Sáng kiến kinh nghiệm Một ít kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học môn Khoa học ở Lớp 5

Cơ sở lý luận:

Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” là mô hình giáo dục tương đối mới trên thế giới, có tên tiếng Anh là “Hands - on”, tiếng Pháp là “La main à la pâte”, đều có nghĩa là “bắt tay vào hành động”; “bắt tay làm thí nghiệm”, “bắt tay vào tìm tòi nghiên cứu”.

"Bàn tay nặn bột’’ là phương pháp hình thành kiến thức khoa học cho học sinh, dưới sự hướng dẫn của giáo viên và bằng chính các hành động của học sinh, để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu Đứng trước một sự vật, hiện tượng hay một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, đề ra các giải pháp, các thí nghiệm, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Phương pháp tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề. Trẻ luôn cảm thấy tò mò trước những hiện tượng mới mẻ của cuộc sống xung quanh, các em luôn đặt ra các câu hỏi “Tại sao?”.

Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành, quan sát qua thực nghiệm. Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Qua đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong, phương pháp làm việc khi trưởng thành.

Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, Bàn tay nặn bột luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.

Mục tiêu của Bàn tay nặn bột là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài ra còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.

 

doc11 trang | Chia sẻ: thuphuong25 | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một ít kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học môn Khoa học ở Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Việc hình thành cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học, sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại khi nền kinh tế tri thức đang dần chế ưu thế. Một môn học góp phần hình thành các khái niệm cơ bản về khoa học là môn Khoa học.
Khoa học là môn học chiếm vị trí quan trọng ở bậc tiểu học. Đây là môn học tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học. Vì  vậy, môn học này có nhiều điều kiện thuận lợi để vận dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học để bước đầu hình thành cho học sinh phương pháp học tập mang tính chất tự tìm tòi nghiên cứu, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo cho các em.
Thực tiễn dạy học môn Khoa học ở trường tiểu học cho thấy, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc sử dụng phương pháp dạy học. Các phương pháp dạy học truyền thống vẫn chiếm ưu thế, học sinh học tập còn thụ động. Các thí nghiệm trong bài còn mang tính chất minh họa. Giáo viên còn tự mình trình bày, biểu diễn các thí nghiệm để minh họa cho kiến thức của bài học mà ít tổ chức cho học sinh tham gia hoạt động này để các em chiếm lĩnh tri thức khoa học một cách chủ động, thoả mãn  nhu cầu tìm tòi hiểu biết, óc tò mò khoa học của học sinh. Vì vậy các giờ học còn mang tính áp đặt, kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh trong giờ học chưa cao, các em ít được tham gia vào quá trình dạy học.
Việc tìm kiếm và vận dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy học các môn học ở tiểu học nói chung và môn Khoa học nói riêng là vấn đề quan trọng nhằm hình thành cho học sinh phương pháp học tập độc lập, sáng tạo, qua đó nâng cao chất lượng dạy học. Một trong những phương pháp có nhiều ưu điểm, đáp ứng được mục tiêu trên và có thể vận dụng tốt vào quá trình dạy học môn Khoa học ở tiểu học là phương pháp "Bàn tay nặn bột". “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp dạy học tích cực, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học, đặc biệt là đối với bậc tiểu học, khi học sinh đang ở giai đoạn bắt đầu tìm hiểu mạnh mẽ các kiến thức khoa học. Trong những năm gần  đây, phương pháp "Bàn tay nặn bột" được đưa vào trong dạy học môn Khoa học. Tuy nhiên, việc thực hiện chỉ ở mức độ, ở một số bài. Việc nghiên cứu áp dụng phương pháp này vào dạy học sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường tiểu học là vấn đề hết sức cần thiết để góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Có như vậy mới hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, giúp các em thực sự trở thành "chủ thể" tìm kiếm tri thức. Đó chính là lý do vì sao tôi chọn đề tài “Một ít kinh nghiệm khi sử dụng phương pháp Bàn tay nặn bột trong dạy học môn Khoa học ở lớp 5”. 
