Đơn công nhận Sáng kiến Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS

Những khó khăn khi dạy Ngữ văn lớp 9

- Trước đây, các giáo viên thường yêu cầu học sinh soạn bài theo câu hỏi hướng dẫn học tập cuối mỗi bài học. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi chung chung và thường tập trung vào khai thác kiến thức một cách khô khan. Vì vậy, đối với học sinh cấp THCS, việc làm này là quá khó, các em thường soạn bài một cách đối phó, nhiều khi cách hướng dẫn tìm hiểu bài này làm cho tâm lí người học mệt mỏi, ngán ngẩm là điều khó tránh khỏi. Học sinh vô cùng khó khăn để nhớ hết được lượng kiến thức dày đặc nếu không “làm mới” thêm cho phương pháp, không tạo hứng thú cho người học, không thay đổi cách học.

- Một thực trạng phổ biến hiện nay là học sinh ít đọc sách, không thích tương tác với nhau và tương tác với giáo viên, kỹ năng thuyết trình, phản biện có nhiều hạn chế, chưa thực sự được thực hành, luyện tập nhiều với nhiều cách tiếp cận khác nhau;

- Các kiến thức môn Ngữ văn liên quan đến các môn xã hội khác rất nhiều nên nếu không có kiến thức liên môn, không biết vận dụng kiến thức liên phân môn để giúp học sinh tri nhận và vận dụng là một thiếu sót vì kiến thức của học sinh hoặc rất nghèo nàn hoặc có mà chưa biết cách vận dụng nên bài làm văn nghị luận văn học cũng như nghị luận xã hội của các em rất nghèo ý tưởng hoặc lập luận thiếu chặt chẽ, thiếu sức thuyết phục;

- Từ thực trạng trên, giáo viên Ngữ văn nói chung, bản thân chúng tôi nói riêng luôn trăn trở trong việc tìm ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy.

 

