Chuyên đề Dạy học Toán Lớp 2 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới
1. Thuận lợi
- Đã qua những năm thay sách giáo khoa và đổi mới nội dung chương trình, phương pháp dạy học. Học sinh đã làm quen với học Toán qua chương trình học lớp 1. Đội ngũ giáo viên nhiệt tình, ham học hỏi nên việc tiếp cận với chương trình mới, với việc đổi mới phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại khá nhanh chóng, thành thạo.
- Giáo viên được trang bị đầy đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, sách tham khảo và đặc biệt là đồ dùng dạy học môn Toán lớp 2 khá đầy đủ, đẹp, phong phú về thể loại. Bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh giống nhau, khi sử dụng rất thuận lợi.
- Sự chỉ đạo sâu sát của Phòng giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường, chuyên môn nhà trường có vai trò tích cực giúp giáo viên khối 2 đi đúng chương trình nội dung môn toán lớp 2.
- Cơ sở vật chất nhà trường được trang bị đầy đủ đặc biệt là đồ dùng dạy học hiện đại như máy chiếu projecteur, một máy quét .cũng tạo điều kiện thuận lợi giúp giáo viên, học sinh hoàn thành tốt việc dạy và học.
- Học sinh khối 2 đều được học 2 buổi /ngày. Vì vậy có nhiều thời gian cho việc luyện tập thực hành ở buổi 2.
- Sự quan tâm của phụ huynh học sinh cũng góp phần nâng cao chất lượng các môn học nói chung và môn toán nói riêng.
2. Khó khăn
- Giáo viên: Một số giáo viên việc sử dụng đồ dùng dạy học còn hạn chế, có đồng chí ngại dùng, còn lúng túng, vụng về khi sử dụng, nên hiệu quả tiết dạy chưa cao.
- Học sinh: Ở độ tuổi các em dễ tiếp thu nhưng lại chóng quên dẫn đến việc học tập chưa cao.
ời giáo viên cần biết vận dụng linh hoạt và lựa chọn các phương pháp vào từng hoạt động của các dạng bài học, để hướng dẫn học sinh tự tìm tòi chiếm lĩnh kiến thức mới, hướng dẫn học sinh thực hành hình thành và rèn luyện kĩ năng Toán học, hướng dẫn học sinh giải Toán, kết hợp việc vận dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm nhỏ, hay trò chơi Toán học, nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới trong dạy học Toán 2. IV. NHỮNG ĐIỂM CẦN CHÚ Ý KHI DẠY CÁC MẠCH KIẾN THỨC Ở TOÁN 2 Về số học Với mục tiêu học tập môn toán ở tiểu học là giúp cho học sinh tính thành thạo bốn phép tính số học, là cơ sở phát triển tư duy và vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Vì vậy mạch kiến thức số học là trọng tâm, là hạt nhân của môn toán tiểu học nói chung và toán lớp 2 nói riêng. 1.1. Nội dung dạy học các số tự nhiên đến 1000. a. Mục tiêu: Sau khi học xong lớp 1, học sinh đã biết đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100. - Đến lớp 2 vòng số được mở rộng đến 1000. Việc giúp học sinh nắm chắc các kiến thức về đọc, viết, đếm, so sánh các số được tổ chức qua các giai đoạn như: đơn vị chục, trăm, đồng thời viết thêm đơn vị nghìn. - Học sinh nắm được các số tròn trăm, so sánh và thứ tự các số tròn trăm. - Đọc, viết, so sánh và số tròn chục, thứ tự các số tròn chục trong phạm vi 200. - Đọc viết các số có 3 chữ số và so sánh các số có 3 chữ số, tới đây học sinh sẽ đọc viết và so sánh thành thạo các số trong phạm vi 1000. - Viết thành tổng các trăm, chục và đơn vị. b. Phương