viên có thêm nhận xét và hướng dẫn cho học sinh những chỗ các em làm chưa được. Việc cho học sinh tự nhận xét bạn sẽ giúp các em nhận ra lỗi sai một cách nhanh nhất. Từ đó rút kinh nghiệm cho bản thân mình khi thực hiện. Giáo viên tích cực kiểm tra nhóm và cá nhân, kịp thời tuyên dương và động viên các em. Giáo viên mời một số học sinh học tốt lên bảng hát và biểu diễn bài hát. Dưới lớp các em cũng tự nghĩ cho mình những động tác cho phù hợp, để có thể lên thực hiện. Qua phần biểu diễn của từng học sinh, giáo viên cho các bạn ở dưới nhận xét, góp ý. Sau đó giáo viên mới góp ý cho những động tác của các em được hoàn thiện hơn. Muốn thể hiện bài hát một cách tốt nhất thì các em phải hiểu rõ được nội dung của bài hát. Có như thế các em mới hòa mình vào giai điệu được. Một số bài hát khó thể hiện như bài “ Trên ngựa ta phi nhanh ” thì giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh. Để thực hiện tốt hơn, giáo viên hướng dẫn học sinh thay đổi động tác mà các em cảm thấy phù hợp hơn. Giáo viên có thể cho các em thi giữa các nhóm, các tổ nhằm kích thích sự hứng thú học tập của các em. Đồng thời hướng dẫn cho các em lựa chọn hình thức biểu diễn cho phù hợp với từng bài. Ví dụ: Bài “ Thiếu nhi thế giới liên hoan ”, học sinh có thể thảo luận thống nhất cách biểu diễn và lên thực hiện theo hình thức hát tốp ca, có thể là một em đơn ca các bạn khác phụ họa cũng được. Các nhóm, cá nhân thực hiện tốt thì được tuyên dương. Còn nhóm, cá nhân thực hiện chưa được thì giáo viên động viên các em cố gắng trong giờ học sau. Như vậy các em sẽ có thêm hứng thú cho môn học để có một giờ học hát đạt hiệu quả. Ngoài ra, để tiết học sinh động, giáo viên nên chuẩn bị các tiết giảng bằng điện tử, như vậy các hình ảnh truyền tới học sinh sẽ phong phú và sinh động hơn, giúp các em tích cực chủ động tiếp thu các kiến thức của bài. Hơn thế nữa, trong khi dạy giáo viên luôn mở rộng hiểu biết xung quanh bài hát như giới thiệu về tác giả, về nội dung, liên hệ với các lĩnh vực văn học, lịch sử, địa lý, giới thiệu các bài hát khác viết cùng chủ đềĐặc biệt, cần chú trọng đến nội dung của bài hát nhằm liên hệ thực tế để giáo dục tình yêu quê hương, yêu ông bà cha mẹ, yêu thầy cô, yêu bạn bè, đoàn kết giúp bạncho học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài “Bàn tay mẹ”, Nhạc: Bùi Đình Thảo. Lời: Tạ Hữu Yên. Tôi sẽ hướng các em nhớ đến công ơn của mẹ, người đã sinh ra và nuôi lớn các em. Từ đó liên hệ một số bài hát khác như “Cho con”, “Gặp mẹ trong mơ”, 2.1.4. Công tác kiểm tra. Để có thể nắm bắt khả năng tiếp thu của học sinh, giáo viên phải kết hợp dạy và kiểm tra thường xuyên, giúp các em được thực hành nhiều. Như thế các em sẽ có cơ hội rèn luyện và thể hiện khả năng của bản thân mình. Đối với những em còn hạn chế trong học tập, tôi thường kiểm tra một đoạn hoặc lời 1 của bài hát, như vậy các em sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn, không gây áp lực. Ví dụ, khi hướng dẫn học sinh hát từng câu bài “ Em yêu hòa bình”, thì giáo viên đàn giai điệu một hai lần sau đó cho học sinh nghe và hát theo giai điệu của đàn. Như vậy các em đã được rèn luyện về khả năng xác định cao độ và trường độ của câu hát. Hoặc khi giáo viên hướng dẫn học sinh gõ đệm theo phách. Sau khi giáo viên làm mẫu, cho cả lớp thực hiện thì giáo viên nên tích cực kiểm tra cá nhân, nhóm giúp các em nắm chắc thế nào là một phách để thực hiện cho chính xác. Phần luyện hát kết hợp vận động là phần tương đối