Một số biện pháp rèn tập làm văn cho học sinh lớp 3
Dạy tập làm văn là dạy tích hợp tất cả các phân môn tiếng Việt. Chương trình tập làm văn lớp 3 chủ yếu rèn cho các em luyện nghe, luyện nói, luyện viết với mẫu câu rộng hơn: câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, câu giàu hình ảnh. Luyện viết với số lượng câu văn tăng hơn so với lớp 2 (5-7 câu), cần chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc.
Thế nhưng với thời đại văn hóa đọc ngày càng mai một. Số lượng học sinh ham thích đọc sách ngày càng giảm. Hình ảnh bà ngồi kể chuyện cổ tích cho cháu nghe cũng dần đi vào quên lãng. Thời gian rãnh rỗi các em dành cho các hoạt động giải trí hiện đại: xem hoạt hình, chơi game. Từ đó khả năng nghe, đọc và cảm thụ văn học của các em cũng giảm do đó vốn từ của các em cũng hạn chế nên các em gặp khó khăn trong việc tìm từ để kể lại câu chuyện, nói-viết theo các chủ đề.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở khối lớp 3 bản thân nhận thấy rằng học sinh chưa thực sự yêu thích môn tập làm văn chẳng phải vì đây là môn học không có sức cuốn hút, không tạo sự đam mê yêu thích cho học sinh mà là giáo viên chưa thổi được hồn vào trong các tiết tập làm văn khi giảng dạy học sinh. Từ những băn khoăn trăn trở: Tại sao học sinh mình không thích học tiết làm tập làm văn? Khả năng nghe, nói, kể, viết của các em ngày càng hạn chế? Tôi đã nhiều lần học hỏi, tìm tòi, tham khảo, thử nghiệm và mạnh dạn đưa ra "Một số biện pháp rèn tập làm văn cho học sinh lớp 3". Đây cũng là tên sáng kiến kinh nghiệm mà tôi muốn chia sẻ.
hổi được hồn vào trong các tiết tập làm văn khi giảng dạy học sinh. Từ những băn khoăn trăn trở: Tại sao học sinh mình không thích học tiết làm tập làm văn? Khả năng nghe, nói, kể, viết của các em ngày càng hạn chế? Tôi đã nhiều lần học hỏi, tìm tòi, tham khảo, thử nghiệm và mạnh dạn đưa ra "Một số biện pháp rèn tập làm văn cho học sinh lớp 3". Đây cũng là tên sáng kiến kinh nghiệm mà tôi muốn chia sẻ. II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. Cơ sở lí luận - Thực hiện công văn số 9832/BGDĐT- GDTH ngày 22 tháng 7 năm 2008 về việc hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5; - Căn cứ nhiệm vụ năm học 2014 - 2015 của Bộ giáo dục và đào tạo số 3004/CT – BGD-ĐT ngày 15 tháng 8 năm 2013; - Thực hiện công văn số 169/PGD-ĐT Cẩm Mỹ ngày 28/08/2014 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2014 - 2015 đối với giáo dục tiểu học. 2. Cơ sở thực tiễn - Lứa tuổi các em là lứa tuổi thích được khen tặng, được biểu dương. - Giáo viên có thể tự lên kế hoạch dạy học, điều chỉnh nội dung chương trình theo trình độ, khả năng của học sinh lớp mình phụ trách. - Một số đề bài thay vì chỉ dạy trong thời gian nửa tiết học nay đã được dạy trọn trong một tiết học. - Học sinh lớp 3 vốn ngôn ngữ của các em chưa nhiều: các em còn mải chơi nhiều hơn học. - Các em còn ngại kể chuyện vì chưa nhớ các tình tiết, nội dung của câu chuyện; nói về đề tài nào đó cho qua loa, cho xong vì các em chưa tìm ra được các tữ ngữ liên quan đến đề tài. - Giáo viên chưa khen tặng, uốn nắn các em kịp