tiện, đồ dùng dạy học Việc sử dụng tốt các phương tiện đồ dùng dạy học quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện có hiệu quả phương pháp mới. Các mô hình số: đơn vị (ô vuông), chục (thanh hình chữ nhật gồm 10 ô vuông) trăm (bảng hình vuông gồm 100 ô vuông) dành cho các hoạt động cá nhân của học sinh. Giáo viên cũng có các mô hình số, giống như học sinh nhưng kích thước gấp 5 lần kích thước bộ đồ dùng của học sinh. Dành cho hoạt động minh hoạ trên bảng của giáo viên. Các mẫu chữ số giành cho giáo viên và học sinh. Các tranh vẽ để phục vụ các bài học và luyện tập về số. c. Cách tiến hành dạy các số đến 1000 Cách tiến hành dạy các số đến 1000 được tiến hành theo 3 bước sau: + Bước1: Bắt đầu từ tổ chức các hoạt dộng học tập với các đồ dùng trực quan (trên các mô hình, hình vẽ cụ thể), cho học sinh tự làm việc, phát hiện (với sự hỗ trợ của giáo viên). Từ đó hình thành kiến thức mới cho học sinh về các số, quy tắc so sánh số, các kí hiệu toán học. + Bước 2: Củng các kiến thức này được thông qua các bài tập có gắn với các hình ảnh trực quan. + Bước 3: Các kiến thức và kĩ năng củng cố thông qua các bài tập với các số thuần tuý mà không kèm các hình ảnh trực quan. Lúc này học sinh đã có thể làm việc trực tiếp với các số, thuần tuý, mà không phải dựa vào các hình ảnh trực quan ban đầu. Ví dụ: Dạy bài: “Các số tròn chục từ 110 đến 200”. Đồ dùng chuẩn bị là các mô hình số biểu diễn trăm, chục, đơn vị (cả giáo viên và học sinh. Cách tiến hành bằng trực quan, giáo viên gắn lên bảng các mô hình biểu diễn trăm, chục, đơn vị) Cho học sinh nêu hoặc điền vào bảng con các số tròn chục đã biết. Cho học sinh nhận xét đặc điểm các số tròn chục. Số tròn chục có chữ số tận cùng bên phải là chữ số 0 .Tiếp đó giáo viên gắn các mô hình biểu diễn 110, 120. Học sinh được quan sát và nêu được hình vẽ cho biết có mấy trăm, mấy chục, mấy đơn vị. Tương tự cho học sinh làm trên mô hình để tìm ra số 130, 140, 150, 160, 170, 180, 190, 200. 1.2. Dạy học các phép tính. a. Mục tiêu: Các phép tính là tuyến kiến thức trong mạch số học của chương trình môn toán tiểu học – mạch cốt lõi của môn Toán. Các bài dạy về phép tính chiếm phần lớn nội dung SGK Toán 2. Vì vậy nó được coi là trọng tâm của môn Toán 2. Bài dạy về các phép tính ở lớp 2 có thể phân chia theo các nhóm sau: + Các bài dạy về phép cộng phép trừ có nhớ trong phạm vi 100. + Các bài dạy về phép nhân với 2,3,4,5 và giới thiệu bảng nhân 2,3,4,5 + Các bài dạy về phép chia với 2,3,4,5 và giới thiệu bảng chia 2,3,4,5. + Các bài dạy về thành phần của mỗi phép tính và tìm thành phần của phép tính. + Tính giá trị của biểu thức số đơn giản. Trong mỗi bài dạy về phép cộng (phép trừ, nhân, chia) sau khi hình thành ý nghĩa của phép toán, kĩ thuật tính, cần nêu qui tắc thực hành tính. Sau đó rèn luyện kĩ năng tính cho học sinh. Trong một bài dạy về thành phần của phép tính cộng, trừ, nhân, chia, sau khi giới thiệu tên gọi của từng thành phần chưa biết của phép tính, thì nêu cách tìm thành phần chưa biết, rồi phát biểu thành qui tắc. Sau đó rèn luyện kĩ năng giải toán dạng “tìm x”. Mục tiêu yêu cầu của các bài: “một phần hai, một phần ba, một phần tư, một phần năm,” chủ yếu chỉ là