Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy tập đọc cho học sinh lớp 2

Trong chương trình tiểu học môn Tiếng Việt giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là môn học có chức năng “kép”(vừa là môn công cụ, vừa là môn khoa học). Tiếng Việt là môn chiếm thời lượng lớn nhất . Riêng phân môn tập đọc lại chiếm 3/10 số tiết trong phân môn Tiengs Việt. Các bài tập đọc trong sách giáo khoa là nguồn ngữ liệu sinh động giúp học sinh tiếp xúc với vẻ đẹp Tiếng Việt trong hàng trăm tình huống giao tiếp khác nhau, từ đó học sinh được học và cách biết dùng Tiếng Việt chính xác tinh tế – biểu cảm. Đây là các bài học tươi nguyên sự sống góp phần rèn luyện sự lĩnh hội và sử dụng Tiếng Việt cho các em. Chương trình Tiểu học đã xác định mục tiêu số 1 của môn Tiếng Việt là: “Hình thành và phát triển ở các em kỹ năng sử dụng Tiếng Việt với những yêu cầu cụ thể về trình độ đọc, viết, nghe ở từng lớp và toàn cấp học. Nhiệm vụ chủ yếu của phân môn Tập đọc là rèn cho học sinh các kỹ năng đọc, nghe, nói. Thông qua phân môn Tập đọc mà trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn học văn và phát triển tư duy, mở rộng vốn hiểu biết của học sinh về cuộc sống. Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm trong sáng, yêu cái đẹp, cái thiện, có thái độ ứng xử tốt trong cuộc sống, yêu tiếng Việt. Bên cạnh đó theo quan điểm tích hợp các bài tập đọc còn có nhiệm vụ cung cấp ngữ liệu để hình thành và phát triển kỹ năng khác được quy định trong chương trình. Các bài tập đọc đã trở thành nguyên liệu để các phân môn khác như: Tập làm văn – Kể chuyện – Luyện từ và câu khai thác. Chính vì vậy việc dạy phân môn Tập đọc chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Nó làm nòng cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình Tiểu học nói chung và môn Tiếng Việt nói riêng.

doc11 trang | Chia sẻ: sangkien | Lượt xem: 13863 | Lượt tải: 4Download
Bạn đang xem tài liệu "Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy tập đọc cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 toàn bài:
	Việc đọc mẫu của giáo viên là cần thiết vì muốn học sinh đọc đúng giáo viên phải giới thiệu mẫu đúng. Lời đọc mẫu của giáo viên nhằm định hướng cho học sinh đọc đồng thời giúp học sinh nhận thức đúng nội dung bài học. Nếu là văn bản nghệ thuật còn có tác dụng khơi gợi hứng thú và sự tưởng tượng của học sinh – giúp các em dễ đi vào thế giới của tác giả, tác phẩm dưới một ánh sáng hấp dẫn hơn. Với văn bản nghệ thuật đọc mẫu của giáo viên là đọc diễn cảm. Còn văn bản thông thường đọc mẫu là đọc đúng. Yêu cầu đọc diễn cảm chưa đặt ra với học sinh lớp 2, nhưng nếu giáo viên biết khích lệ, động viên học sinh sẽ bắt chước thầy cô. Giáo viên đọc mẫu tốt, chuẩn mực thì không có gì đáng ngại nếu như học sinh bắt chước thầy cô. 
	 b) Đọc mẫu câu, đoạn:
	Nhằm hướng dẫn, gợi ý, tạo tình huống để học sinh nhận xét tự tìm ra cách đọc.
	Ví dụ: Khi đọc bài: Ông Mạnh thắng Thần Gió giáo viên đọc đoạn 2 cho học sinh so sánh với cách đọc đoạn 1 yêu cầu học sinh nói đoạn 1: Đọc với giọng kể, chậm rãi.
Đoạn 2: Nhịp nhanh hơn, nhấn mạnh những từ tả sự ngạo nghễ của thần gió, sự tức giận của ông Mạnh như: “Xô, ngã lăn quay, lồm cồm, quật, ngạo nghễ”.
	 c) Đọc từ, cụm từ : Nhằm giúp học sinh sửa sai do phát âm, rèn cách đọc, nâng cao ý thức viết đúng cho học sinh.
 2.2. Cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ, ngữ:
	 a) Cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? 