thời. - Giáo viên chưa khơi gợi được ính tò mò, ham học hỏi, sáng tạo văn học nơi các em. - Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường tiểu học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm nâng cao năng lực giảng dạy. Chính vì những lý do trên nên việc học văn ở lớp Ba còn hạn chế. Trong tiết “Nghe - kể lại chuyện” nhiều em còn chưa kể lại được chuyện mặc dầu chuyện đó ngắn, tình tiết ít. Khi “Kể hay nói, viết về một chủ đề” nào đó theo các gợi ý ở SGK thì các em diễn đạt còn lúng túng nhất là những học sinh yếu không nói (viết) được bài. Qua tiến hành khảo sát học sinh lớp 31 và lớp 32 về khả năng viết tập làm văn đầu năm, có kết quả như sau: Lớp Số lượng HS Giỏi Khá Trung bình Yếu 31 30 5 9 12 4 32 29 5 11 10 3 Để khắc phục những hạn chế ở trên, dựa vào những thuận lợi đang có. Tôi mạnh dạn thực hiện rèn cho các em 3 kĩ năng sau: - Rèn kĩ năng nghe-kể lại câu chuyện. - Rèn kĩ năng nói và viết theo đề tài. - Rèn kĩ năng kể người thật việc thật. Dưới đây là một số giải pháp thay thế một phần của giải pháp cũ đã được thực hiện và đem lại hiệu quả dạy học cao hơn. III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Giải pháp 1: Rèn kĩ năng nghe-kể lại câu chuyện a/ Với các bài tập nghe – kể lại câu chuyện nhằm rèn cho học sinh kĩ năng nghe và nói. Do đó dạng bài này yêu cầu học sinh kể lại câu chuyện, ghi nhớ các nhân vật, các chi tiết và hiểu được ý nghĩa của câu chuyện. * Khi dạy nghe kể các câu chuyện ngắn, ít tình tiết như: Dại gì mà đổi (tuần 4); Không nỡ nhìn (tuần 7) ngoài việc học sinh nghe kể phần đầu câu chuyện rồi đoán phần kết hay nhìn tranh đoán nội dung câu chuyện tôi còn dùng thêm cách cho học sinh ghép đoạn văn như sau: - Giáo viên chia các câu trong câu chuyện thành các thẻ chữ và cho học sinh đọc. - Giáo viên, cho học sinh thảo luận theo nhóm để ghép các thẻ chữ thành câu chuyện – Các nhóm thảo luận rồi ghi kết quả sắp xếp vào bảng con ( chỉ ghi con chữ ghi câu, không ghi câu văn) sắp xếp thành câu chuyện hoàn chỉnh. - Sau đó học sinh nghe giáo viên kể chuyện và điều chỉnh sắp xếp của mình cho đúng với nội dung ( nếu cần). - Học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện. - Học sinh kể chuyện theo nhóm - Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể) - Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. b/ Ví dụ 1: Khi dạy Nghe kể lại chuyện: Không nỡ nhìn.( TV3 - tập 1- tr.61), giáo viên có thể thực hiện như sau: 1. Chuẩn bị: - 6 thẻ chữ. Mỗi thẻ chữ ghi một câu sau: a – Không ạ ! Cháu không nỡ ngồi nhìn các cụ già và phụ nữ phải đứng. b – Cháu nhức đầu à ? Có cần xoa dầu không ? c – Anh thanh niên nói nhỏ: d – Một anh thanh niên ngồi nhưng hai tay cứ ôm lấy mặt. e – Bà cụ ngồi bên thấy thế liền hỏi: g – Trên một chuyến xe buýt đông người 2. Tiến hành - Giáo viên gắn thẻ chữ lên bảng ( ngẫu nhiên), cho học sinh thảo luận theo nhóm 2 - Các nhóm thảo luận rồi ghi kết quả sắp xếp vào bảng con. Chỉ ghi con chữ ghi câu, không ghi câu văn. - Giáo viên kể chuyện 2 lần - Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với thứ tự nội dung mình đã sắp xếp.