Một số biện pháp dạy Tập đọc nhạc lớp 4 - 5
1- Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm
Âm nhạc là một nhu cầu trong đời sống tinh thần của trẻ. Trẻ em được tham gia ca hát, được tự hoạt động để nhận thức thế giới xung quanh và bản thân mình. Những hình tượng âm thanh của bài hát, bản nhạc tác động vào cảm xúc của các em giúp cho việc phát triển trí tuệ, óc tưởng tượng sáng tạo và có tác dụng giáo dục đạo đức rất tốt.
Trong trường tiểu học, học môn âm nhạc là một quá trình liên tục rèn luyện học hát tập thể, phát triển khả năng nghe nhạc. Thông qua việc học âm nhạc ở giai đoạn đầu chủ yếu là học hát, tình cảm và trí tuệ của các em được giáo dục, bồi dưỡng phát triển theo năm tháng. Năng lực cảm thụ âm nhạc của các em được dần dần nâng lên là cơ sở để hình thành một trình độ văn hoá âm nhạc theo mục tiêu của môn học. Vì vậy, giáo viên phải nắm bắt được mục tiêu dạy - học để từ đó lên kế hoạch bài giảng cho phù hợp với yêu cầu môn học.
Việc giáo dục một con người toàn diện không chỉ giáo dục cho họ có đạo đức tốt, có trình độ hiểu biết, nắm chắc các kiến thức khoa học và xã hội mà còn phải giáo dục cho họ biết nhìn nhận, phân biệt, biết thưởng thức cái đẹp và biết làm đẹp cho cuộc sống nói chung, cuộc sống của mình nói riêng.Vì vậy, có thể nói rằng giáo dục thẩm mỹ cho con người là không thể thiếu được.
giai đoạn động viên khích lệ các em học tập. Phải thường xuyên động viên học sinh, việc động viên giúp cho các em chưa thể hiện bài tập đọc nhạc tốt sẽ cố gắng học tập hơn. Ví dụ : - Bài TĐN được viết ở thể loại nhịp gì ? - Về trường độ trong bài có những hình nốt gì ? - Về cao độ trong bài có những tên nốt gì ? - Ngoài ra trong bài còn có sử dụng những dấu hiệu gì khác (đã học)? - Xác định bài TĐN viết ở thang 5 âm hay thang 7 âm, ở điệu thức trưởng hay điệu thức thứ. Từ đó, cho học sinh luyện đọc khởi động thang âm có sử dụng trong bài để tạo những âm tựa để học sinh dễ dàng khi đọc nhạc: + Thang 5 âm Đô Trưởng : Đô – Rê – Mi – Son – La – ( Đố ). + Thang 7 âm Đô Trưởng : Đô– Rê– Mi – Pha – Son– La – Si – (Đố). + Thang 5 âm La Thứ : La – Đô – Rê – Mi – Son – (Lá ). + Thang 7 âm La Thứ : La –Si –Đô – Rê –Mi – Pha –Son –(Lá). - Giáo viên đàn giai điệu bài TĐN sắp đọc cho học sinh nghe tư 2-3 lần. Phân chia bài TĐN thành những câu nhạc hoặc những tiết nhạc nhỏ và đàn giai điệu từ 3-4 lần. Sau đó cho học sinh đọc theo đàn và ghép lại từng câu theo lối móc xích cho đến khi hết bài. - Sau khi học sinh đọc đúng giai điệu cả bài, tổ chức cho học sinh đọc nhạc kết hợp với đánh nhịp và ghép lời ca có trong bài để hát. - Tổ chức cho học sinh đọc nhạc thi với nhau giữa các tổ, nhóm hoặc cá nhân. Từ đó giáo viên nhận xét và giúp học sinh sửa chữa những chỗ chưa thể hiện được (nếu có ). - Tổ chức trò chơi qua bài TĐN như :Bài TĐN có 4 câu nhạc thì ta đặt mỗi câu bằng một nguyên âm và yêu cầu học sinh ngân nguyên âm đó theo giai điệu: Câu 1: nguyên âm ( a ); Câu 2: nguyên âm ( i ); Câu 3: nguyên âm ( u ); Câu 4: nguyên âm ( o )... chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm đọc ngân một câu ứng với