Vận dụng kiến thức liên môn để sáng tạo mô hình “Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động” trong phần tiếng Việt - Ngữ văn 7

PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong chương trình Ngữ văn lớp 7 cấp Trung học Cơ sở, có một nội dung bài học ở phân môn Tiếng Việt rất giống với nội dung trong môn học tiếng Anh mà giáo viên có thể liên hệ vận dụng kiến thức để liên môn tương hỗ qua lại lẫn nhau khi giảng dạy tiếng Việt cũng như giảng dạy bộ môn Tiếng Anh. Nhưng qua nhiều năm quan sát và tham gia dự giờ các tiết học này, tôi nhận thấy hầu hết giáo viên dạy phân môn Tiếng Việt chưa vận dụng liên môn Tiếng Anh trong giờ dạy tiếng Việt và ngược lại giáo viên dạy bộ môn Tiếng Anh trong nhà trường hầu như cũng chưa thể hiện được nội dung bài dạy có vận dụng kiến thức liên môn với tiếng mẹ đẻ. Khi dạy, hầu như giáo viên Ngữ văn chỉ bám vào nội dung bài dạy ở sách giáo khoa mà chưa đào sâu tìm tòi kiến thức về bài học này. Thực sự mà nói vẫn còn nhiều giáo viên chưa tìm hiểu kỹ, chưa hiểu chắc chắn về nội dung bài học, vì vậy không khỏi những thiếu sót trong quá trình truyền đạt kiến thức cho học sinh.

Là giáo viên Ngữ văn đã đứng trên bục giảng 12 năm lại đam mê tiếng Anh nên bản thân tôi không ngừng nổ lực học tập và hiện tại tôi đã tốt nghiệp thêm văn bằng hai (cử nhân tiếng Anh) với mong muốn sẽ trở thành một giáo viên dạy song ngữ (dạy Ngữ văn được bằng cả hai thứ tiếng: tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh). Không dừng lại ở đó, tôi mong muốn được hiểu sâu hơn, khám phá được những điều hay, giàu đẹp, đặc sắc và phong phú của tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ nên tôi phấn đấu học lên cao hơn (hiện tại bản thân tôi là học viên cao học ngành Ngôn ngữ học của trường Đại học sư phạm TPHCM) để tìm hiểu về sự giàu đẹp của tiếng mẹ thiêng liêng vừa để nâng cao trình độ của bản thân phục vụ cho công tác chuyên môn của mình.

Từ những trải nghiệm trong dạy học, từ những nghiên cứu trong học tập mà tôi nhận ra có rất nhiều điểm mà giáo viên Trung học cơ sở (THCS) khi giảng dạy phân môn Tiếng Việt cần phải lưu ý. Để bài dạy được sâu sắc và có cái nhìn toàn diện, đòi hỏi người thầy phải tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu kỹ nội dung trước khi truyền đạt cho học sinh của mình. Đặc biệt trong giảng dạy, có những nội dung có thể tích hợp liên môn, giáo viên cũng cần có những thiết kế phù hợp để vận dụng kiến thức liên môn làm sáng tỏ bài học của mình một cách tốt nhất. Có như thế, giờ học mới trở nên lý thú, mới phát triển năng lực tư duy cho học sinh trong điều kiện yêu cầu ngày càng cao của giáo dục nhất là như hiện nay.

Từ những thực tế trong dạy và học, tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài: Vận dụng kiến thức liên môn để sáng tạo mô hình “Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động” trong phần tiếng Việt - Ngữ văn 7. Đề tài không mới đối với những người làm nghiên cứu trong lĩnh vực Ngôn ngữ học nhưng trong phạm vi đề tài này, bản thân tôi vừa muốn góp phần để những giáo viên ở bậc THCS có cái nhìn đúng đắn, toàn diện hơn đồng thời bản thân cũng muốn đóng góp thêm những cái mới khi vận dụng kiến thức liên môn vào dạy đơn vị bài học “Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động ở lớp 7 (Phân phối chương trình: tiết 94 và tiết 99)”.

 