nhận biết được “các thành phần bằng nhau của đơn vị” không yêu cầu coi đây là dạy học phân số ở lớp 2. Phần tính giá trị của biểu thức số chỉ dừng lại ở các biểu thức với hai phép tính cộng và trừ, chưa sử dụng dấu ngoặc. b. Phương pháp dạy học Tư tưởng chỉ đạo việc định hướng về phương pháp dạy học trong SGK toán 2 là tổ chức giờ học thành các hoạt động học tập nhằm phát huy tính tích cực và chủ động của học sinh, khuyến khích học sinh tự tìm tòi phát hiện ra kiến thức mới của bài học, vận dụng sáng tạo kiến thức mới vào giải quyết các dạng bài tập, vào thực tiễn đời sống. Sử dụng và khai thác triệt để các hình thức tổ chức dạy học như dạy học theo nhóm nhỏ, dạy học cá nhânPhương pháp dạy học các phép tính cũng theo định hướng này. Các phương pháp truyền thống được sử dụng trong dạy các phép tính đó là phương pháp trực quan, phương pháp hỏi đáp, phương pháp thực hành luyện tập. Ví dụ 1: Dạy bài 6 cộng với một số: 6 + 5 Trực quan: Là 1 chục que tính và 1 que tính rời. Học sinh được làm trên que tính tìm kết qủa 6 + 5 = 11 GV cho HS nêu các cách làm (có nhiều cách), cô làm trên mô hình bảng gài để chốt lại cách hay nhất * Khi dạy về số học cần chú ý về phương pháp dạy học như sau: + Dạy học dựa trên vốn kiến thức của HS + Không làm thay, nói thay HS, mà tổ chức các hoạt động học tập cho HS + Cho HS thao tác trên các que tính, thẻ số. + Cho HS nói cách làm và kết quả. + Cho HS quan sát kiểm tra việc làm và kết quả khi thao tác với các vật thật, với mô hình và kết quả trong SGK. + Cho HS tìm nhiều phép tính trên một mô hình, diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau của cùng một nội dung. + HS phải tự tìm ra kiến thức dưới sự hướng dẫn của GV. + Hãy tạo không khí vui vẻ, để HS thi đua hợp tác với nhau trong quá trình tìm kiếm phát hiện và vận dụng kiến thức. 2. Dạy học đại lượng và đo đại lượng ở lớp 2. a. Mục tiêu: Giúp HS. + Nhận biết đơn vị đo độ dài dm, cm, km, mm,. Biết cách đọc, viết, các số đo độ dài theo đơn vị đo mới học. + Nắm được quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài, giữa dm và cm, m và dm, giữa cm, mm, km và m. + Tập chuyển đổi các đơn vị đo độ dài. Biết thực hiện các phép tính cộng, trừ với các số đo theo các đơn vị đo độ dài đã học + Tập đo và ước lượng đọ dài trong phạm vi 20 cm, 5m + Nhận biết về lít, đọc, viết, làm tính với các số đo theo đơn vị lít. Tập đong, đo, ước lượng theo lít. + Hình thành biểu tượng về khối lượng. + Nhận biết đơn vị đo khối lượng kg, đọc viết, làm tính với các số đo theo đơn vị kg. + Nhận biết đơn vị đo thời gian, giờ, tháng, nắm được mối quan hệ, ngày – giờ, giờ – phút, ngày – tháng. + Biết xem lịch, lịch hằng ngày và lịch quyển. Biết xem đồng hồ, khi kim phút chỉ vào số 12 hoặc chỉ vào số 3, số 6. + Nhận biết tiền Việt Nam (với mệnh giá trong phạm vi đã học) + Tập đếm tiền trong trường hợp đơn giản b. Phương pháp dạy học đại lượng đo đại lượng. - Phương pháp dạy học đặc trưng ở mạch kiết thức này là phương pháp thực hành luyện tập, kết hợp với phương pháp trực quan. Thông qua thực hành luyện tập để hình thành biểu tượng, thực hành chuyển đổi đơn vị đo. Thực hành tính toán trên các số đo, thực hành đo và tập ước lượng. Ví dụ: Khi