một nguyên âm. Giáo viên nhận xét việc đọc ngân theo nguyên âm giữa các nhóm, nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, hoặc giáo viên có thể tổ chức trò chơi luyện tai nghe: Giáo viên đàn giai điệu một câu nhạc bất kì trong bài , yêu cầu học sinh đoán ra và đọc lại câu nhạc đó. Có thể gõ tiết tấu cho học sinh nhận ra tiết tấu đó giống tiết tấu câu nhạc nào trong bài TĐN vừa học. Giải pháp 5: Xây dựng phương pháp ghi chép nhạc: Ghi chép lại các bài nhạc đã học giúp các em nắm chắc vị trí các nốt trên khuông cũng như nhớ các hình nốt, ký hiệu đã học. Nếu như tập đọc nhạc mang nhiều tính chất trừu tượng vì nó còn phụ thuộc vào tai nghe của từng em thì ghi chép nhạc mang tính cụ thể hơn, hiện thực hơn. Do vậy, việc hướng dẫn các em ghi chép đơn giản và dễ thực hiện. Tuy nhiên, đơn giản không có nghĩa là không quan trọng, ngược lại tập ghi chép nhạc là sự đúc kết giữa 2 phân môn tập hát và tập đọc nhạc để khắc sâu kiến thức. Do đó đòi hỏi phải có sự chính xác tuyệt đối từng vị trí nốt trên khuông nhạc, quan trọng hơn nữa là qua chép nhạc các em phải nhớ được tên các nốt nhạc là gì, nằm ở vị trí nào, cách viết các hình nốt ra sao, các hình nốt đó có ý nghĩa gì và phải thể hiện thế nào. Việc ghi chép nhạc còn giúp các em ghi nhớ các ký hiệu khác về âm nhạc. Các kiến thức đó hổ trợ cho việc tập đọc nhạc hoặc thực hiện các bài hát theo yêu cầu của tác giả như: dấu luyến, dấu chấm dôi, dấu quay lại, dấu hồi đoạn, dấu lặng đen, lặng đơn, ngắt câu Việc ghi chép nhạc là công việc đòi hỏi phải hướng dẫn các em thực hiện một cách thường xuyên. Tuy nhiên không nhất thiết lúc nào cũng phải thực hiện ngay tại lớp vì như thế sẽ mất rất nhiều thời gian. Ở lớp chỉ hướng dẫn các em cách thực hiện việc ghi chép, nhận ra cách trình bày thế nào cho đúng, cho đẹp còn việc ghi chép lại bài nên cho các em thực hiện ở nhà. Giải pháp6: Củng cố, kiểm tra Tuy quy trình dạy học giống với việc dạy hát các bài hát thiếu nhi và nước ngoài, nhưng kĩ thuật dạy tập đọc nhạc những bài hát có nhiều khác biệt. Sự khác biệt này mới tạo nên những phong cách, màu sắc khác nhau của mỗi bài hát. Về áp dụng những kĩ thuật mới trong dạy hát tập đọc nhạc, ở bước giới thiệu bài hát, tôi thường dùng bản đồ, tranh ảnh để giới thiệu vị trí địa lí và đời sống của đồng bào các dân tộc. Bước này rất hấp dẫn học sinh và mang lại cho các em nhiều kiến thức bổ ích. Trong bước nghe hát mẫu, tôi thường sưu tầm băng đĩa hình để cho học sinh xem bài hát trên băng đĩa hình, để các em biết về trang phục và động tác múa hát đặc trưng của từng vùng miền. Vì vậy, khi dạy các em trình bày bài hát kết hợp vận động, các em đã thể hiện được những động tác múa hát đặc trưng của mỗi dân tộc thêm tự nhiên và hiệu quả hơn. Trong bước đọc lời ca, tôi thường giải thích những từ khó trong bài hát, ví dụ từ Xoè hoa trong bài cùng tên có nghĩa là múa hoa. Bài Gà gáy, từ té le là một cách cảm nhận của đồng bào Cống về tiếng gáy te te của chú gà trống choai. Bài Bắc kim thang, từ kèo là thanh gỗ hoặc tre nằm trên cột nhà, làm khung đỡ trần nhà; té nghĩa là ngã; làm chi nghĩa