II. Mục tiêu của đề tài: 
 - Nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học ở trường tiểu học.
 	III. Nhiệm vụ nghiên cứu:
 - Tìm hiểu cơ sở lý luận của phương pháp "Bàn tay nặn bột".
 - Điều tra thực trạng sử dụng phương pháp dạy học môn Khoa học của giáo viên ở một số lớp.
 	IV. Đối tượng nghiên cứu:
 - Quy trình sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" trong dạy học môn Khoa học.
 - Khó khăn và thuận lợi khi sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột".
 - Những đề xuất khi thực hiện quy trình sử dụng PPBTNB
 	V. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
 - Môn Khoa học lớp 5, thuộc nhóm kiến thức về các chủ đề: Vật chất và năng lượng, Động, thực vật.
 	VI. Phương pháp nghiên cứu:
 - Phương pháp nghiên cứu lý luận.
 - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. 
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận: 
Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” là mô hình giáo dục tương đối mới trên thế giới, có tên tiếng Anh là “Hands - on”, tiếng Pháp là “La main à la pâte”, đều có nghĩa là “bắt tay vào hành động”; “bắt tay làm thí nghiệm”, “bắt tay vào tìm tòi nghiên cứu”. 
"Bàn tay nặn bột’’ là phương pháp hình thành kiến thức khoa học cho học sinh, dưới sự hướng dẫn của giáo viên và bằng chính các hành động của học sinh, để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu Đứng trước một sự vật, hiện tượng hay một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, đề ra các giải pháp, các thí nghiệm, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức. Phương pháp tập trung phát triển khả năng nhận thức của học sinh, giúp các em tìm ra lời giải đáp cho những thắc mắc trẻ thơ bằng cách tự đặt mình vào tình huống thực tế, từ đó khám phá ra bản chất vấn đề. Trẻ luôn cảm thấy tò mò trước những hiện tượng mới mẻ của cuộc sống xung quanh, các em luôn đặt ra các câu hỏi “Tại sao?”. 
Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là sự quy trình hóa một cách logic phương pháp dạy học, dẫn dắt học sinh đi từ chưa biết đến biết theo một phương pháp mới mẻ là để học sinh tiếp xúc với hiện tượng, sau đó giúp các em giải thích bằng cách tự mình tiến hành, quan sát qua thực nghiệm. Phương pháp này giúp các em không chỉ nhớ lâu, mà còn hiểu rõ câu trả lời mình tìm được. Qua đó, học sinh sẽ hình thành khả năng suy luận theo phương pháp nghiên cứu từ nhỏ và hình thành tác phong, phương pháp làm việc khi trưởng thành. 
Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, Bàn tay nặn bột luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. 
Mục tiêu của Bàn tay nặn bột là tạo nên tính tò mò, ham muốn khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài ra còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kĩ năng diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết cho học sinh.
II. Thực trạng:
Ý thức được vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trong trường tiểu học và tầm quan trọng của phương pháp BTNB trong việc hình thành ý thức khoa học, niềm say mê khoa học cho học sinh ngay từ lứa tuổi tiểu học nên cấp quản lý đã tổ chức triển khai tập huấn cho giáo viên về phương pháp này. Nhờ đó phương pháp BTNB đã được nhân rộng hơn. Thời gian qua phương pháp BTNB được áp dụng và đạt được những kết quả nhất định. Ở một số trường đã tổ chức chuyên đề giảng dạy theo phương pháp BTNB để các trường bạn đến dự, chia sẻ kinh nghiệm cho nhau. Còn ở đơn vị trường, các tổ cũng tổ chức thao giảng theo phương pháp BTNB để đồng nghiệp học hỏi nhau.