	Nhiều ý kiến cho rằng, việc cho học sinh đọc từ chú giải trong sách giáo khoa là không cần thiết. Giáo viên chỉ cần nêu câu hỏi nếu học sinh giải thích được nghĩa của từ là xem như học sinh đã được đọc phần chú giải? Vậy nếu như những bài tập đọc như: “Voi nhà” Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 có 6 từ chú giải mà giáo viên cứ đặt câu hỏi lôi 6 từ ra để học sinh trả lời thì thời gian đâu để tổ chức hoạt động khác? Chuyên đề 25 tháng 3 năm 2002 đã nói rõ: “Cần cho học sinh đọc chú giải trong giờ tập đọc”. Tạp chí thế giới trong ta nêu quan niệm: Chú giải là một bộ phận cần đọc. Đọc để ghi nhớ từ mới là tăng vốn từ cho học sinh. Đọc để nắm được cách giải nghĩa từ khi cần. Song nên tổ chức cho học sinh đọc từ chú giải lúc nào cho hợp lý? Theo tôi phần chú giải cần tổ chức cho học sinh đọc thầm, trong khi học sinh đọc thầm nối tiếp nhau từng đoạn trong nhóm là hợp lý nhất. Sau đó học sinh lại đọc thành tiếng theo nhóm trước lớp. Có thể học sinh đọc chú giải mà vẫn chưa hiểu nghĩa của từ giáo viên 
vận dụng cơ hội này để giảng từ, nhằm mở rộng vốn từ cho học sinh.
	Đến bước tìm hiểu bài giáo viên vẫn còn thời cơ để kiểm tra, cũng cố nghĩa của từ (nếu cần), bằng cách đặt câu hỏi, tìm hiểu nội dung thông qua đó rút từ chìa khoá để giảng cho học sinh. Cách kiểm tra có thể yêu cầu học sinh nhắc lại nghĩa của từ, tìm từ gần nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc đặt câu với từ cần giải nghĩa. Chính ở bước này, những từ khó có thể ở địa phương các em chưa hiểu, hoặc từ chìa khoá giáo viên có thể kết hợp giảng để học sinh hiểu nội dung.
 b) Xác định từ ngữ cần giảng trong bài như thế nào cho hợp lý:
	Đây là điều mà chúng tôi đưa ra bàn cãi rất nhiều. Nếu như giáo viên không biết xác định từ ngữ cần giảng thì tiết học sẽ dàn trải, thiếu trọng tâm, chiếm nhiều thời gian mà nhiệm vụ của tiết học vẫn không hoàn thành.
	Theo tôi các từ ngữ cần giảng trong bài tập đọc là:
	+ Từ ngữ được chú giải trong sách giáo khoa.
	+ Từ ngữ phổ thông mà học sinh chưa quen.
	+ Từ ngữ đóng vai trò quan trọng là “chìa khoá” để mở nội dung bài học.
	Trong một bài tập đọc cần xác định từ cần giảng và cách xác định từ là điều mà nhiều giáo viên còn lúng túng. Giảng ít từ khi thấy còn thiếu, giảng nhiều từ dẫn đến tham nói mất thời gian. Việc rút từ để tìm hiểu nội dung bài tập đọc là việc khó nhất trong giờ tập đọc. Theo tôi có 2 căn cứ giúp giáo viên rút từ chính xác, trọng tâm đó là: 
	- Căn cứ vào nội dung cần truyền thụ chính là mục tiêu bài dạy.
	- Căn cứ tên bài (tiêu đề bài tập đọc). Giáo viên cần lưu ý việc giảng từ khó và rút từ chìa khoá hoàn toàn khác nhau. Từ khó hiểu chỉ yêu cầu học sinh đọc chú giải để hiểu nghĩa của từ. Còn từ chìa khoá là từ yêu cầu học sinh hiểu để nắm nội dung bài. Khi từ khó trùng với từ chìa khoá giáo viên ghi ở phần “tìm hiểu bài” (phần ghi bảng).
	Có 6 cách giải nghĩa từ:
	+ Đặt câu với từ cần giải nghĩa.
	+ Tìm từ đồng nghĩa.
	+ Từ trái nghĩa.
	+ Miêu tả sự vật,đặc điểm được biểu thị ở từ cần giải nghĩa.
	+ Tách từ để miêu tả.