hình thành biểu tượng về các đại lượng.Hình thành biểu tượng về khối lượng kg,dung tích lít. Thông qua việc cho HS “cầm”, “nắm” các đồ vật trong tay như quyển sách, quyển vở và so sánh vật này “nặng hơn” hay “nhẹ hơn” vật kia. Học sinh nhận biết được về khối lượng của đồ vật. Biểu tượng này được củng cố thêm khi giới thiệu về đơn vị kg. Hay thông qua việc quan sát sức “chứa”, “đựng ” các chất lỏng của những đồ vật của cái ca, cái chai, cái can, hình thành cho học sinh biểu tượng về “dung tích” . 3. Dạy học các yếu tố hình học. a. Mục tiêu: - HS nhận biết được một số hình, hình học đơn giản (hình chữ nhật, hình tứ giác, đường thẳng, đường gấp khúc). - Bước đầu hình thành và rèn luyện kỹ năng hình (theo mẫu, theo ô vuông). Xếp ghép hình đơn giản (theo mẫu), tính độ dài đường gấp khúc, tính chu vi hình tam giác, hình tứ giác. Bước đầu làm quen với thao tác lựa chọn phân tích tổng hợp hình. Phát triển trí tưởng tượng qua quá trình học tập các yếu tố hình học. b. Cách tiến hành: Khi dạy các khái niệm biểu tượng hoặc nhận dạng các hình, hình học mới, có thể tiến hành các hoạt động sau: - Liên hệ các khái niệm đã học chuyển sang khái niện mới, ví dụ: Từ đoạn thẳng chuyển sang đường thẳng (kéo dài đoạn thẳng về 2 phía). Hay đường gấp khúc gồm 3 đoạn khép kín thành hình tam giác, từ đó chu vi hình tam giác là tổng độ dài 3 cạnh cũng là độ dài đường gấp khúc đó. - Dùng đồ dùng trực quan hoặc liên hệ các đồ vật trong thực tế có hình dạng hình học, để học sinh nhận biết hình (dạng tổng thể). - Lấy những hình có tính chất “phần ví dụ” để củng cố nhận biết hình dạng các hình đang học (Chẳng hạn: muốn cho học sinh biết hình chữ nhật, có thể cho học sinh quan sát tập hợp gồm những hình: hình tròn, hình tam giác, hình tứ giác, trong đó có cả hình chữ nhật, rồi hỏi học sinh đâu là hình chữ nhật hoặc cho học sinh tô màu hình chữ nhật) 4. Dạy học giải toán có lời văn: a. Mục tiêu: Biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn về cộng, trừ trong đó có bài toán “nhiều hơn, ít hơn”, loại số đơn vị, các bài toán về nhân, chia (trong phạm vi bảng nhân, chia 2,3,4,5) và bước đầu làm quen giải bài toán có nội dung hình học (tính độ dài, tính chu vi các hình). Rèn phương pháp giải toán và khả năng diễn đạt (phân tích đề bài, giải quyết vấn đề, trình bày vấn đề bằng cách nói hoặc viết). b. Đồ dùng dạy học: Đó là các vật thật, quả cam, hay tranh ảnh c. Cách tiến hành dạy học giải toán có lời văn: - Khi dạy giải toán có lời văn, chủ yếu dạy học sinh biết cách giải bài toán (phương pháp giải toán). Giáo viên không nên làm thay hoặc áp đặt cách giải, mà chỉ cho học sinh làm mỗi phép tính để tìm ra kết quả. Cố gắng để học sinh tự tìm ra cách giải bài toán (tập trung vào ba bước: tóm tắt bài toán, để biết bài toán cho biết gì, hỏi gì, tìm cách giải quyết, thiết lập mối quan hệ giữa các giữ kiện của đề bài với phép tính tương ứng. Trình bày bài giải, viết câu trả lời phép tính tương ứng và đáp số). - Về phần tóm tắt bài toán, yêu cầu học sinh tự tri giác đề toán rồi nêu (viết) tóm tắt. Có thể bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng (nên dùng sơ đồ đoạn thẳng để biểu thị trực quan, khái niệm “nhiều hơn, ít