doc14 trang | Chia sẻ: Mạc Dung | Ngày: 29/08/2024 | Lượt xem: 181 | Lượt tải: 0Download
Bạn đang xem tài liệu "Đơn công nhận Sáng kiến Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
 Kính gửi: Hội đồng sáng kiến thị xã Bình Long.
 Chúng tôi ghi tên dưới đây:
 Số Họ và tên Ngày Nơi công Chức Trình Tỷ lệ (%)
 TT tháng năm tác danh độ đóng góp
 sinh chuyên vào việc tạo
 môn ra sáng kiến
 1 ĐỒNG THỊ HOÀI 01/12/1972 Trường Hiệu ĐHSP 50%
 THCS An trưởng
 Lộc - Bình
 Long -
 Bình
 Phước
 2 CAO LỆ TUYẾT 16/07/1978 Trường Phó ĐHSP 50%
 THCS An Hiệu
 Lộc - Bình trưởng
 Long -
 Bình
 Phước
- Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến: Tổ chức các hoạt động dạy học theo định 
hướng phát triển năng lực khi dạy ngữ văn lớp 9 ở trường THCS.
- Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
 +Họ và tên: Đổng Thị Hoài – Hiệu trưởng – Trường THCS An Lộc.
 +Họ và tên: Cao Lệ Tuyết – Phó Hiệu trưởng – Trường THCS An Lộc.
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục (Ngữ văn 9).
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: 15/09/2020.
- Mô tả bản chất của sáng kiến:
 PHẦN MỘT. MÔ TẢ BẢN CHẤT CỦA SÁNG KIẾN 
I. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN GIẢI PHÁP
 Những khó khăn khi dạy Ngữ văn lớp 9
 - Trước đây, các giáo viên thường yêu cầu học sinh soạn bài theo câu hỏi hướng 
dẫn học tập cuối mỗi bài học. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi chung chung và thường tập trung 
vào khai thác kiến thức một cách khô khan. Vì vậy, đối với học sinh cấp THCS, việc làm 
này là quá khó, các em thường soạn bài một cách đối phó, nhiều khi cách hướng dẫn tìm 
hiểu bài này làm cho tâm lí người học mệt mỏi, ngán ngẩm là điều khó tránh khỏi. Học 
sinh vô cùng khó khăn để nhớ hết được lượng kiến thức dày đặc nếu không “làm mới” 
thêm cho phương pháp, không tạo hứng thú cho người học, không thay đổi cách học.
 - Một thực trạng phổ biến hiện nay là học sinh ít đọc sách, không thích tương tác 
với nhau và tương tác với giáo viên, kỹ năng thuyết trình, phản biện có nhiều hạn chế, 
chưa thực sự được thực hành, luyện tập nhiều với nhiều cách tiếp cận khác nhau; năng lực của bản thân. Đồng thời, việc chuẩn bị bài Ngữ văn ở nhà cũng phải góp phần 
phát triển nhiều năng lực cho học sinh.
 Ví dụ đối với những em có năng khiếu về Mĩ thuật thì giáo viên giao nhiệm vụ vẽ 
tranh minh họa; vẽ sơ đồ, lược đồ, bản đồ tư duy,.... cho các nội dung liên quan đến
bài học. Đối với những em có năng khiếu về Âm nhạc, giao nhiệm vụ chuẩn bị, sưu tầm 
những bài hát liên quan đến nội dung bài học để phục vụ quá trình dạy nâng cao, mở rộng 
và liên hệ khi cần thiết.
 Như vậy học sinh vừa có cơ hội để phát huy năng lực, sở trường của mình vừa 
giúp cho tiết học sinh động và nội dung học sinh nhận thức được sẽ thêm sâu sắc. Hoạt 
động giao nhiệm vụ theo sở trường, năng khiếu này giúp học sinh chuẩn bị bài môn Ngữ 
Văn tốt hơn, cụ thể hơn theo định hướng kiến thức, kỹ năng mà giáo viên yêu cầu, đồng 
thời còn phát huy được năng khiếu, năng lực, sở trường của bản thân các em, khiến các 
em hứng thú hơn với việc chuẩn bị bài. Việc định hướng này của giáo viên, giúp học sinh 
rèn luyện, phát triển năng lực thẩm mĩ, năng lực tạo lập văn bản. Ví dụ thông qua việc 
chuẩn bị, vẽ sơ đồ tư duy, các em đã nắm được nội dung cốt lõi của văn bản, từ đó khái 
quát hóa kiến thức thành sơ đồ tư duy. Hoặc, việc chuẩn bị bài bằng hoạt động vẽ tranh 
minh họa cho tác phẩm văn học cũng giúp các em đã nắm được nội dung cốt lõi, giá trị 