	+ Sử dụng đồ dùng dạy hoc( vật thật, tranh ảnh)
Cách tìm hiểu từ chủ yếu là phải đặt trong ngữ cảnh. Cần giới hạn việc giải nghĩa từ trong phạm vi nghĩa cụ thể bài đọc giải nghĩa, đơn giản với học sinh lớp 2 – tránh dài dòng, giải nghĩa cồng kềnh quá tải làm mất thời gian luyện đọc của học sinh.
Ví dụ: Bài tập đọc: “Sơn Tinh, Thuỷ Tinh”
Phần chú giải có 7 từ. Đó là: cầu hôn, lễ vật, ván, nộp, ngà, cựa, hồng mao.	Các từ trên là từ khó hiểu nghĩa đối với các em song không phải là từ chìa khoá. Giáo viên cần căn cứ vào nội dung. Câu chuyện nhằm giải thích nạn lũ lụt ở nước ta là do Thuỷ Tinh ghen tức Sơn Tinh gây ra và nói lên tinh thần chống lũ của nhân dân nên từ chìa khoá ở đây là: đùng đùng nổi giận, cuồn cuộn, đuối sức. Việc rút từ chìa khoá của giáo viên không yêu cầu từ nào cũng 
phải giải nghĩa mà chủ yếu là để học sinh hiểu được nội dung bài.
 2.3. Rèn kỹ năng đọc đúng chỗ ngắt giọng cho học sinh:
	Có 2 kiểu ngắt giọng: Ngắt giọng logic và ngắt giọng biểu cảm.
	Ngắt giọng logic là những chỗ dùng để tách nhóm trong câu. Ngắt giọng logic phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ trong câu.
	Ngắt giọng biểu cảm đối lập với ngắt giọng logic đó là những chỗ nghỉ lâu hơn bình thường hoặc chỗ nghỉ không do logic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc nhằm tạo ra ấn tượng về cảm xúc.
 a) Kỹ năng ngắt giọng logic:
Khi đọc một văn bản nếu gặp dấu câu ta cần phải ngắt, nghỉ giáo viên cần hướng dẫn học sinh sau dấu chấm, dấu hai chấm, chấm cảm ta cần phải nghỉ. Song sau dấu chấm xuống dòng cần nghỉ lâu hơn sau dấu chấm. Sau dấu phẩy ta phải ngắt giọng, sau dấu phẩy có lúc cũng phải ngắt giọng khác nhau. Dấu phẩy ngăn cách giữa vế và câu ngắt lâu hơn, dấu phẩy sau trạng ngữ. Khi đọc một số bài văn xuôi có những câu dài, cấu trúc ngữ pháp phức tạp học sinh thường ngắt tuỳ tiện như sau :
Ví dụ 1 :Trong bài : Sơn Tinh- Thủy Tinh ( sách Tiếng Việt 2)
Học sinh đọc : Từ đó/ năm nào Thuỷ Tinh cũng dâng nước đánh/ Sơn Tinh gây lũ lụt khắp nơi/ nhưng lần nào Thuỷ Tinh cũng chịu thua. Học sinh đã tách Sơn Tinh ra khỏi động từ “đánh” làm người nghe hiêủ sai ý nghĩa của câu văn .
Ví dụ 2: Khi đọc một số câu thơ do không chú ý đến quan hệ ngữ pháp mà chỉ chú ý đến sự cân đối về âm thanh mà học sinh đã ngắt nhịp sai.
Anh Lừa / lo chuyện / gạo tiền.
Giấy tờ thỏ chạy/ giao liên tài tình.
Nếu học sinh ngắt nhịp như trên đã tách cụm từ thỏ chạy ra khỏi cụm “giao liên tài tình” làm người nghe tưởng như chú giao liên tài tình chứ không phải “thỏ chạy giao liên tài tình” để khắc phục tình trạng đó với lớp 2 thì việc luyện đọc, đọc mẫu của giáo viên là cần thiết. Ngoài ra giáo viên cũng cần giảng để học sinh hiểu nội dung câu văn, câu thơ, quan hệ ngữ pháp để học sinh điều chỉnh nếu như học sinh đọc sai.
 b) Ngắt giọng biểu cảm: Dạy cho học sinh biết cách ngắt giọng logic là yêu cầu quan trọng với học sinh lớp 2 giáo viên có thể dạy cho học sinh ngắt giọng biểu cảm ở một số bài thơ đây là phương tiện tác động người nghe. Ngắt giọng logic thiên về trí tuệ còn ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc.