docx39 trang | Chia sẻ: haianh98 | Lượt xem: 5023 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Vận dụng kiến thức liên môn để sáng tạo mô hình “Chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động” trong phần tiếng Việt - Ngữ văn 7", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 Đ/B D1 Đ D2)
3. Vào ngày 8 tháng 3, em tặng mẹ đóa hồng.
D1
Đ
TrN
D3
D2
- Vào ngày 8 tháng 3, Nam tặng Lan đóa hồng này. (TrN, D1 Đ D2 D3)
Đ
D3
D1
D2
TrN
(D1 Đ D2 D3, TrN) Lan được Nam tặng đóa hồng này vào ngày 8 tháng 3. 
Đ
D1
D3
D2
- TrN
Vào ngày 8 tháng 3, Nam tặng Lan đóa hồng này. (TrN, D1 Đ D2 D3)
Đ
D1
TrN
D2
D3
(D3 D2 Đ/B D1 Đ, TrN) Đóa hồng này Lan được Nam tặng vào ngày 8 tháng 3. 
3.6. Cách nhận diện những câu bình thường, câu chủ động và câu bị động. 
3.6.1. Nhận diện câu chủ động và câu bị động.
 Xét về mặt hình thức, một câu bị động điển hình của tiếng Việt có thể được nhận diện và phân biệt với các chủ động dựa trên các tiêu chí sau: 
D3
Đ
D1
D2
Ví dụ: Nam tặng Lan đóa hồng này. (Câu chủ động)
Đ
D1
D2
D3
Đóa hồng này Lan được Nam tặng. (câu bị động)
- Chủ ngữ của câu bị động là bổ ngữ của câu chủ động tương ứng. (đóa hồng này)
- Vị ngữ trong CBĐ tiếng Việt được cấu tạo trực tiếp từ vị ngữ của CCĐ tương ứng bằng cách thêm trợ động từ được/bị vào trước động từ ngoại động. (tặng)
- Bổ ngữ của CBĐ chính là chủ ngữ trong CCĐ tương ứng (Nam). Bổ ngữ này thường bị tỉnh lược trong bị động: “Đóa hồng này Lan được Nam tặng.”. Nếu không bị tỉnh lược thì nó có thể đứng trước V: “Đóa hồng này Lan được Nam tặng.” hoặc chuyển vị trí sau V với điều kiện nó có thêm giới từ bởi “Đóa hồng này Lan được tặng bởi Nam.”
Trong bất kì ví dụ nào đã phân tích ở trên ta cũng thể hiện rõ qui tắt này.
3.6.2. Câu bình thường và câu chủ động.
Quan sát các ví dụ sau:
1. Nó rời sân ga (Không nói: Sân ga bị/ được nó rời.)
2. Nó vào nhà. (Không nói: Nhà được/bị nó vào.)
3. Nhà gần hồ (Không nói: Hồ được/bị gần nhà.)
4. Con đẹp giống mẹ. (Không nói: Mẹ được/bị đẹp giống con.)
5. Em bé ăn cơm. (Không nói: Cơm được/bị em bé ăn.) 
6. Nó định về quê. (Không nói: Quê được/bị nó định về.)
.
Những câu này cũng có cấu trúc và hình thức giống câu chủ động như đã bàn luận ở trên. Nghĩa là cũng có D1 Đ D2. Tuy nhiên Nếu đây là câu chủ động thì ta sẽ chuyển được thành kiểu câu bị động tương ứng: D2 Đ D1 nhưng vấn đề là qua các ví dụ 1,2,3,4,5,6  thì ta không thể chuyển được câu bị động tương ứng với nó. Vậy những câu này là câu bình thường, không phải câu chủ động (câu chủ động chỉ được xác định trong đối lập với câu bị động tương ứng). Vì thế, khi biến đổi câu chủ động thành câu bị động, cần lưu ý từng trường hợp cụ thể, tránh áp dụng một cách máy móc.
3.6.3. Nhận diện những câu có dùng được/bị nhưng không phải là câu bị động. 
Cần phân biệt các kiểu câu có dùng được/bị trong tiếng Việt tương tự với câu bị động về mặt hình thức và ý nghĩa nhưng chúng không phải là câu bị động.
Phân biệt:
a) Kiểu câu chủ động – ngoại động từ. D1 được/bị Đ 
Trong đó: D1: Chủ thể (hành thể, tác thể) của sự tình do Đ (động từ) biểu thị; còn Đ: động từ nội động hoặc có thể là động từ ngoại động. 
Đ
Đ
D1
D1
VD: - Tôi bị ngã. - Nó được nghỉ. (Đ ở đây là động từ nội động)
Đ
Đ
D1
Tôi bị nghe lời phàn nàn. - Nó được xem phim. (Đ là động từ ngoại động)
b) Kiểu câu bị động – ngoại động từ. D2 được/bị D1 Đ. 
Trong đó: D2: biểu thị vai nghĩa phi chủ thể (đối thể, bị thể, nhận thể); với Đ: là động từ ngoại động. 
Ở kiểu câu bị động này, thể từ D1 biểu thị tác thể có thể xuất hiện trước động từ (Đ) hoặc bị lược bỏ (giống cách chuyển theo cách 2 trong phần ghi nhớ SGK/57).
Trường hợp xuất hiện D1: D2 được/bị D1 Đ. - Tôi bị ông ấy mắng. – Nó được cô giáo khen.
Trường hợp lược bỏ D1: D2 được/bị D1 Đ. VD: - Tôi bị mắng. – Nó được khen. Trường hợp này, kiểu câu bị động sẽ có cấu trúc bề mặt giống với kiểu câu chủ động ở trường hợp (a) ở mục 3.6.3 này.