khó với các em. Ở phần này đòi hỏi học sinh phải mạnh dạn, tự tin và quan trọng là phải hiểu được nội dung của bài hát mà các em hát. Vì vậy, phần này giáo viên phải hướng dẫn cho các em kĩ các động tác như thế nào cho hợp lý và phù hợp với các em. Động viên các em lên bảng thể hiện bản thân, có thể theo nhóm hoặc cá nhân. Giáo viên kịp thời khích lệ, tuyên dương các em, từ đó giúp các em cảm thấy tự tin hơn về bản thân mình cho các giờ học tiếp theo. Giáo viên có thể ứng dụng công nghệ thông tin, tổ chức trò chơi củng cố kiến thức cho học sinh ở cuối tiết học Ví dụ: Sau khi học xong bài Chú voi con ở Bản Đôn. Giáo viên cho học sinh chơi trò chơi “ Mở hộp quà ”. Giáo viên chuẩn bị 3 câu hỏi tương ứng với 3 hộp quà. Câu hỏi số 1: Tác giả của bài hát Chú voi con ở Bản Đôn là ai ? Câu hỏi số 2: Điền từ còn thiếu vào câu hát sau: Từ rừng già chú đến với người vẫn ...... với lại ham chơi. Câu hỏi số 3: Bài hát nói lên điều gì ? Hoặc sau khi học xong bài hát “ Cò lả ” giáo viên cho học sinh chơi trò chơi “ Mở ô chữ ” Ô số 1: Bài hát Cò lả là dân ca miền nào? Ô số 2: Nghe giai điệu và cho biết đó là câu hát nào trong bài? Ô số 3: Em hãy mời một bạn cùng em hát lại bài hát vừa học. Với hình thức tổ chức trò chơi củng cố tiết học trên giúp học sinh tiếp thu bài tốt hơn. 2.1.5. Công tác phối hợp: Trong quá trình học, các em cũng cần có cơ hội để thực hành, được thể hiện mình qua các bài hát đã học. Giáo viên âm nhạc có thể kết hợp với giáo viên tổng phụ trách Đội cho các em được ôn lại các bài hát trong chương trình sinh hoạt đội theo chủ điểm. Ví dụ: trong sinh hoạt đội tháng 12 có thể cho các em ôn lại các bài như “ Em yêu hòa bình, Khăn quàng thắm mãi vai em,” vừa là giúp các em nhớ bài vừa giúp các em hiểu rõ hơn về nội dung của các bài hát đó. Giáo viên cũng có thể tư vấn cho giáo viên chủ nhiệm một số bài hát phù hợp với chủ đề các phong trào mà Đội và nhà trường đưa ra để tập cho các em thành một bài hát, múa hoàn chỉnh và có thể tham gia vào các hội thi văn nghệ của trường, của xã Ví dụ bài “ Cò lả ”. Qua quá trình tập giúp các em nắm rõ hơn về nội dung của bài hát, thể hiện rõ hơn tinh thần lạc quan của người nông dân trong lao động sản xuất, có cơ hội tìm hiểu kỹ hơn về làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Để thành công trong công tác dạy và học không thể thiếu được sự phối hợp của các bậc phụ huynh. Thời gian 35 phút trên lớp không thể đủ để giúp các em học tốt và đạt hiệu quả cao trong môn học này được. Vì vậy giáo viên cần nhờ đến sự quan tâm và động viên của các bậc phụ huynh học sinh. Kịp thời thông tin và nhờ phụ huynh kèm thêm các em ở nhà những phần mà các em trên lớp thực hiện còn lúng túng. Có như vậy các em mới mạnh dạn và có ý thức rèn luyện bản thân mình học tốt được. Ví dụ: Tiết ôn bài hát “ Trên ngựa ta phi nhanh ” giáo viên mời em Trần Thị Ánh Tuyết của lớp 4A2 lên bảng trả bài, nhưng em không thuộc hết. Giáo viên có gọi điện nhờ phụ huynh động viên nhắc nhở thêm để em có ý thức học bài cũ ở nhà. Giờ học sau, giáo viên kiểm tra thì em trả bài khá tốt. 2.2. Tính hiệu quả: Qua thời gian áp dụng các biện pháp nêu trên trong việc giúp học sinh lớp 4 học tốt nội dung học hát, tôi thấy các em đã có kĩ năng ghi nhớ lời ca, thể hiện bài đúng giai điệu và biết biểu diễn các bài hát kết hợp gõ đệm và vận động tốt. Bản thân giáo viên khi giảng dạy mạnh dạn, tự tin. Hoạt động thầy trò nhịp nhàng, hiệu quả hơn. 2.3. Phạm vi áp dụng: Giải pháp “ Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4 học tốt nội dung học hát ” đã được bản thân tôi áp dụng ngay từ đầu năm trong việc dạy đại trà cho học sinh khối lớp 4, Trường tiểu học Tân Nghĩa I. Những biện pháp về việc giúp học lớp 4 học tốt nội dung học hát một cách có hiệu quả như đã trình bày ở trên không chỉ áp dụng cho học sinh lớp 4 trường tiểu học Tân Nghĩa I nói riêng mà đã triển khai áp dụng cho tất cả học sinh trong toàn trường. Giải pháp này có thể áp dụng với giáo viên giảng dạy Âm nhạc bậc tiểu học trong toàn huyện. 3. Kết quả thực hiện: Trong quá trình giảng dạy, tôi đã mạnh dạn vận dụng những giải pháp nêu trên và bước đầu đem lại hiệu quả trong công việc rèn luyện khả năng của học sinh cho phân môn học hát. Nhiều em đã có được kỹ năng gõ đệm theo phách, theo nhip, theo tiết tấu tương đối tốt, biểu diễn bài hát mạnh dạn, tự nhiên hơn. Nhiều em chưa mạnh dạn đứng trước các bạn trình bày bài hát thì giờ đây các em đã tự tin và thực hiện khá tốt. Kết quả học kỳ I như sau: Có tổng số 78 em học sinh lớp 4 trong học kỳ I năm học 2016-2017 đạt kết quả tương đối cao: 100% các em hoàn thành môn học. Bên cạnh đó, kết quả nội dung học hát môn Âm nhạc tháng 4 có chuyển biến rõ rệt cụ thể: Lớp Tổng số học sinh Học sinh hát đúng cao độ, trường độ, thuộc lời ca Học sinh biết hát kết hợp gõ đệm Học sinh biết hát và kết hợp vận động SL % SL % SL % 4A1 25 25 100% 23 92% 14 56% 4A2 22 22 100% 20 90,9% 14 63,6% 4A3 23 23 100% 20 87% 13 56,5% 4C 8 8 100% 7 87,5% 4 50% Qua lần đánh giá này tôi thấy hầu hết các em hát đã mạnh dạn hơn, một số chỗ có dấu luyến, hay những nốt nhạc lên cao các em hát tương đối chính xác, cảm nhận được tình cảm mà tác giả nhắn gửi trong bài hát. Một vài em trước đây chưa tích cực trong giờ học, thì đến bây giờ đã chú ý hơn, hăng hái hơn trong giờ học. Hầu như các em đều thuộc bài ngay sau tiết học thứ nhất. Các em đã cảm nhận được về giai điệu, lời ca cũng như tình cảm mà tác giả nhắn gửi vào bài hát. Điều này đã giúp các em thực hiện tương đối tốt khi thực hành hát kết hợp gõ đệm và vận động theo bài hát. 4. Bài học kinh nghiệm: Qua nhiều năm giảng dạy tôi nhận thấy, để giúp các em học tốt nội dung học hát ở tiểu học nói chung và học sinh khối lớp 4 nói riêng điều quan trọng nhất là người giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài trước khi lên lớp. Giáo viên luôn nhẹ nhàng, chuẩn mực, gần gũi, ân cần giúp đỡ học sinh khi có khó khăn trong học tập. Trong các giờ học, giáo viên nên có những sáng tạo đổi mới phương pháp để giờ học thêm hứng thú hơn với học sinh. Giáo viên cũng phải thường xuyên tìm đọc và nghiên cứu tất cả các tài liệu có liên quan đến môn học. Vận dụng vào công việc giảng dạy, nâng cao trình độ chuyên môn cho bản thân. Để có giờ học sinh động, gây hứng thú cho học sinh giáo viên cần chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học trước khi lên lớp. Thường xuyên ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học để đem lại hiệu quả cao. Giáo viên cần chú trọng tổ chức trò chơi đầu tiết hoặc cuối tiết để gây hứng thú giúp học sinh khắc kiến thức. Giáo viên luôn đổi mới phương pháp và hình thức dạy học giúp các em yêu thích môn học. Giáo viên cũng hướng cho học sinh cách nhận xét ưu khuyết điểm của bạn trong giờ học, điều đó giúp các em tiến bộ hơn rất nhiều. Để thực hiện tốt nhiệm vụ học thì giáo viên cũng thường xuyên nhắc nhở các em chuẩn bị đầy đủ sách và nhạc cụ gõ đệm của mình. Giáo viên