là làm gì; le le nghĩa là con vịt trời; bìm bịp là một loài chim. BàiCò lả, từ phủ là chỉ đơn vị hành chính ngày xưa, tương đương như quận huyện ngày nay. Việc hiểu ý nghĩa những từ đó giúp học sinh thấy gần gũi với bài hát hơn. Trong bước khởi động giọng, trước đây tôi thường sử dụng gam trưởng hoặc gam thứ của âm nhạc phương Tây cho học sinh khởi động giọng, ví dụ: Tuy nhiên, mỗi bài dân ca của Việt Nam có màu sắc riêng, và thường viết bằng thang âm ngũ cung, như Pha Son La Đô Rê (Quê hương tươi đẹp), Đô Rê Mi Son La (Lí cây xanh), vì thế việc sử dụng gam trưởng, thứ của phương Tây là không phù hợp. Tôi thường sử dụng chính thang âm của từng bài làm mẫu âm khởi động. Thậm chí có bài tôi đã dùng giai điệu của bài hát làm mẫu để học sinh khởi động giọng, ví dụ bàiChim sáo tôi đã sử dụng câu hát cuối là mẫu âm: Việc sử dụng mẫu âm này vừa giúp học sinh bước đầu được nghe âm hưởng của bài hát, ngoài ra còn giúp các em được tiếp xúc với giai điệu để học bài hát dễ dàng hơn. Khi dạy bài hát dân ca, việc chia các câu hát trong bài dân ca phải hết sức linh hoạt, có thể có câu hát dài, có câu hát ngắn vì bài dân ca thường được xây dựng từ thơ lục bát, lời ca đệm thêm bằng những hư từ nên cấu trúc không cân đối. Ví dụ bài Xoè hoa được chia thành 4 câu hát với độ dài ngắn không đều nhau: Bùng bong bính boong ngân nga tiếng cồng vang vang. Nghe tiếng chiêng reo vui rộn ràng. Nghe tiếng khèn tiếng sáo vang lừng. Tay nắm tay ta cùng xoè hoa. Hoặc bài Cò lả cũng được chia thành 4 câu hát dài ngắn khác nhau. Con cò cò bay lả lả bay la, Bay từ từ cửa phủ, bay ra ra cánh đồng. Tình tính tang tang tính tình ơi bạn rằng ơi bạn ơi, Rằng có biết biết hay chăng, rằng có nhớ nhớ hay chăng. Tập hát từng câu là bước trọng tâm của việc dạy hát. Khi dạy các bài dân ca, tôi thường tăng cường hát mẫu để hướng dẫn học sinh hát đúng những tiếng có dấu luyến cũng như thể hiện được sắc thái của bài. Cũng vì có câu hát dài ngắn không đều, nên khi dạy từng câu, có những câu phải dạy khá kĩ các em mới hát đúng giai điệu, cũng như những tiếng hát luyến. Ví dụ bài Cò lả, câu hát Rằng có biết biết hay chăng, rằng có nhớ nhớ hay chăng là câu hát dài và có nhiều tiếng hát luyến nên tôi thường cho học sinh tập hát nhiều lần hơn, kĩ hơn so với 3 câu khác. Ngoài ra, tôi cũng hướng dẫn các em cách lấy hơi 2 lần, ở đầu câu và giữa câu hát. Giải pháp 7: Đối với việc dạy bài hát: Khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh. Để học sinh không bị thụ động trong cách lựa chọn tiết tấu cho bài hát, GV khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh bằng cách như sau: GV thay đổi tiết tấu, tempo hay dịch giọng bản nhạc để học sinh nhận biết và thực hành. GV giải thích: Cơ bản một bài hát có thể sử dụng nhiều tiết tấu và tempo khác nhau tuy nhiên dựa vào tính chất của bài để lựa chọn tiết tấu và tempo phù hợp như thế mới truyền tải được sắc thái cũng như ý tưởng của tác giả. Với cách trình bày như vậy chắc chắn từng ngày HS sẽ có những cảm nhận mới trong mỗi lần hát và nghe hát. b- Học sinh phát biểu cảm nhận về bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong học tập, so với bắt chước thì tìm tòi sáng tạo là hình thức cao nhất thể hiện tính tích cực học tập của HS, hãy bắt đầu khuyến khích các em mạnh dạn nói lên những cảm nhận của mình về môn học, về bài hát. HS có thể không ủng hộ ý kiến của GV, của bạn bè, có thể trình bày những ý kiến, tư tưởng của mình. Đó là cơ sở để có kĩ năng sáng tạo lớn hơn. GV cần tạo điều kiện để HS tự nhận xét, tự đánh giá, tự cảm nhận để có thể điều chỉnh cách học theo hướng tích cực. *Ví dụ: Cách 1: - Sau khi cho HS nghe hát mẫu và đọc lời ca, GV đặt câu hỏi: Em hãy nêu cảm nhận của mình về bài hát “ Lý cây đa”? HS sẽ trả lời qua phần gợi mở của GV. VD: Nội dung bài hát nói lên điều gì? Giai điệu bài hát như thế nào? Qua bài hát này bản thân em học tập được gì? Em sẽ phải làm gì để xứng với những điều mà nội dung bài hát muốn chuyển tải tới? Có thể HS trả lời chưa được trôi chảy hoặc ý tứ chưa được sâu sắc song qua nhận xét và khắc hoạ của giáo viên thì học sinh từ chỗ hiểu nội dung bài hát còn mơ hồ sẽ hiểu sâu sắc hơn và đặc biệt là sẽ có trách nhiệm hơn trong việc học tập cũng như rèn luyện Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát. Thông thường mỗi bài hát giáo viên đều hướng dẫn học sinh hát kết hợp vận động giúp cho các em tự nhiên khi hát. Tuy nhiên, ở một số bài GV có thể dạy HS một vài động tác tay phù hợp để các em có thêm những lựa chọn khi biểu diễn bài hát. Thông qua những tiết học như vậy HS sẽ có những áp dụng sáng tạo trong những lần hội diễn văn nghệ trong nhà trường, các hoạt động ngoại khoá, biết cách dàn dựng và sử dụng những động tác múa phù hợp với thể loại bài hát Khi học GV đưa ra yêu cầu HS tự chọn nhóm 4 - 5 HS và biểu diễn bài hát có động tác phụ hoạ. GV không nên áp đặt các em vào từng nhóm, để các em tự chọn sẽ làm HS phấn khởi, vui thích khi được làm việc trong nhóm phù hợp về sở thích, về âm vực, chất giọng - HS sẽ tự chọn nhóm có giọng hát thích hợp về âm vực để trình bày bài hát. - HS tự chọn cách trình bày bài: Các em có thể trình bày bài một hoặc hai lần, có mở đầu có kết thúc, mỗi câu hát sẽ do em nào đảm nhiệm hay cả nhóm cùng hát. Bài hát gồm mấy đoạn, tính chất như thế nào? (GV có thể gợi ý trước). Ngoài ra, HS có thể chọn để sử dụng các cách hát như lĩnh xướng, hoà giọng, đối đáplàm thế nào để phù hợp với nội dung cũng như cấu trúc bài hát. Như vậy hình thức trình bày bài hát của mỗi nhóm sẽ rất đa dạng, phong phú, giàu tính sáng tạo. - HS tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: HS có thể nghĩ ra động tác phù hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp (hát kết hợp vận động hoặc múa, hát kết hợp một vài động tác diễn xuất). - Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt hiệu quả cao, GV cần tạo điều kiện về thời gian cho HS chuẩn bị. Thông thường GV thông báo trước một tuần để HS chọn nhóm và tập cách trình bày, biểu diễn bài hát. (Không thể vừa luyện tập vùa thể hiện trong 1 tiết học) d- Chơi trò chơi. Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên biết cách sắp xếp thời gian hợp lý tổ chức trò chơi cho học sinh thì học sinh rất hào hứng học. Trong hát dân ca có rất nhiều trò chơi nhưng giáo viên phải biết tổ chức trò chơi phù hợp với từng bài học cụ thể. - Sau khi học sinh hát đúng giai điệu của bài hát GV hướng dẫn học sinh chơi trò chơi: Giáo viên làm kí hiệu tay theo các chữ cái A, U, I. Khi GV đưa tay theo kí hiệu, học sinh hát giai điệu chỉ với các chữ cái theo đúng kí hiệu GV hướng dẫn trước lớp. Trò chơi này giúp các em thay đổi không khí học tập, đồng thời để kiểm tra việc ghi nhớ giai điệu của HS . - Trò chơi "Ai nhanh tai hơn” Ví dụ sau khi học xong bài hát giáo viên sử dụng đàn đánh giai điệu một tiết nhạc bất kì cho học sinh nghe và hát lời ca câu nhạc đó. Trò chơi này giúp HS mau thuộc lời ca, phát triển tai nghe Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát vừa giúp học sinh nắm kiến thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra không khí sôi nổi cho HS, tạo hứng thú cho HS học tập đọc nhạc cũng như học các môn học khác. *Ví dụ: Trong tiết học Ôn tập đọc nhạc, sau khi học sinh đã đọc tốt giai điệu bài tập đọc nhạc thì giáo viên yêu cầu các em tự ghép lời ca, đặt lời mới cho bài Tập đọc nhạcĐể các em có được niềm vui trước sản phẩm tinh thần của chính mình kèm theo lời khen ngợi của giáo viên. Giải pháp 8: Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh để gây hứng thú học tập cho các em. Thực chất của việc học tập là chuỗi vấn đề được đặt ra, được nhìn nhận, rồi được nhận thức ở mức độ cao hơn. Đặc trưng của môn học hát dân ca là thực hành. Thực hành là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình dạy và học của bộ môn. Thông qua thực hành để dạy lý thuyết, lấy lý thuyết để củng cố kỹ năng thực hành trên cơ sở sử dụng thời gian trên lớp một cách tối ưu (tránh thời gian chết ) để tất cả học sinh được nhìn, nghe và luyện tập nhiều. Thực tế cho thấy nếu trong một tiết học giáo viên đặt ra nhiều câu hỏi vừa sức đối với học sinh, học sinh dễ hiểu, dễ nhớ, hay cho các em nghe, nhìn và thể hiện nhiều thì học sinh rất có hứng thú học tập, động cơ học tập cũng sẽ tốt. Chương 4: Kiểm chứng các giải pháp triển khai của SKKN Với sự áp dụng các biện pháp nói trên, trong những năm qua tôi được phân công dạy môn âm nhạc. Tôi nhận thấy đa số học sinh đều rất hứng thú học tập, các lớp qua kiểm tra đều đạt kết quả cao qua từng năm học. Với kết quả 93% đạt điểm trung bình trở lên, trong đó tỷ lệ khá giỏi chiếm hơn 60%, có nhiều em tỏ ra có năng khiếu về bộ môn, nhưng vẫn còn học sinh yếu. Cụ thể nhất là trong học kì I năm học 2013 - 2014 tỉ lệ học sinh đạt được chất lượng sau: Sau 3 tuần đầu của học kì II được áp dụng triệt để và liên tục biện pháp đã nêu tôi đã thấy kết quả tiến bộ khá rõ rệt, cụ thể được thống kê sơ bộ điểm kiểm tra miệng và kiểm tra 1 tiết và 15 phút như sau. Sau 6 tuần thực hiện thường xuyên biện pháp giảng dạy mới tôi thấy có kết quả rõ rệt, không khí học tập sôi nổi hơn, học sinh phát biểu xây dựng bài nhiều hơn, học sinh được kiểm tra bài cũ thuộc bài nhiều hơn. Điều đặc biệt là tỉ lệ học sinh yếu giảm đáng kể và tỉ lệ học sinh khá giỏi tăng lên khá