Ví dụ: Khi đọc 2 câu thơ cuối của bài tập đọc “Thư trung thu” (sách Tiếng Việt 2 tập 2 trang 10). Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc. 
Các cháu/ hãy xứng đáng
Cháu Bác Hồ Chí Minh.
Ngắt nhịp như thế người nghe sẽ thấy được tình cảm yêu thương sâu sắc của Bác và đó chính là lời động viên khuyến khích cũng là lời khuyên của Bác đối với thiếu nhi. Qua đó để thấy được tình yêu bao la của Người đối với các em.
Tóm lại: Đọc đúng chỗ ngắt giọng và ngắt giọng hay là yêu cầu, mục đích của việc dạy tập đọc là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho học sinh.
 Thực tế giáo viên chúng ta chưa am hiểu sâu sắc về lý luận văn học tuy nhiên nếu giáo viên đầu tư, chuẩn bị bài kỹ lưỡng, đọc bài nhiều lần để tìm cách đọc đúng, chuẩn xác ,cách đọc hay nhất để có mẫu tốt cho học sinh học tập. Muốn vậy theo tôi giáo viên cần:
+ Nắm vững nội dung bài, tính cách nhân vật, giọng điệu của câu chuỵên, bài tập đọc, bài thơ.
+ Nắm được cốt truyện – nội dung các đoạn truyện.
+ Nắm thể loại thơ để chọn cách đọc, giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng, ngọt ngào hay chua ngoa.
+ Nắm được cấu trúc ngữ pháp của câu thơ, câu văn.
 2.4. Sử dụng trò chơi học tập:
	Đối với trẻ em trò chơi đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt, bước vào nhà trường, trẻ em làm quen với hoạt động học tập với những yêu cầu cao hơn. Chúng ta – những nhà sư phạm thấy rằng nếu biết sử dụng kết hợp hình thức trò chơi trong học tập sẽ đạt hiệu quả cao. Chính vì vậy trò chơi được sử dụng trong các tiết dạy học có tác dụng tích cực nhằm làm thay đổi hình thức học tập. Thông qua trò chơi không khí lớp học trở nên thoải mái, dễ chịu .Việc tiếp thu kiến thức của học sinh trở nên tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Tuy nhiên giáo viên cũng cần biết tổ chức trò chơi như thế nào cho hợp lý, không nên quá lạm dụng trò chơi, biến tiết học thành một hoạt động vui chơi vô bổ.
	Trò chơi học tập cần có yêu cầu khác với trò chơi thông thường.
	+ Chơi để đạt mục đích học tập nào? Ngoài giải trí còn có mục đích cũng cố tri thức, kỹ năng học tập.
	+ Nội dung học tập phải gắn với các tri thức và kỹ năng của một nhóm học hoặc một lĩnh vực tri thức, kỹ năng nào đó. Nói cách khác khi sáng tạo ra trò chơi thì người giáo viên cần dựa vào các kiến thức và kỹ năng của môn học. 
	+ Trò chơi học tập cần có luật chơi rõ ràng đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện không đòi hỏi thời gian dài. Trò chơi học tập thường diễn ra thời gian ngắn, phù hợp với trình độ học sinh.
Sau đây là một số trò chơi mà bản thân tôi thường sử dụng trong tiết dạy tập đọc:
 	Ví dụ: Khi dạy các bài tập đọc đầu tuần như bài: “Tôm Càng và Cá Con” Tôi tổ chức cho học sinh trò chơi “Thi đọc truyện phân vai” học sinh được thảo luận theo nhóm 4 – mỗi nhóm cử 3 em, một em được chọn đọc lời người dẫn truyện, một em đọc lời Tôm Càng, một em đọc lời của Cá Con. Sau khi học sinh đọc trong nhóm, giáo viên tổ chức cho từng nhóm tham gia thi đọc truyện phân vai. Giáo viên dành thời gian cho 2, 3 nhóm thi. Giáo viên cùng ban khảo nhận xét đánh giá chung và chọn nhóm đọc tốt để biểu dương.(Ban giám khảo do học sinh bầu ra)
	Đối với những tiết ôn tập ở từng giai đoạn ôn giữa kỳ I, kỳ II, cuối kỳ I, kỳ II tôi thường tổ chức trò chơi “nghe đọc đoạn, đoán tên bài”.