hơn”). Phần tóm tắt cần thiết khi học giải toán, tuy nhiên không nhất thiết phải viết vào phần trình bày bài giảng (mục đích tóm tắt bài toán cho biết gì và kết luận, bài toán hỏi gì từ đó giúp học sinh có cách giải thích hợp). - Về trình bày bài giải: học sinh cần viết được câu lời giải và phép tính tương ứng. Giáo viên nên kiên trì để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời sau đó viết câu lời giải. Lúc đầu học sinh lúng túng, ta nên chấp nhận cách diễn đạt tuy có vụng về nhưng đúng ý là được. Cái khó nhất của giải toán của lớp 2 là trình bày (viết) bài giải. Do đó giáo viên cần cho học sinh tự nguyện viết câu lời giải, không nên vội vàng làm thay cho học sinh. V. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN VIỆC DẠY TOÁN THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI Xây dựng tốt kế hoạch bài dạy Hiệu quả của một tiết dạy phụ thuộc rất lớn vào công tác chuẩn bị của giáo viên. Vì vậy trước khi lên lớp, giáo viên cần chuẩn bị tiết dạy cho thật chu đáo và có chất lượng thể hiện rõ kế hoạch của giáo viên và dự kiến được các phương án trả lời của học sinh trong tiết dạy và chốt kiến thức sau mỗi bài tập, mỗi hoạt động. Sự chuẩn bị kĩ lưỡng chu đáo sẽ giúp cho giáo viên xác định được chuẩn về kiến thức, chuẩn bị đồ dùng dạy học cho giáo viên và học sinh, xây dựng hệ thống câu hỏi, dẫn dắt học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới, hay xây dựng trò chơi học tập cho các tiết học, giúp học sinh củng cố khắc sâu kiến thức của bài học. Từ đó giúp giáo viên thêm tự tin, sáng tạo để tổ chức tốt tiết dạy. Ví dụ: Khi dạy bài: Phép nhân. Kiến thức trọng tâm của bài là: Học sinh được hình thành phép nhân từ phép cộng các số hạng bằng nhau, biết đọc, viết và cách tính kết quả của phép nhân. Giáo viên cần chuẩn bị tốt các hoạt động và hệ thống câu hỏi cho phần kiến thức mới. + Tấm bìa có mấy chấm tròn ? + Có 5 tấm bìa, mỗi tấm bìa đều có 2 chấm tròn (hoặc 2 chấm tròn được lấy 5 lần). Hỏi có tất cả bao nhiêu chấm tròn ? - Từ đó học sinh nhận xét và giáo viên giới thiệu được phép nhân và chốt được phép nhân là phép cộng các số hạng bằng nhau. 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 10 Vậy: 2 x 5 = 10. 2. Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học - Tổ chức dạy học theo hướng phát huy tính tích cực chủ động là mấu chốt của vấn đề đổi mới. Vì vậy khi giảng dạy giáo viên cần kết hợp các hình thức tổ chức dạy học: như dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân, thảo luận, trò chơi toán học. Giáo viên tổ chức và hướng dẫn các hoạt động học tập nhằm huy động mọi khả năng của từng học sinh, để học sinh tự tìm tòi, khám phá nội dung mới của bài học. Ví dụ: Dạy bài 11 trừ đi một số 11-5 Giáo viên vận dụng hình thức dạy học cá nhân, học sinh tự thao tác trên que tính để tự tìm ra kết quả 11 – 5. Sau đó nêu được các cách làm (có nhiều cách) Cách 1: có 11 que tính bớt lần luợt từng que tính đến khi bớt đủ 5 que tính, 11 – 5 = 6. Cách 2: có 11 que tính bớt đi 2 que tính còn 9 que tính, 11 – 2 = 9. Sau đó bớt tiếp 2 que tính nữa còn 7 que tính, rồi bớt tiếp 1 que tính nữa thì còn lại 6 que tính. Cách 3: có 11 que tính bớt đi 1 que tính còn 10 que