rõ so với học kì I vừa qua. Tôi hy vọng rằng với phương pháp giảng dạy này sẽ tạo cho các em niềm say mê môn học, có niềm tin ở chính mình và việc dạy và học sẽ đạt kết quả cao hơn, dần dần sẽ không còn học sinh yếu về bộ môn âm nhạc. Phần 3: Kết luận Vấn đề quan trọng của SKKN Xuất phát từ thực trạng khả năng nhận thức tiếp thu những kiến thức đặc thù của bộ môn âm nhạc, tôi đã lựa chọn và đưa vào thực tế những phương pháp giảng dạy của mình trên cơ sở bám sát chương trình hướng dẫn của Bộ giáo dục - Đào tạo và tôi đã thu được những kết quả đáng kể. Qua quan sát thực tế nhận thấy các em yêu thích bộ môn hơn, hào hứng học tập hơn. Đặc biệt là kết quả học tập cũng như chất lượng của công tác phong trào văn hoá văn nghệ đã nâng lên rõ rệt, các em mạnh dạn hơn, tự tin hơn trong việc tham gia các hoạt động văn nghệ của trường cũng như phong trào văn hoá văn nghệ của huyện nhà. Bên cạnh những kết quả đạt được đó tôi tích luỹ được một số kinh nghiệm sau: - Phải có lòng yêu nghề, tận tâm, tận tuỵ với công tác giảng dạy, cống hiến hết mình cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo - Luôn luôn học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. - Dành nhiều thời gian cho việc chuẩn bị bài dạy. - Nắm vững kiến thức và truyền thụ kiến thức một cách chính xác. - Tạo không khí sôi nổi, gần gũi với học sinh. - Dạy và sửa sai kịp thời, nhận xét đánh giá nhẹ nhàng. - Luôn tạo được sự hứng thú cho học sinh. - Chuẩn bị đồ dùng dạy học cụ thể cho từng bài. Qua nghiên cứu, áp dụng đề tài Một số biện pháp dạy tập đọc nhạc cho học sinh lớp 4- 5 Trường Tiểu học Nguyễn Lượng Thái. Tôi nhận thấy khả năng nhận thức, tập đọc nhạc, ham thích học môn âm nhạc của học sinh rất tốt. Trong quá trình thực hiện đề tài khó tránh khỏi sai sót, rất mong được sự giúp đỡ và góp ý chân thành từ phía các cấp lãnh đạo. 2- Hiệu quả của SKKN nếu được triển khai Môn âm nhạc dạy học sinh tập đọc nhạc ở trường TH mỗi tuần chỉ có một tiết, thật ít ỏi nhưng các em được làm quen với: Học hát, TĐN, nhạc lí, âm nhạc thường thức là một tác động lớn vào thế giới tinh thần của các em. Với những phương pháp dạy trên, trong những năm qua đối với việc học âm nhạc ở trường, tôi thấy kết quả chất lượng được nâng lên rõ rệt, các em đã biết trình bày hoàn chỉnh một bài hát (hát kết hợp vận động nhẹ, biểu diễn) biết cảm nhận về nội dung bài hát. Bởi được hướng dẫn tận tình gợi mở và gần gũi luyện tập của GV, kết hợp giữa nhạc cụ, bảng phụ, đài, băng nhạc và làm mẫu chính xác của GV đã động viên cổ vũ các em kịp thời bằng những con điểm tốt. Nhắc nhở các em sau khi học bài mới thì các em phải có sự ôn luyện ở nhà để ghi nhớ và khắc sâu kiến thức, do đó trong giờ học rất sôi nổi và thoải mái, các em thi đua nhau trả lời câu hỏi của GV đưa ra, tự giác xung phong lên trình bày bài trước lớp, đem lại cho các em lòng tự tin, sự hứng thú say mê trong học tập, tình cảm Thầy - trò luôn gần gũi gắn bó. Việc học tốt trong giờ học chính khoá đã giúp HS hoạt động tốt trong các hoạt động ngoại khoá. - Nếu sáng kiến này được triển khai, giúp trẻ được học môn học hát