( g – d – e – b – c – a ) - Học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện. - Học sinh kể chuyện theo nhóm ( giáo viên giúp đỡ những em kể chậm ) - Đại diện vài nhóm học sinh kể lại chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể) - Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. * Khi dạy nghe-kể các câu chuyện dài hơn, có nhiều tình tiết hơn như: Chàng trai làng Phù Ủng ( tuần 19 ); Nâng niu từng hạt giống ( tuần 21 ); Người bán quạt may mắn ( tuần 29 ) thì có thể rèn cho học sinh nghe-kể qua việc vẽ sơ đồ mạng câu chuyện hay vẽ sơ đồ trình tự câu chuyện: Giáo viên kể chuyện một, hai lần và đặt câu hỏi gợi mở để giúp học sinh vẽ sơ đồ mạng câu chuyện hay vẽ sơ đồ trình tự câu chuyện. - Giáo viên cho học sinh điền vào sơ đồ mạng câu chuyện sơ đồ trình tự câu chuyện của mình. - Giáo viên kể chuyện lần 3, yêu cầu học sinh kiểm tra lại trình tự của mình - Học sinh dựa vào sơ đồ câu chuyện kể lại chuyện. Giáo viên cần khen tặng và uốn nắn học sinh kịp thời: về cách dùng từ, cách xưng hô. - Học sinh trao đổi về điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của truyện. - . Hoặc khi dạy Nghe kể lại chuyện: Nâng niu từng hạt giống (TV3 -Tập 2-Tr.30), giáo viên có thể tiến hành như sau: 1.Chuẩn bị: +Phiếu bài tập xây dựng sơ đồ trình tự câu chuyện, có thể là : 2.Cách tiến hành: - Giáo viên kể 2 lần và yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ trình tự câu chuyện. Nếu học sinh có khó khăn giáo viên có thể nêu các câu hỏi gợi ý như sau: + Câu chuyện nói đến ai? + Ông nhận được quà gì? + Thời tiết lúc đó thế nào? + Ông Của bảo thế nào? + Ông Của đã làm gì? + Kết quả ra sao? - Giáo viên kể lần ba rồi yêu cầu học sinh kiểm tra và hoàn chỉnh sơ đồ của mình. - Học sinh thảo luận nhóm 2 rồi điều chỉnh sơ đồ trình tự câu chuyện, có thể như sau: Lương Định Của Chia làm hai phần Trời rét đậm Nhận được 10 hạt thóc giống Chỉ năm hạt nảy mầm - Gọi một vài học sinh nhìn sơ đồ trình tự của mình kể lại chuyện cho cả lớp nghe. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung và động viên khuyến khích các em là chính. Giáo viên chú ý rèn cho học sinh kể gãy gọn, nói thành câu (qua việc ngắt nghỉ hơi) và chú ý giọng điệu của các em chậm lại, kể rõ từng công việc ông làm ( kèm thêm cử chỉ, điệu bộ) khi kể ông Của chia mười hạt giống thành hai phần. Năm hạt ông gieo trong phòng thí nghiệm. Còn năm hạt kia ông ngâm nước ấm, gói vào khăn, tối tối ủ trong người, trùm chăn ngủ để hơi ấm của cơ thể làm cho thóc nảy mầm. Cũng có thể cho học sinh trung bình yếu vẽ thêm sơ đồ công việc của ông với năm hạt thóc sau: Ngâm nước ấm gói vào khăn ủ trong người - Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại theo nhóm 4, giáo viên kèm cặp giúp đỡ học sinh trung bình yếu. - Đại diện nhóm kể trước lớp. Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung. (Giáo viên lưu ý đến câu, từ và cách xưng hô của học sinh) Cần động viên học sinh qua lời khen, uốn nắn cho học sinh tiến bộ hơn mức độ em đã đạt được khi kể. Ví dụ như: khi em kể chưa lưu loát thì động viên em cố gắng tập kể nhiều lần cho thuộc câu chuyện hơn, khi em kể thuộc câu chuyện mà chưa dùng cử chỉ điệu bộ thì dộng viên em cố gắng kèm theo cử chỉ, điệu bộ để lời kể của em hấp dẫn, cuốn hút người nghe hơn. Và trong mỗi trường hợp giáo viên không nên quên lời khen các em theo tùng mức độ các em đạt được. - Cả lớp và giáo viên bình chọn bạn kể chuyện hay nhất, hiểu câu chuyện nhất, kể tiến bộ nhất để biểu dương. c/ Qua việc sắp xếp các câu văn trong đoạn văn thật chặt chẽ, hợp lí, xây dựng mạng câu chuyện hay sơ đồ trình tự câu chuyện học sinh đã có thời gian để đọc, suy nghĩ và nắm chi tiết, nội dung câu chuyện cho nên việc kể lại câu chuyện đối với các em thuận lợi hơn. Học sinh kể lại câu chuyện, ghi nhớ các nhân vật, các chi tiết và hiểu được ý nghĩa của câu chuyện. Các em đã rất tự tin khi kể lại câu chuyện và kể thật tự nhiên, có em còn kèm theo những cử chỉ diễn tả rất thú vị. Một số học sinh có thể sáng tạo trong lời kể của mình không rập khuôn theo lời kể của giáo viên. Đặt biệt là các em rất thích được kể chuyện. Giải pháp 2: Rèn kĩ năng nói và viết theo đề tài a/ Với dạng bài này học sinh cảm thấy lúng túng khi tìm từ, đặt câu và sắp xếp thứ tự các câu trong bài nói, viết của mình. Đây là dạng bài thể hiện rõ sự tích hợp của các môn học. Để giúp các em mạnh dạn chọn từ đặt câu hơn giáo viên có thể thực hiện xây dựng mạng ý nghĩa hay dùng bản đồ tư duy như sau: - Sau khi phân tích yêu cầu đề bài giáo viên yêu cầu học sinh nghĩ về đề tài, xâu chuỗi tất cả vốn từ các em đã có, vốn từ các em vừa vừa học trong các bài tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, có liên quan đến chủ đề. - Học sinh viết ra những từ ngữ có liên quan đến chủ đề mà các em vừa tìm được vào sơ đồ tư duy. - Học sinh đánh số thứ tự các từ ngữ mình vừa tìm được. - Học sinh nhìn bản đồ tư duy tự suy nghĩ, hồi tưởng về chủ đề và đặt câu cho từng từ ngữ theo thứ tự các em đánh dấu. Các em tự kiểm tra lại. - Giáo viên gọi một số học sinh nói về chủ đề, học sinh cùng giáo viên nhận xét, góp ý về câu, từ - Học sinh tập nói theo nhóm 3 – Đại diện các nhóm trình bày, học sinh cùng giáo viên nhận xét, góp ý, tuyên dương. b/ Ví dụ: Khi dạy đề bài: Nói về cảnh đẹp đất nước (TV3 -Tập 1- Tr.102) Khi xác định được yêu cầu đề bài nói về cảnh đẹp của một bãi biển Phan Thiết, giáo viên yêu cầu học sinh nghĩ về đề tài, xâu chuỗi tất cả vốn từ các em đã có, vốn từ các em vừa vừa học trong các bài tập đọc , chính tả, luyện từ và câu tập viết chủ điểm quê hương (tuần 10, 11, 12), môn mĩ thuật,. có liên quan đến cảnh đẹp Phan thiết. - Giáo viên và học sinh cùng vẽ bản đồ tư duy theo các câu hỏi gợi ý như sau: + Hình chụp cảnh biển ở đâu? + Màu sắc trong ảnh thế nào? + Nổi bật nhất trong bức ảnh là gì? + Cảnh trong ảnh gợi cho em những suy nghĩ gì? + .. Bãi biển Phan Thiết Màu xanh Bãi cát vàng Những ngôi nhà Cồn cát Ngạc nhiên và tự hào - Qua bản đồ tư duy này, học sinh sẽ dựa vào các dữ liệu tìm từ và đặt câu. - Học sinh nói trước lớp (Giáo viên chú ý rèn cho học sinh TBY đặt câu đơn giản theo các mẫu đã học còn học sinh khá giỏi nên hướng dẫn, động viên các em đặt câu có hình ảnh so