tính. Sau đó bớt tiếp đi 4 que tính nữa còn 6 que tính, 11 – 5 = 6. ... Giáo viên chốt lại bằng cách thao tác lại trên đồ dùng 1 cách hay nhất của học sinh (có 11 que tính bớt đi 1 que tính còn 10 que tính. Sau đó bớt tiếp đi 4 que tính nữa còn 6 que tính, 11 – 5 = 6). Khi đó, học sinh nắm chắc cách làm và vận dụng vào làm các phép tính, dạng tính khác. * Tóm lại : Khi vận dụng các hình thức dạy học giáo viên cần linh hoạt tổ chức cho học sinh hoạt động giúp các em tự phát hiện, tự tìm kiến thức mới của bài học. Biết sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy học, tạo hứng thú học tập cho học sinh, khi đó các em học tập một cách hào hứng tự tin và sáng tạo. 3. Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học trong mỗi tiết dạy. - Việc chuẩn bị đồ dùng dạy học và lựa chọn xem đồ dùng đó cần đưa ra lúc nào, cho phù hợp với nội dung của từng bài và các hoạt động trong tiết dạy. Tức là sử dụng đồ dùng phải đúng thời điểm. - Hiện nay ở tiểu học việc ứng dụng công nghệ thông tin vào đổi mới phương pháp dạy học ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn toán đã giúp cho giờ học đạt hiệu quả cao hơn. Thu hút được sự chú ý của học sinh, giúp học sinh nắm được nội dung bài học một cách dễ dàng, giờ dạy sẽ nhẹ nhàng, sinh động hơn. Ví dụ: Khi dạy bài: Phép nhân Sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại như công nghệ thông tin, quét các tranh trong sgk, song các tranh này được làm hình ảnh động, có âm thanh rất sinh động. Ở phần hình thành kiến thức mới, giáo viên đưa ra các tấm bìa mỗi tấm bìa có 2 chấm tròn, được làm hiệu ứng nhấp nháy, sau đó đổi màu các chấm tròn, nhấn mạnh việc 2 chấm tròn được lấy 5 lần. Hay ở bài 1 phần b với hình ảnh sinh động là một bể cá có 5 con cá, có 3 bể như thế. Học sinh quan sát tìm được tổng số cá là: 5 + 5 + 5 = 15 và viết được phép nhân 5 x 3 = 15. Ngoài ra giáo viên cần tìm thêm những đồ dùng phụ trợ để cho tiết học thêm sinh động, hoặc lựa chọn các trò chơi để củng cố kiến thức khắc sâu bài. Ví dụ: Dạy bài lít ngoài đồ dùng là ca một lít và chai 1 lít giáo viên còn phải tìm thêm can 5 lít, cốc loại 3 chiếc 1 lít, 4 chiếc 1 lít và chất lỏng như rượu, sữa để khắc sâu cho các em về biểu tượng nhiều hơn, ít hơn với các chất lỏng và để tổ chức trò chơi khi đong chất lỏng cũng là để củng cố đơn vị đo dung tích. 4. Nâng cao hiệu quả chất lượng giờ dạy toán 2 thông qua hoạt động trong nhóm chuyên môn. Với sự chỉ đạo của Sở giáo dục, Phòng giáo dục, chuyên môn nhà trường, hàng tuần tổ nhóm chuyên môn tổ chức sinh hoạt chuyên môn với nội dung bàn bài khó, tiết khó, chương khó, cùng nhau chỉ ra những tiết khó, phần khó, thảo luận đưa ra các biện pháp, cách giải quyết tốt nhất cũng như đưa ra các biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học Toán 2 nói chung và tiết khó nói riêng. Kiểm chứng lại bằng cách tổ chức lên lớp dự giờ các tiết khó ấy giúp các tiết dạy trở nên nhẹ nhàng, dễ dàng khi giảng dạy, và rút kinh nghiệm cho những tiết sau. Tóm lại: Để thực hiện tốt dạy Toán 2 theo hướng đổi mới, cần phải có sự kết hợp các biện pháp nêu trên. Người giáo viên phải biết gắn kết, xâu chuỗi nhịp nhàng giữa các hoạt động của thầy và của trò, để