	Hai nhóm tham gia chơi ngồi đối diện nhau. Cử nhóm trưởng điều hành hoạt động chung cả nhóm. Bắt thăm hoặc “oẳn tù tì” để chọn nhóm đọc trước. Nhóm đọc trước (A) được mở sách giáo khoa để lựa chọn đoạn văn (trong số các câu chuyện kể do giáo viên nêu ra, nhóm A cử người đọc đoạn cho nhóm B đoán tên chuyện, đoán tên bài tập đọc sau đó nhóm B đọc nhóm A đoán tên câu chuyện).
	Khi đoán tên bài tập đọc hoặc tên chuyện cả nhóm không được mở sách giáo khoa.
	Hai nhóm tham gia chơi đều được tính điểm so sánh – nếu tổ chức cho cả 4 nhóm cùng chơi – khi kết thúc giáo viên chọn nhóm giỏi nhất để khen ngợi. Nếu điểm bằng nhau, nhóm nào đọc rõ ràng, rành mạch chính xác hơn là nhóm đó thắng cuộc.
	Ngoài ra với cách tổ chức trò chơi ở tập đọc giáo viên có thể tổ chức một số trò chơi như : Thi đọc đồng thanh ; biết một câu, đọc cả đoạn ; tìm nhanh- đọc đúng ; nhớ nhanh, đọc đúng ; ghép các dòng thơ thành bài ; đọc thơ truyền điện,...
Qua thực tế giảng dạy việc tổ chức trò chơi học tập đã tạo hứng thú và thu hút nhiều học sinh tham gia. Nếu biết sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, các trò chơi học tập có tác dụng tích cực tạo chất lượng cao cho bài học. Chúng ta cũng nên tránh tổ chức trò chơi lặp đi lặp lại trong tiết không đủ hấp dẫn để thu hút sự chú ý của học sinh. Theo tôi với các tiết tập đọc chỉ nên sử dụng trò chơi vào cuối tiết học, khi xuất hiện yêu cầu cũng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Tuỳ theo tiết học giáo viên có thể vận dụng linh hoạt tổ chức trò chơi cho từng phần bài dạy của mình (nếu thấy cần thiết) thì hiệu quả giờ dạy đạt chất lượng cao.
 3. Những kết quả đạt được
	Sau một thời gian trực tiếp giảng dạy, với tất cả sự tâm huyết của mình bản thân tôi đã tìm tòi, tự học, tự đúc rút kinh nghiệm dần dần khắc phục các tồn tại của bản thân nên đã thu được một số kết quả như sau:
 3.1- Về giáo viên: 
Tôi đã thâm nhập và sử dụng thành thạo, linh hoạt quy trình lên lớp một tiết tập đọc biết kết hợp nhuần nhuyễn việc đọc câu với luyện đọc từ khó, tiếng khó chữa lỗi cho học sinh triệt để. Việc giải nghĩa từ khó và rút từ chìa khoá trong giảng dạy đã thành thạo, biết kết hợp để ghi bảng cho hợp lý. Triệt để khai thác các câu hỏi trong sách giáo khoa, chỉ đặt câu hỏi phụ khi cần thiết để dẫn dắt học sinh trả lời câu hỏi chính. Lối tham giảng, nói nhiều đã được gột bỏ dần. Bản thân đã mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm, trò chơi học tập nhờ vậy mà tiết dạy ngày càng đạt hiệu quả cao.
 2- Về học sinh:
	a) Kỹ năng đọc: Đa số học sinh phát âm đúng, biết đọc liền mạch từng câu, đoạn, biết ngắt nghĩ sau các dấu câu, giữa các cụm từ dài, giữa các mục, các phần trong bài học. 92,7% học sinh đọc tốc độ 60tiếng/phút. Biết đọc thầm để hiểu nội dung và trả lời câu hỏi do giáo viên nêu ra. 30% học sinh biết rút ra nội dung sau mỗi bài tập đọc. 
	b) Kỹ năng nghe: Sau khi nghe giáo viên đọc mẫu học sinh bắt chước, có nhiều em đọc giống giọng đọc của giáo viên. Thậm chí có 1 đến 2 học sinh còn đọc hay hơn. Biết nghe bạn đọc và nhận xét cách đọc của bạn. Không khí lớp học sôi nổi. Mỗi lần giáo viên đặt câu hỏi tìm hiểu bài thường có 60-70% số 
học sinh giơ tay phát biểu.
	c) Kỹ năng nói: 68% học sinh nói dõng dạc, nói có đầu có cuối khi được giáo viên hỏi. Lời nhận xét rõ ràng, các em đã có thói quen một số thao tác cơ bản như: Phân tích, phán đoán, so sánh, lựa chọn... Điều đáng nói ở đây là các em hứng thú học tập và tự giác tham gia vào các hoạt động. 