thoải mái, Học sinh tham gia vào các hoạt động âm nhạc một cách tự tin. Giúp học sinh cảm nhận được cái đẹp, cái hay trong học hát dân ca tiểu học. Giờ học diễn ra nhẹ nhàng, không gò bó, thoải mái. Để giờ học đạt kết quả đòi hỏi giáo viên phải có lòng nhiệt tình, tính linh hoạt và có khả năng kiến thức năng kiếu, có kiến thức đổi mới. Giáo viên phải chịu khó tìm tòi sáng tạo để có điều kiện thực hiện giờ học đạt kết quả cao. 3. Kiến nghị với các cấp. 3.1. Kiến nghị. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về “Một số giải pháp dạy tập đọc nhạc ở học sinh lớp 4-5” của những năm học trước, Năm nay tôi mạnh dạn đưa ra để các đồng nghiệp tham khảo, những phương pháp cơ bản về cách dạy và học âm nhạc đặc biệt là phương pháp dạy thực hành áp dụng cho học sinh vì đa phần các học sinh trong tập thể rất thích hoạt động sáng tạo. Các em hứng thú học âm nhạc hơn, thực hành tự tin hơn và có tiến bộ rõ rệt. Tôi rất mong được sự góp ý trao đổi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp cũng như của những người yêu thích môn âm nhạc, để tìm ra được những phương pháp tối ưu nhất nhằm giúp HS có hứng thú và ham mê học âm nhạc, từ đó giáo dục óc thẩm mĩ cho các em, giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống. 3.2. Đề xuất. Để thực hiện đào tạo các em học sinh trở thành những người phát triển toàn diện về: Đức - Trí - Thể - Mĩ ngoài việc người thầy phải có năng lực thực sự ra thì việc khách quan, ngoại cảnh, khuôn viên, môi trường là những điều tác động lớn đến các em. Do đó để tạo điều kiện cho việc dạy - học của thầy trò thuận lợi, bản thân tôi là người đứng lớp dạy môn âm nhạc cho học sinh cần kiến nghị một số vấn đề sau: a, Về phía nhà trường: - Thường xuyên quan tâm, giúp đỡ giáo viên và học sinh. - Trang bị, bổ sung thêm một số trang thiết bị và tài liệu tham khảo để phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn. b, Về phía Phòng GD&ĐT: - Tổ chức nhiều đợt tập huấn, chuyên đề về bộ môn để GV âm nhạc có điều kiện giao lưu, trao đổi kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy! Trên đây là một vài kiến nghị nhỏ của tôi với Phòng giáo dục và nhà trường nhằm nâng cao chất lượng dạy môn âm nhạc cho học sinh tiểu học. Rất mong được các cấp các nghành có liên quan quan tân gúp đỡ. An Bình, ngày 15 tháng 01 năm 2019 Người viết Vũ Tuấn Phong Phần IV:Phụ Lục-TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhạc sĩ Hoàng Long. Chủ biên phần Âm nhạc. Nhạc sĩ Lê Minh Châu- Nhạc sĩ Hoàng Lân- Nhạc sĩ Nguyễn Hoàng Thông. 2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên tiểu học chu kì III năm 2013-2014.Tập 2 NXBGD- Bộ Giáo Dục và Đào Tạo 3. Giáo trình cơ sở lý thuyết âm nhạc.NXBGD- Đại học Nghệ Thuật- Hà Nội 4. 50 bài hát Thiếu nhi hay nhất. Do báo TNTP- Hội nhạc sĩ Việt Nam- Ban khoa giáo dục VTV- Ban Âm nhạc đài tiếng nói Việt Nam tổ chức 1999-2000.Nhà xuất bản văn hóa thông tin. 5. Nhạc sĩ: Lê Đức Tuấn. Thiết kế bài giảng Âm nhạc lớp 4 -5. Nhà xuất bản Hà Nội 6. Ước mơ xanh- Tuyển chọn những bài hát viết về người giáo viên- NXBGD.
File đính kèm:
- skknphong.doc