định hướng cho học sinh con đường tự lĩnh hội tự, phát hiện ra kiến thức mới. Từ đó học sinh tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng hiệu quả. C. KẾT LUẬN Qua quá trình vừa nghiên cứu vừa áp dụng một số biện pháp vào thực tế giảng dạy Toán 2, khối 2 chúng tôi đã thu được kết quả khả quan. Học sinh học tập rất tích cực, hứng thú, chủ động trong việc lĩnh hội tri thức, không khí lớp học sôi nổi, hào hứng. Các em được tự mình phát hiện tìm tòi cái mới, kiến thức mới, các em cảm thấy thú vị và thích thú. Giáo viên đóng vai trò là người tổ chức điều khiển các hoạt động định hướng, gợi mở, dẫn dắt học sinh lĩnh hội kiến thức mới. - Để có được tiết dạy Toán đạt hiệu quả cao, người giáo viên phải có bài soạn tốt. Bởi thế giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung chương trình và mức độ yêu cầu của bài. Từ đó có kế hoạch bài học chu đáo thể hiện rõ từng hoạt động học tập, có chốt kiến thức sau mỗi hoạt động, mỗi bài. Dự kiến sai lầm học sinh thường mắc phải, để sửa sai kip thời cho từng học sinh. Sự chuẩn bị bài chu đáo, kĩ lưỡng giúp người thầy thêm tự tin. - Giáo viên cần khéo léo sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học các hình thức dạy học như dạy học cá nhân, theo nhóm, tổ chức tốt các trò chơi học tập để dẫn dắt học sinh để các em tự phát hiện, tự giải quyết nhiệm vụ của bài, tự chiếm lĩnh kiến thức mới. - Xây dựng tốt nề nếp học toán cho học sinh, luôn động viên khuyến khích học sinh trong các hoạt động học tập, luôn quan tâm đến mọi đối tượng học sinh. Căn cứ vào đặc điểm lớp học để lựa chọn phương pháp dạy học cho phù hợp. - Sự chuẩn bị chu đáo đồ dùng dạy học trước mỗi tiết học và biết lựa chọn từng đồ dùng hợp lí vào các tiết dạy, làm nên thành công của tiết dạy. Kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học hiện đại trong dạy học toán, để các tiết dạy sinh động hơn , nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. - Về học sinh + Có đầy đủ đồ dùng học tập và luôn có sự chuẩn bị đầy đủ chu đáo, đồ dùng học toán trước mỗi tiết học. + Thao tác đồ dùng thành thạo, chính xác góp phần vào việc hình thành kiến thức mới và khắc sâu bài tốt hơn . Thực hiện nghiêm túc quy chế chuyên môn, sinh hoạt tổ nhóm chuyên môn 1 tuần một lần có chất lượng, học hỏi các tổ nhóm chuyên môn khác trong nhà trường. - Ngoài ra việc thăm lớp, dự giờ lên các tiết khó ở tổ chuyên môn hay dự các chuyên đề trường bạn, cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, nhất là giảng dạy dạy Toán 2. Trong quá trình thực hiện chuyên đề “Dạy Toán như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới” chúng tôi đã tìm đọc và tham khảo các tài liệu dạy học của bộ môn, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp. Tuy kết quả có khả quan, nhưng chuyên đề không tránh khỏi những khiếm khuyết. Chúng tôi rất mong có sự đóng góp ý kiến xây dựng chuyên đề, của các đồng chí lãnh đạo chuyên môn, các đồng nghiệp để chuyên đề mang tính khả thi hơn. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn! Vĩnh Mỹ B, ngày 24 tháng 02 năm 2019 BGH DUYỆT Soạn và báo cáo Trịnh Chúc Linh
File đính kèm:
- chuyen_de_day_hoc_toan_lop_2_nhu_the_nao_de_dap_ung_yeu_cau.doc