cốt lõi của tác phẩm văn học rồi chuyển thể sang loại hình nghệ thuật mới
- tác phẩm hội họa. Cách tổ chức này của giáo viên tạo điều kiện để học sinh được sáng 
tạo. Vì thế năng lực thẩm mĩ, năng lực tiếp nhận văn bản, tạo lập văn bản, của các em 
được rèn luyện, phát triển một cách tự nhiên nhất thông qua những hoạt động gắn với 
năng khiếu của các em.
 Ngoài ra việc giao nhiệm vụ theo nhóm học sinh, việc giao nhiệm vụ theo tổ cũng 
là cách để học sinh phát huy năng lực của mình trong đó rèn luyện và nâng cao các năng 
lực như: năng lực hợp tác, năng lực tự quản, năng lực giải quyết vấn đề...vv.
 Ví dụ khi dạy bài Viếng lăng Bác (Ngữ văn 9 tập 2) giáo viên giao nhiệm vụ như
sau:
 - Nhóm 1, giao cho những em có năng khiếu hội hòa, vẽ một số bức tranh liên 
quan đến nội dung bài thơ như hình ảnh “hàng tre bát ngát” trong sương và “dòng người 
đi trong thương nhớ - kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
 - Nhóm 2, giao cho một số em có năng khiếu Âm nhạc chuẩn bị nội dung hát bài 
Viếng lăng Bác của nhạc sĩ Trần Hoàn phổ thơ Viễn Phương.
 - Nhóm 3 chuẩn bị tìm hiểu về quá trình, hoàn cảnh, những tư liệu hình ảnh liên 
quan đến Lăng Bác Hồ.
 - Nhóm 4 sưu tầm những bài thơ, đoạn thơ, câu thơ viết về trăng của Bác hoặc một 
số câu thơ, bài thơ ca ngợi về Bác.
 2. Giải pháp 2: Phát triển năng lực học sinh qua hoạt động Khởi động (giới 
thiệu bài).
 Mỗi tác phẩm văn học là một sáng tạo nghệ thuật thông qua hình tượng văn học, 
hình tượng thơ, hình tượng nhân vật. Văn chương đến với người tiếp nhận bằng sự rung 
động của trái tim. Chính bởi vậy khi chuẩn bị vào tìm hiểu một tác phẩm văn chương thì 
việc tạo tâm thế cho học sinh giống như một sự khơi gợi và dẫn dắt học sinh đi vào tác
 3 Ví dụ: Khi dạy văn bản: Bức tranh của em gái tôi, giáo viên giới thiệu bài bằng 
cách tạo tình huống: Trong cuộc thi Vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các vấn đề 
trong thực tế vừa qua, bạn Nguyễn Văn A của lớp mình đạt giải Nhất cấp Huyện, còn em 
thì không đạt giải gì cả, trước thành công của bạn A, tâm trạng của em như thế nào và thái 
độ của em với bạn lúc đó ra sao? Trước tình huống này mỗi em học sinh sẽ bày tỏ ý kiến 
của riêng mình và chắc chắn sẽ có nhiều ý kiến khác nhau. Có thể có em là sự vui mừng, 
có thể có em buồn, có em ghen tị; còn thái độ đối với bạn A có em là chơi thân với bạn 
hơn, có em thì giữ khoảng cách. Từ ý kiến của các em giáo viên dẫn dắt và liên kết sang 
bài mới.
 Hoặc khi dạy văn bản: Cuộc chia tay của những con búp bê giáo viên giới thiệu 
bài bằng cách tạo tình huống: giả sử chúng ta đang sống trong một gia đình êm ấm hạnh 
phúc, bỗng một ngày được bố mẹ thông báo bố mẹ sẽ chia tay nhau, em phải sống với bố 
hoặc mẹ, tâm trạng em lúc đó sẽ như thế nào? Từ tình huống này học sinh sẽ trình bày 
suy nghĩ của mình, từ đó giáo viên dẫn dắt vào nội dung bài học.
 Như vậy, qua cách làm này học sinh sẽ được hình thành những năng lực chuyên 
biệt của môn Ngữ Văn ở bậc THCS như năng lực tư duy, năng lực giao tiếp tiếng Việt 
(qua hoạt động nghe, hiểu về văn bản do giáo viên trình bày), năng lực thẩm mĩ, năng lực 
giao tiếp (thể hiện qua cách cảm nhận nội dung câu chuyện, thái độ đối với nội dung câu 
chuyện mà giáo viên kể),.
 3. Giải pháp 3: Phát huy năng lực học sinh qua các hoạt động dạy học bài
mới.
 Đây là bước quan trọng nhất vì các hoạt động dạy học sẽ tập trung ở dạy học bài 
mới. Các năng lực chung và năng lực chuyên biệt sẽ được thể hiện chủ yếu qua các hoạt 
động dạy học bài mới. Vì vậy trước tiên giáo viên phải xác định rõ những năng lực nào sẽ 