a) Thuận lợi:
-Phương pháp “Bàn tay nặn bột” là phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu nên chỉ áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. Với phương pháp này, HS phải tự làm các thí nghiệm để tiếp thu kiến thức khoa học, tự tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra... Vai trò của GV ở phương pháp này không phải là truyền thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là giúp HS xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với HS. Các em làm việc nhiều hơn, suy nghĩ nhiều hơn và được trình bày quan điểm. Các em có thể ghi nhớ kiến thức ngay trên lớp và biết vận dụng vào cuộc sống.
b) Khó khăn:
- PP BTNB là một phương pháp dạy học mới, thời gian tập huấn, nghiên cứu còn hạn chế nên trong triển khai thực hiện còn gặp nhiều khó khăn. 
- Để thực hiện phương pháp này, người GV phải có kiến thức khoa học tự nhiên vững vàng và khả năng linh hoạt để ứng phó với mọi tình huống bất ngờ xảy ra trong tiết học. Hai điều này không phải GV tiểu học nào cũng có được. Về phía HS, các em phải có vốn kiến thức thực tế phong phú, phải chủ động học tập, phải năng động, sáng tạo.
- Điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng: bàn ghế được bố trí theo dãy, nối tiếp nhau không thuận lợi cho việc tổ chức học theo nhóm; thiếu thiết bị hỗ trợ.
- Sĩ số học sinh trong lớp đông sẽ khó khăn cho việc tổ chức học tập theo nhóm, hoạt động tham quan, dã ngoại, điều tra thực tế cho học sinh.
- Một số dụng cụ thiết bị dành cho thí nghiệm chưa đồng bộ.
- Nguồn tài liệu bổ trợ cho hoạt động tìm tòi, khám phá của học sinh còn hạn chế.
- Thời lượng 1 tiết học (40 phút) không đủ để thực hiện bài học theo PP BTNB.
	- Những học sinh chậm khó hòa nhập với học sinh học tốt khi tham gia thảo luận nhóm.
III. Biện pháp giải quyết:
Phương pháp BTNB dựa trên thực nghiệm và nghiên cứu cho phép giáo viên hiểu rõ hơn cách thức mà học sinh tiếp thu các kiến thức khoa học. Phương pháp BTNB cho thấy cách thức học tập của học sinh là tò mò tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu. Các hoạt động nghiên cứu cũng gợi ý cho học sinh tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho riêng mình, qua sự tương tác với các học sinh khác cùng lớp để tìm phương án giải thích các hiện tượng. Các suy nghĩ ban đầu của học sinh rất nhạy cảm, ngây thơ, có tính logic theo cách suy nghĩ của học sinh, tuy nhiên thường là sai về mặt khoa học. Vì thế việc xác định kiến thức khoa học phù hợp với học sinh theo độ tuổi là một vấn đề quan trọng đối với giáo viên. Giáo viên phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến thức này không? Cần thiết giới thiệu kiến thức này vào thời điểm nào? Cần yêu cầu học sinh hiểu kiến thức này ở mức độ nào? Giáo viên có thể tìm câu hỏi này thông qua việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ giáo viên (sách giáo viên, sách tham khảo, hướng dẫn thực hiện chương trình) để xác định rõ hàm lượng kiến thức phù hợp với trình độ cũng như độ tuổi của học sinh và điều kiện địa phương.
1/ Muốn thực hiện tốt PPBTNB, mỗi GV phải nắm vững “10 nguyên tắc cơ bản khi sử dụng PPBTNB”
	2/ Giáo viên phải nắm vững 5 bước của tiến trình dạy học theo PPBTNB:
Bước 1: Đưa ra tình huống xuất phát và nêu vấn đề.
Bước 2: Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh. 
Bước 3: Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi.
Bước 4: Thực hiện phương án tìm tòi.
Bước 5: Kết luận kiến thức.
3/ Vai trò của người giáo viên:
Khi giảng dạy bằng PPBTNB, giáo viên là người trung gian:
- Là nhà trung gian giữa "thế giới" khoa học và HS.
- Là người đàm phán với học sinh những thay đổi nhận thức liên quan với những câu hỏi bằng những thí nghiệm hoặc những lập luận chính xác.
- Hành động bên cạnh với mỗi học sinh cũng như với mỗi nhóm học sinh và cả lớp.
4/ Vai trò của học sinh trong giờ học với PPBTNB:
-HS quan sát hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với HS về đề tài và từ đó các em sẽ hình thành các nghi vấn.
-HS tìm tòi, suy nghĩ và đề ra những bước đi cụ thể của thực nghiệm, hoặc chỉnh lí lại những ca thất bại nhờ tra cứu tư liệu.
-HS trao đổi và lập luận trong suốt quá trình hoạt động, các em chia sẻ với nhau những ý tưởng của mình, cọ sát những quan điểm của nhau và hình thành những kết luận tạm thời hoặc cuối cùng bằng ghi chép, biết phát biểu.
Như vậy là học sinh đã biết nghe lời người khác, hiểu người khác, tôn trọng người khác và biết bảo vệ ý kiến của mình.
5/ Vai trò của vở thực nghiệm:
- Vở thực nghiệm không áp đặt cách ghi nhưng có mẫu sẽ thuận tiện cho các em trong việc ghi chép và đỡ mất thời gian của tiết học. Có nhiều cách để ghi: có thể các em sẽ ghi bằng văn bản, bằng hình vẽ hoặc bằng sơ đồ.
6/ Tổ chức lớp học: 
Thực hiện dạy học theo phương pháp BTNB có rất nhiều hoạt động theo nhóm. Vì vậy, nếu muốn tiện lợi cho việc tổ chức thảo luận, hoạt động nhóm thì lớp học cần phải sắp xếp lại bàn ghế theo nhóm cố định. Do đó, giáo viên cần bố trí bàn ghế, vật dụng trong lớp phù hợp với hoạt động nhóm, ngoài ra giáo viên phải tạo được không khí lớp học vui vẻ, thoải mái, thích thú cho học sinh trong học tập. 
	7/ Đặt câu hỏi: 
Trong dạy học theo phương pháp BTNB, câu hỏi của giáo viên đóng vai trò quan trọng cho sự thành công của phương pháp và thực hiện ý đồ dạy học. Câu hỏi tốt có thể giúp cho học sinh xác định rõ phần trả lời của mình và làm tiến trình dạy học đi đúng hướng. Trong dạy học chúng ta thường sử dụng câu hỏi nêu vấn đề và câu hỏi gợi ý. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. Các câu hỏi gợi ý được chúng ta đặt ra và sử dụng trong qua trình làm việc với học sinh nhằm gợi ý, định hướng cho các em rõ hơn hoặc kích thích một suy nghĩ mới của học sinh.
 8/ Một số vấn đề giáo viên và học sinh cần lưu ý khi thực hiện PPBTNB:
a) Đối với giáo viên:
Trên thực tế, phương pháp “Bàn tay nặn bột” không hoàn toàn là mới đối với chúng ta. Về cơ bản, đây là phương pháp tổng hợp của các phương pháp dạy học trước đây mà chúng ta đã từng tiếp xúc như: phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học tích cực... Trong phương pháp này, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là:
- Tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp phải rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. 
- Giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài dạy. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với những vấn đề thiết thực, gần gũi trong cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương.
- Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lô-gic, trọng tâm, có kiến thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế.
- Giáo viên nêu vấn đề hay câu hỏi xuất phát phù hợp là câu hỏi tương thích với trình độ nhận thức của học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức cho học sinh, kích thích nhu cầu  tìm tòi - nghiên cứu của học sinh. 
- Giáo viên cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình.
- Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ cho bài dạy nhằm lôi cuốn, hấp dẫn, học sinh dễ hiểu, dễ vận dụng.
b) Đối với học sinh
- Học sinh có thể tiếp cận thực sự với tìm tòi - nghiên cứu và cố gắng để hiểu kiến thức. Vì vậy điều cần thiết là học sinh phải hiểu rõ câu hỏi hay vấn đề đặt ra cần giải quyết trong bài học. 
- Để đạt được yêu cầu này, bắt buộc học sinh phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi. Có nghĩa là học sinh cần phải có thời gian để khám phá chủ đề của bài học, thảo luận các vấn đề và các câu hỏi đặt ra để từ đó có thể suy nghĩ về những gì cần được nghiên cứu, phương án thực hiện việc nghiên cứu đó như thế nào?
- Được khuyến khích đề xuất ý kiến và cùng các thầy cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy học có hiệu quả ngày càng cao. Có tinh thần tự giác say mê đối với môn học, yêu thích môn học.
- Tích cực chuẩn bị bài, chuẩn bị tâm thế để lĩnh hội kiến thức bài giảng.
- Tích cực rèn luyện, hứng thú say mê trong học tập, chủ động tìm hiểu kiến thức, dưới sự dìu dắt của thầy, cô giáo. Phải rèn cho bản thân năng lực tự học, tự đánh giá. Không ngừng vươn lên trong học tập
- Biết rèn luyện kĩ năng và phương pháp học tập, khả năng tự tìm hiểu, khám phá sáng tạo vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Rèn luyện kĩ năng hoạt động nhóm, có tinh thần hợp tác với thầy cô, bạn bè. Tập trung suy nghĩ, chủ động thoát li sách giáo khoa để trả lời câu hỏi của giáo viên.
IV. Kết quả đạt được: 
 - Trong năm học 2015-2016, trường chúng tôi đã khuyến khích giáo viên vận dụng PPBTNB trong giảng dạy. Tuy có khó khăn nhưng tôi và anh chị em đồng nghiệp tích cực trao đổi, thảo luận, hướng dẫn nhau cùng thực hiện. 
 - Toàn khối 5 của chúng tôi đã thực hiện 54 tiết Khoa học bằng phương pháp BTNB. Bản thân tôi đã thao giảng ở tổ một tiết dạy theo PPBTNB và được dự 5 tiết dạy cũng thực hiện theo phương pháp này.
 - HS dần quen với phương pháp học tập này và rất hào hứng, phấn khởi khi tham gia tiết học. Các em đã biết trình bày biểu tượng ban đầu của mình bằng những hình vẽ sinh động, những câu văn thú vị. Các em còn tranh nhau đặt những câu hỏi lí thú cho bài học.
 - Kĩ năng đặt câu hỏi và trình bày ý kiến của học sinh ngày càng tiến bộ. Các em biết cách tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình mà không làm tổn thương bạn. Biết tự mình khám phá và khẳng định kiến thức trong quá trình học tập. 
V. Một số kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện PP BTNB
- Để thực hiện phương pháp này, người GV phải dành thời gian nghiên cứu, tìm hiểu để có kiến thức khoa học tự nhiên vững vàng, sâu rộng và khả năng linh hoạt để ứng phó với mọi tình huống bất ngờ xảy ra trong tiết học. Đây là hai điều kiện cần có khi giáo viên muốn giảng dạy theo PPBTNB tốt. 
- Để tiết học đạt hiệu quả cao, giáo viên cần phải chọn bài dạy phù hợp, chuẩn bị đồ dùng dạy học, lập kế hoạch, tổ chức cho học sinh học tập.
- Giáo viên phải nghiên cứu sâu bài giảng, thực hiện các thí nghiệm để dự đoán kết quả.
- Giáo viên phải thật sự có trách nhiệm, yêu thích để đầu tư thời gian, công sức nghiên cứu thêm để hiểu sâu hơn về phương pháp đổi mới này.
- Cần sử dụng các đồ dùng dạy học đơn giản hiện có vào bài giảng. Tự làm thiết bị, đồ dùng dạy học để phục vụ bài giảng.
- Với một số thí nghiệm đơn giản, giáo viên có thể giao việc cho học sinh bằng những phiếu học tập để học sinh tự chuẩn bị các vật liệu cho nhóm của mình.
- Ứng dụng CNTT vào bài dạy hợp lý, không nên lạm dụng.
- Tổ chức lớp học hợp lý: Sắp xếp bàn ghế, chia nhóm học sinh, vị trí dành riêng để vật dụng
- Sử dụng bản đồ tư duy để hệ thống hóa kiến thức.
- Phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học khác phù hợp với các nội dung trong cùng bài dạy. 
- Cần chú ý rèn cho học sinh kỹ năng diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn và đặc biệt khuyến khích tạo điều kiện cho các em bộc lộ quan điểm ban đầu của mình.
C. Kết luận
 Phương pháp ‘Bàn tay nặn bột” là một trong những phương pháp dạy học tiến tiến. Phương pháp này giúp cho các em tự phát hiện vấn đề, có nghĩa là nhu cầu học xuất phát từ chính các em. Các em có thể sáng tạo trong hiện tại và trong tương lai. Phương pháp này phù hợp với đặc điểm tâm lí, đặc điểm nhận thức của lứa tuổi Tiểu học. 
	Chúng tôi mong muốn phương pháp “Bàn tay nặn bột” được áp dụng rộng rãi hơn, phổ biến hơn và trở thành một phương pháp dạy học quen thuộc trong trường Tiểu học trên đất nước Việt Nam. Điều này cũng đồng nghĩa với việc chuẩn bị nguồn nhân lực đủ sức mạnh cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thân yêu, thúc đẩy nhanh chóng việc đất nước ta hội nhập với các cường quốc trên thế giới.
 Giáo viên thực hiện
 Nguyễn Thị Hoa Trân

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_it_kinh_nghiem_khi_su_dung_phuong.doc
Sáng Kiến Liên Quan