sánh, nhân hóa, ) + Học sinh nói: Bức ảnh chụp cảnh bãi biển Phan Thiết. Trên bức ảnh toàn màu xanh. Cồn cát trắng nằm ở giữa bức ảnh. Bãi cát vàng trải dài ven bờ. Có những ngôi nhà lô nhô bên biển dưới chân núi. Em rất ngạc nhiên và tự hào vì đất nước ta rất đẹp. Giáo viên có thể cho học sinh mở rộng câu như sau: Giáo viên đưa câu: Bức ảnh chụp cảnh bãi biển Phan Thiết. Yêu cầu cả lớp đặt lại cho hay Bức ảnh chụp cảnh bãi biển Phan Thiết tuyệt đẹp. Tương tự: Trên bức ảnh toàn màu xanh. Bao trùm lên bức ảnh là màu xanh của biển, của cây cối, núi non và bầu trời. Thành bài : Bức ảnh chụp cảnh bãi biển Phan Thiết tuyệt đẹp. Bao trùm lên bức ảnh là màu xanh của biển, của cây cối, núi non và bầu trời. Bãi cát vàng trải dài ven bờ. Có những ngôi nhà sát nhau nằm bên kia bãi biển dưới chân núi. Em rất ngạc nhiên và tự hào vì đất nước ta rất đẹp. c/ Học sinh tìm được các từ có liên quan đến bức ảnh, ( các từ ngữ phục vụ cho đề bài) để hoàn thành bài nói dễ dàng hơn nên các em nói gãy gọn, bài nói đầy đủ tính chân thật. Lời kể và tả đúng với cảnh trong ảnh. Các em mạnh dạn, tự tin nhiều hơn trong việc kể về một đề tài. Nhất là học sinh học chậm vẫn có khả năng kể đơn giản về chủ đề với 5, 6 câu. Khi các em được rèn nói tốt, gãy gọn thì khi viết các em cũng viết thuận lợi hơn. Giải pháp 3: Rèn kĩ năng kể người thật việc thật. a/ Với đề bài dạng này yêu cầu vốn từ, khả năng tưởng tượng, sáng tạo của học sinh cao hơn nên học sinh khó khăn khi nói, viết vì vốn từ các em còn chưa nhiều, các em không nhớ rõ các đặt điểm, các công việc cần kể nên các em kể chưa thật, chưa kể đúng những gì đã có, đã xảy ra. Để giúp các em kể trung thực và chân thật hơn giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa hay bản đồ tư duy để giúp các em xác định rõ đặc điểm của người, sự vật và các hoạt động cần kể. b/ Ví dụ 1: khi dạy bài: Kể về người hàng xóm (TV3 - tập 1 – tr. 68), giáo viên thực hiện các bước như sau: - Cho học sinh đọc yêu cầu bài tập, giáo viên giúp học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài tập: Kể về người hàng xóm. - Học sinh tập trung suy nghĩ và chọn người hàng xóm mình định kể, viết ra bất kỳ những từ ngữ nào liên quan đến người hàng xóm: Người đó là ai? Làm công việc gì? Tình cảm của người hàng xóm đối với gia đình em? Tình cảm của em đối với người hàng xóm?.... Có thể vẽ như sau: Người hàng xóm bác Cúc, bác hai, chú. khoảng chừng 30-40, tuổi công nhân, nông dân, yêu mến, sang chơi. thương yêu, chỉ dẫn, kính yêu, biết ơn, - Giáo viên treo bảng phụ vẽ bản đồ tư duy lên bảng. Giáo viên và học sinh cùng tìm một số từ ngữ liên quan đến người hàng xóm. - Học sinh nhìn bản đồ tư duy, tự suy nghĩ và hồi tưởng để đặt câu. Học sinh ghi vào giấy nháp về người hàng xóm. Sắp xếp thứ tự các câu cho hợp lí. - Giáo viên gọi một vài em kể cho cả lớp nghe (Giáo viên chú ý rèn cho học sinh trung bình yếu đặt câu đơn giản theo các mẫu đã học còn học sinh khá giỏi nên hướng dẫn, động viên các em đặt câu có hình ảnh so sánh, nhân hóa, có bộ phận phụ) - Cho học sinh nhận xét lời kể của bạn. Giáo viên nhận xét chung. * Em