hình thành cho học sinh và ứng với những năng lực đó là các hoạt động nào? Như vậy 
mấu chốt của việc phát triển năng lực học sinh ở khâu dạy bài mới là cách điều hành tổ 
chức của người thầy. Trong đó việc đầu tiên là khâu đặt câu hỏi. Trong quá trình đi tìm 
hiểu phân tích một tác phẩm hay đoạn trích bên cạnh các câu hỏi thông thường bấy lâu 
nay chúng ta vẫn sử dụng thì tăng thêm các loại câu hỏi đòi hỏi học sinh phải có sự tư 
duy mới trả lời được. Qua các câu hỏi này học sinh sẽ phát huy các năng lực của mình. Ở 
đây cần phân loại một số dạng câu hỏi đặc trưng như sau:
 3.1. Dạng câu hỏi so sánh liên hệ: Dạng câu hỏi này phát sinh khi bắt gặp một 
vấn đề trong văn bản liên quan đến một nội dung của một vắn bản đã học trước đó, khi 
thực hiện dạng câu hỏi này một mặt giúp học sinh ôn lại nội dung kiến thức đã học đồng 
thời liên hệ, so sánh với nội dung mới nảy sinh. Đồng thời qua việc học sinh trả lời những 
câu hỏi dạng so sánh liên hệ như vậy buộc học sinh phải nhớ lại văn bản cũ với mới (liên 
quan đến câu hỏi) từ đó hình thành năng lực tiếp nhận văn bản ở học sinh. Và để so sánh 
được học sinh buộc phải tư duy, suy nghĩ, thể hiện ý kiến riêng của mình về vấn đề được 
hỏi từ đó hình thành và phát triển năng lực tư duy, năng lực cảm thụ thẩm mỹ ở các em.
 Ví dụ khi dạy bài Viếng lăng Bác khi phân hai câu thơ: “Ngày ngày mặt trời đi
qua trên lăng - Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ” giáo viên đặt câu hỏi: hình ảnh
 5 một trong những sự lựa chọn phù hợp và hiệu quả nhất. Bởi khi thảo luận bằng kĩ thuật 
khăn trải bàn thì mỗi cá nhân của nhóm đều phải thực hiện và ghi kết quả của mình vào 
bảng, sau đó cả nhóm thống nhất chọn lọc, tổng hợp kết quả để ghi vào kết quả của nhóm. 
Như vậy với hình thức thảo luận này thì cá nhân cũng làm việc, phải tư duy nhưng sau đó 
lại phải liên kết, thống nhất thông tin mà vấn đề giáo viên đặt ra. Phần cơ sở vật chất cho 
kĩ thuật này cũng đơn giản, không tốn kém.
 Cách thực hiện như sau: giáo viên giao nhiệm vụ thảo luận, nội dung, thời gian. 
Mỗi nhóm sẽ trình bày vào một tờ giấy được chia đều cho các thành viên trong nhóm, 
mỗi thành viên sẽ trình bày ý kiến của mình vào một góc, sau đó nhóm trưởng sẽ chắt lọc, 
lấy ý kiến của từng thành viên trong nhóm đi đến thống nhất. Có thể mô phỏng hình thức 
thảo luận nhóm theo kĩ thuật Khăn trải bàn như sau:
 (Nguồn: Tài liệu tập huấn chuyên môn dành cho vùng khó khăn nhất)
 Bên cạnh đó thì tùy vào điều kiện và thời gian giáo viên có thể lựa chọn các kĩ 
thuật dạy học tích cực khác.
 Để việc thảo luận nhóm đạt hiệu quả dạy học cao và quan trọng là phát huy được 
năng lực người học thì người thầy đóng vai trò quan trọng. Trong đó khâu đầu tiên là lựa 
chọn nội dung thảo luận và xác định những năng lực sẽ được thể hiện và phát huy qua 
hoạt động thảo luận này. Khi lựa chọn những nội dung thảo luận phải lựa chọn những vấn 
đề lớn, những vấn đề đòi hỏi sự hợp tác tư duy, trí tuệ tập thể; tránh lựa chọn những vấn 
đề đơn giản, thảo luận theo hình thức đối phó thì việc thảo luận không đạt hiệu quả. Với 
cách làm này, học sinh được rèn luyện phát triển nhiều năng lực của bản thân, nhất là 
năng lực hợp tác, giao tiếp, làm việc chung. Và đương nhiên, để thể hiện được ý kiến của 
mình, trả lời được câu hỏi, hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân, của nhóm thì các em phải 
làm việc với văn bản, với tác phẩm,.. qua đó mà những năng lực
 7

File đính kèm:

  • docdon_cong_nhan_sang_kien_to_chuc_cac_hoat_dong_day_hoc_theo_d.doc
Sáng Kiến Liên Quan