Kết quả khảo sát vào giữa học kỳ II của lớp cũng như của khối như sau:
TS 
HS
Đọc diễn cảm
Đạt chuẩn
Còn chậm
Đọc đánh vần
31
SL
%6
SL
%28
SL
%
SL
%0
PHẦN IV: KẾT LUẬN
Phân môn tập đọc chiếm vị trí hết sức quan trọng trong chương trình tiểu học. Đó là phân môn nòng cốt xuyên suốt toàn bộ chương trình nói chung và môn Tiếng việt nói riêng. Thực tế cho thấy rằng nếu như học sinh đọc diễn cảm, hiểu nội dung bài tập đọc, các em sẽ vận dụng và làm bài văn hay, diễn đạt gãy gọn khi nói, khi viết trong việc học các môn khác của chương trình. Để dạy tốt phân môn tập đọc trong quá trình giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm như sau:
 1- Bài học kinh nghiệm:
 a. Ngay từ đầu năm học giáo viên phải ổn định nề nếp, thói quen cầm sách – tập học sinh cách trả lời câu hỏi và điều tra, khảo sát chất lượng học tập của học sinh để có hướng giảng dạy phù hợp với từng đối tượng.
 b. Giáo viên cần bám sát chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, nhiệm vụ của phân môn tập đọc đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế của địa 
phương, của lớp mình phụ trách để chọn những hình thức tổ chức và phương pháp dạy học thích hợp.
 c. Phải tự học, tự bồi dưỡng về lý luận văn học – Khi giáo viên có kiến thức về lí luận văn học sẽ có năng lực cảm thụ bài văn, bài thơ nhờ đó giáo viên mới có giọng đọc mẫu chuẩn xác.
 d. Việc chuẩn bị bài của giáo viên chiếm vị trí quan trọng. Trong khi chuẩn bị bài giáo viên mới xác định nội dung, mục tiêu cần truyền thụ, có khả năng lựa chọn rút từ chính xác đồng thời nghiên cứu hệ thống câu hỏi sách giáo khoa. Dựa vào trình độ của học sinh lớp mình để chuẩn bị thêm các câu hỏi gợi mở và dự kiến các tình huống xảy ra. Đặc điểm là chuẩn bị bài giảng ngắn gọn, súc tích.
 đ. Mục tiêu chính của Tập đọc lớp 2 là rèn kỹ năng đọc. Giáo viên cố gắng tạo mọi điều kiện để các em được đọc. Việc tìm hiểu nội dung bài chủ yếu là dựa vào hệ thống câu hỏi ở sách giáo khoa. Giải nghĩa từ phải đặt trong văn cảnh- giáo viên không nên tham lam, dài dòng, mất thời gian.
 e. Chất lượng sinh hoạt của tổ, cụm chuyên môn tốt sẽ có tác động tích cực làm tiền đề quan trọng để giúp giáo viên học hỏi - đúc rút kinh nghiệm giảng dạy để chất lượng trên lớp ngày càng tốt hơn.
 r. Trong tiết tập đọc giáo viên cần phân loại đối tượng – có yêu cầu riêng với từng đối tượng học sinh. Với những học sinh đọc chưa đạt chuẩn về tốc độ giáo viên cần ưu tiên để các em được đọc nhiều. Giáo viên cần linh hoạt khi lên lớp. Lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ chức cho học sinh được “chơi mà học” nhằm kích thích, khơi gợi sự hứng thú của các em.
 2- Đề xuất:
 Phòng giáo dục nên thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên môn theo từng cụm trường hoặc cho các tổ trưởng chuyên môn trong toàn huyện để chung tôi có điều kiện trao đổi, học hỏi, đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy các môn theo chương trình thay sách.
	Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã đúc rút được. Rất mong được cấp trên và bạn đọc góp ý kiến để bản thân tôi thực hiện có hiệu quả tốt hơn giờ Tập đọc trên lớp.
 	 Quảng Thuận ngày 20/3/2006
 	 Người viết
 Cao Thị Hải Vân 

File đính kèm:

  • docSang_kien_kinh_nghiem_tap_doc_l2.doc
Sáng Kiến Liên Quan