thường xuyên tổ chức hoạt động “thi hát” để các em mạnh dạn hơn trong hoạt động tập thể, tuyên dương khuyến khích học sinh kịp thời. Giáo viên tăng cường công tác kiểm tra sửa sai cho học sinh, để có biện pháp uốn nắn đối với những em thực hiện chưa được. Giáo viên cần lắng nghe những ý kiến góp ý của đồng nghiệp cũng như ban giám hiệu nhà trường để rút ra phương pháp giảng dạy tốt nhất. Đồng thời tăng cường dự giờ, học hỏi đồng nghiệp cùng bộ môn ở các trường bạn để đổi mới phương pháp nâng cao tay nghề, nâng cao chất lượng giảng dạy. Bên cạnh đó cần phối hợp chặt chẽ với nhà trường, gia đình, các đoàn thể khác tạo điều kiện tốt nhất phục vụ cho công tác dạy và học. 5. Kết luận. Âm nhạc là một môn học mang tính nghệ thuật cao nên việc dạy học sinh học tốt phân môn học hát là điều rất quan trọng. Việc đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng triệt để thiết bị đồ dùng trong giảng dạy là biện pháp tốt nhất, thuận lợi cho người dạy và tạo hứng thú cho người học. Với khả năng nhận thức của các em qua môn Âm nhạc tôi đã đưa vào thực tế các biện pháp trên để học sinh thực hiện tốt giờ học hát và đã thu được kết quả đáng khích lệ. Học sinh ngày càng yêu mến môn học, các em mạnh dạn tự tin đứng trước lớp để biểu diễn, bước đầu thể hiện được tình cảm của mình khi hát và các em rất hào hứng tham gia học tập. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy người giáo viên cũng phải biết linh hoạt, tùy theo từng đối tượng học sinh mà ta có thể tạo ra những cách thức, biện pháp giảng dạy thích hợp để đạt được hiệu quả cuối cùng là học sinh hiểu bài, nắm được kiến thức, tiếp thu và thực hiện tốt bài học nói riêng và đạt được mục tiêu của chương trình Âm nhạc nói chung. Bên cạnh đó, học sinh có trình độ năng khiếu vượt trội còn ít, không đồng đều nên nhiều khi giáo viên còn lúng túng trong thao tác. Để làm cho các đối tượng học sinh cùng được tham gia và có kết quả tốt, đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết với nghề, mến trẻ, yêu bộ môn giảng dạy. Không ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề, luôn có ý thức đúng đắn về cái đẹp thẩm mỹ nhưng mang đầy tính giáo dục và khoa học cao. Trên đây là một vài giải pháp tôi đã áp dụng trong quá trình giảng dạy nội dung học hát, môn Âm nhạc cho học sinh lớp 4. Tôi thấy mình cần phải học hỏi nhiều hơn nữa để đem đến cho các em những giờ học thú vị và hiệu quả. Trong thời gian ngắn với kinh nghiệm hiểu biết còn hạn chế giải pháp của tôi đưa ra chắc chắn sẽ không tránh khỏi sự thiếu sót. Tôi rất mong sự góp ý của đồng nghiệp của Ban giám khảo, để giải pháp này được hoàn thiện hiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ý kiến của Lãnh đạo đơn vị .................................................................... .................................................................... .................................................................... .................................................................... .................................................................... .................................................................... .................................................................... Di linh, ngày 25 tháng 04 năm 2017 Người thực hiện Đỗ Xuân Quỳnh Hội đồng xét duyệt sáng kiến cấp Huyện đánh giá, nhận xét ( Ký tên, đóng dấu của đơn vị) ....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
File đính kèm:
- sang kien kinh nghiem am nhac_12499445.doc