Yến Nhi kể: Bác hàng xóm mà em quý mến là Bác Nam. Bác độ chừng bốn mươi tuổi. Nông dân là nghề của Bác. Em hay sang nhà Bác chơi. Bác luôn chỉ dẫn em điều hay lẽ phải. Em rất biết ơn Bác. Giáo viên cùng học sinh giúp em sửa lại câu cho hay hơn: Bác độ chừng bốn mươi tuổi. Năm nay Bác độ chừng bốn mươi tuổi. Nông dân là nghề của Bác. Bác là một nông dân giỏi. * Em Minh Thư kể: Nhà em có rất nhiều hàng xóm nhưng người mà em yêu quý nhất là cô Mai. Năm nay cô đã gần bốn mươi tuổi rồi mà nhìn cô vẫn trẻ. Cô bán hàng rất nhanh nhẹn và lúc nào cũng vui vẻ với khách hàng. Mỗi khi rảnh rỗi em thường sang nhà cô chơi. Cô luôn thương yêu và chỉ bảo em những điều hay lẽ phải. Cô thường mua quà cho em mỗi khi cô đi xa về. Em rất kính trọng và biết ơn cô. Giáo viên cùng học sinh giúp em sửa lại câu cho hay hơn: Năm nay cô đã gần bốn mươi tuổi rồi mà nhìn cô vẫn trẻ. Năm nay cô đã gần bốn mươi tuổi rồi mà nhìn cô vẫn trẻ so với tuổi bốn mươi của mình. Ví dụ 2: Khi kể về một buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ( tuần 28) Đây là bài thay thế cho bài kể lại trận thi đấu thể thao. Giáo viên cần giúp học sinh xác định rõ các hoạt động nào đã diễn ra ? và diễn ra như thế nào? theo mạng ý nghĩa hay có thể theo bản đồ tư duy như sau: Ngày nhớ về thầy cô,. Biết ơn thầy cô, chăm ngoan, hào hứng, cổ vũ,. cố hết sức, làm hết mình hát hay, múa dẻo,.. vỗ tay, say sưa,. theo nhóm, vẽ, cắt hoa bình chọn, tuyên dương , Buổi HĐGDNGLL Tìm hiểu ngày 20/11 Làm thiệp Múa hát Trò chơi Rất thích Từ đây học sinh chọn hoạt động em thích nhất và viết chi tiết về hoạt động đó: * Em Tiến thích hoạt động trò chơi, em làm như sau: Ai đi nhanh hơn Người tổ chức Các bạn chơi Em chơi Em rất thích Thầy Ánh hướng dẫn và tổ chức cho chúng em chơi: Ai đi nhanh hơn. Các bạn chơi và cổ vũ rất nhiệt tình. Em đi lượt thứ ba và em đã cố hết sức để đi cho thật nhanh. Em rất thích được tham gia các trò chơi vận đông như thế. Và em kể: Tháng 11 vừa qua chúng em được tham gia buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ làm em nhớ mãi. Chúng em có mặt ở hội trường đầy đủ và đúng giờ. Thầy cô tổ chức cho chúng em nhiều hoạt động như: Tìm hiểu ngày 20/11, vẽ tranh, múa hát, chơi vận động. Hoạt động mà em mong đợi nhất là trò chơi. Thầy Ánh hướng dẫn và tổ chức cho chúng em chơi: Ai đi nhanh hơn. Các bạn chơi và cổ vũ rất nhiệt tình. Em đi lượt thứ ba và em đã cố hết sức để đi cho thật nhanh. Em rất thích được tham gia các trò chơi vận đông như thế. Với câu: Hoạt động mà em mong đợi nhất là trò chơi. Giáo viên cùng lớp giúp em sửa lại cho hay hơn: Hoạt động mà em mong đợi nhất là hoạt động trò chơi. * Còn em Lộc kể như sau: Tháng nào em cũng có buổi học ngoài giờ. Trong buổi học em được chơi nhiều tiết mục. Tiết mục em thích nhất là làm thiệp tặng cô. Em vẽ đẹp nên em vẽ nhiều bông hoa trên tấm thiệp. Cuối buổi tổ em được tuyên dương vì hạng nhất. Em rất thích tham gia buổi sinh hoạt này. Với câu: Cuối buổi tổ em được tuyên dương vì hạng nhất. Giáo viên cùng lớp giúp em sửa lại cho hay hơn: Cuối buổi, tổ em hạng nhất và được tuyên dương. c/ Nhờ xác định rõ đặc điểm của người hàng xóm, buổi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động cần kể. Học sinh tìm từ, đặt câu thuận lợi hơn. Học sinh luyện nói, luyện viết với mẫu câu rộng hơn: câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, câu giàu hình ảnh. Luyện viết với số lượng câu văn tăng hơn (5-7 câu) kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc của các em cũng tiến bộ. Bài viết của các em hoàn chỉnh hơn nhiều. Điều đáng chú ý là học sinh bắt đầu hứng thú với việc sáng tác các câu văn hay, với tiết tập làm văn. VI. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Qua khảo sát lần 2 ở lớp 31( cuối học kì 2) kết quả môn tập làm văn so với lớp 32 thì các em tiến bộ rất nhiều hơn. Cụ thể như sau: Lớp Số lượng HS Giỏi Khá Trung bình Yếu 31 30 9 12 9 0 32 29 6 12 10 1 Qua việc thực hiện các biện pháp trên, đến cuối học kì II, các em có tiến bộ rõ rệt. Đa số các em đều có lòng ham muốn sáng tạo những câu văn hay, những bài văn hoàn chỉnh. Sự say mê học hỏi, nhiệt huyết với môn tập làm văn, những nét mặt hớn hở thay cho những gương mặt âu lo, chán nản của các em đã tạo nên hồn cho các tiết tập làm văn. Các em đã siêng năng vào thư viện để tìm đọc những bài văn những câu chuyện ngắn. Đây là khởi sắc đáng mừng. Học sinh nói, viết với mẫu câu rộng hơn: câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, câu giàu hình ảnh. Nói, viết được 5-7 câu có kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc của các em cũng tiến bộ. Bài viết của các em hoàn chỉnh hơn nhiều. Phụ huynh học sinh rất vui mừng, phấn khởi với kết quả này của lớp. V. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG - Đối với giáo viên: Cần tạo điều kiện tốt cho học sinh tham gia tích cực vào việc nghiên cứu, sáng tạo trong môn tập làm văn. Động viên các em đọc sách, tham khảo những câu văn hay, những hình ảnh đẹp,... để trau dồi khả năng dung từ đặt câu. Bên cạnh đó người giáo viên cũng cố gắng rèn cho mình khả năng nói gãy gọn, câu phong phú,... - Đối với Tổ chuyên môn của nhà trường cần có các buổi sinh hoạt chuyên môn để tổ chức các chuyên đề tập làm văn để giáo viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Trên đây là những kinh nghiệm đã được áp dụng tại trường và đã có kết quả tiến bộ khả quan. Rất mong được nhận sự giúp đỡ, góp ý bổ sung của các cấp quản lý giáo dục và giáo viên đồng nghiệp để bản sáng kiến của bản thân có được những kinh nghiệm bổ ích có thể áp dụng cho các năm học sau. VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách Tiếng Việt 3 tập 1, 2 – Bộ GD - ĐT – Nhà xuất bản giáo dục – 2004; 2. Sách Tiếng Việt 3 tập 1, 2 – Bộ GD - ĐT – Nhà xuất bản giáo dục – 2004; 3. Để dạy học tốt Tiếng Việt 3 – PGS.TS. Nguyễn Trí (chủ biên) TS. Dương Thị Hương-TH.S.Thảo Nguyên - Nhà xuất bản giáo dục – 2007; 4. Trò chơi thực hành Tiếng Việt lớp 3 tập 1, 2 – Vũ Khắc Tuân – Nhà xuất bản giáo dục – 2007; 5. . Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học – Bộ GD - ĐT – Nhà xuất bản giáo dục – 2011; Người thực hiện
File đính kèm:
- SKKN_MOT_SO_BIEN_PHAP_REN_TAP_LAM_VAN_KHOI_3.doc