So sánh: 	1.Tôi bị ngã. 
2. Tôi bị mắng.
 	3. Nó được xem phim 
4. Nó được tặng giấy khen.”
Vậy hai trường hợp so sánh này, làm sao có thể phân biệt được đâu là câu chủ động và đâu là câu bị động có cấu trúc giống câu chủ động.
Thực ra, hai câu trên chỉ giống nhau về hình thức bề mặt nhưng chúng khác nhau về cấu trúc bề sâu. 
Câu: 1, 3 có chủ ngữ trùng với chủ thể (quá trình).
Còn câu: 2, 4 có chủ ngữ trùng với đối thể (hành động).
Ta có thể dùng phép cải biến bằng cách thêm một thể từ biểu thị vai nghĩa chủ thể vào trước Đ để phân biết hai cấu trúc này.
1. Tôi bị ngã. à Tôi bị mẹ ngã. (không chấp nhận được Kí hiệu (-))
2. Tôi bị mắng. à Tôi bị mẹ mắng. (chấp nhận được. Kí hiệu (+))
3. Nó được xem phim. à Nó được nhà trường xem phim. (-)
4. Nó được tặng giấy khen. à Nó được nhà trường tặng giấy khen. (+)
Dựa vào kết quả cải biến này, có thể kết luận các câu 1, 3 và 2, 4 là những kiểu câu khác nhau. 
Câu 1, 3 là kiểu câu chủ động. D1 được/bị Đ.
Câu 2, 4 là kiểu câu bị động. D2 được/bị D1 Đ. (D1 có thể lược bỏ).
Bài tập: Các câu sau đây có từ được/bị có phải là câu bị động không?
1. Bạn em được giải thưởng. 
2. Tay em bị đau. 
3. Con gái đã bơi được. 
4. Cô tôi tìm được cuốn từ điển.
Các câu 1,2,3,4,5 có hình thức giống câu bị động vì có từ “bị/được” nhưng thực ra nó không phải là câu bị động vì ta không thể dùng phép cải biến để thêm một thể từ biểu thị vai nghĩa chủ thể vào trước Đ trong các câu một cách hợp lý được. 
1. Bạn em được giải thưởng. à Bạn em được nhà trường giải thưởng. (-)
2. Tay em bị đau. à Tay em bị bạn đau. (-)
3. Con gái đã bơi được. à Con gái đã Lan bơi được. (-)
4. Cô tôi tìm được cuốn từ điển.à Cô tôi mẹ tìm được cuốn từ điển. (-)
Như vậy, không phải câu nào có các từ bị, được cũng là câu bị động.
3.7. Bàn thêm về một số quan niệm, nhìn nhận về câu bị động trong tiếng Việt.
Nhìn chung quan niệm về có hay không có câu bị động trong tiếng Việt thì có ba loại ý kiến sau đây: 
- Tiếng Việt không có các phạm trù hình thái học do đó không có cấu trúc bị động. 
- Tiếng Việt là một ngôn ngữ “thiên chủ đề” nên không có cấu trúc “bị động”, hoặc bị động không phải là hiện tượng cú pháp cần xem xét. 
- Được/ bị không phải là hư từ (trợ động từ), mà có vai trò như các động từ tình thái hay động từ thực nên không thể là dấu hiệu đánh dấu quan hệ bị động. 
a) Về loại ý kiến thứ nhất, không nên đồng nhất “dạng bị động” với tư cách là một phạm trù hình thái học với cấu trúc bị động. Ý kiến này cũng đã được nhiều tác giả đề cập đến từ những góc độ khác nhau (Nguyễn Kim Thản 1977, Hoàng Trọng Phiến 1980, Lê Xuân Thại 1989, Diệp Quang Ban và Nguyễn Thị Thuận 2000). Tiếng Việt không biểu hiện ý nghĩa bị động bằng các phương tiện hình thái học, và vì vậy không có dạng bị động như một phạm trù hình thái học nhưng các tác giả này cũng cho rằng tiếng Việt không có dạng bị động thì không có nghĩa là tiếng Việt không có cấu trúc bị động hay câu bị động, xét trên phương diện cú pháp . 
b) Về loại ý kiến thứ hai cho rằng tiếng Việt là ngôn ngữ “thiên chủ đề” (chứ không phải "thiên chủ ngữ") do đó không có cấu trúc bị động. 
Theo Ch. N. Li và S. A. Thompson không hoàn toàn loại trừ sự có mặt của hiện tượng bị động trong các ngôn ngữ thiên chủ đề mà chỉ cho rằng nó không phải là phạm trù bị động điển hình, tức không phải là phạm trù bị động "thuần tuý hình thái" như trong các ngôn ngữ Ấn Âu. Do đặc trưng loại hình của tiếng Việt, các hiện tượng ngữ pháp nói chung và phạm trù bị động nói riêng trong tiếng Việt không có dấu hiệu hình thức rõ ràng như trong các ngôn ngữ biến hình. 
Trong một công trình nghiên cứu của mình, Dyvik (1984) đã đi đến kết luận rằng, nếu thừa nhận "chủ ngữ" như một phạm trù ngữ pháp trong tiếng Việt thì chúng ta thấy rằng nó không rõ ràng bằng chủ ngữ trong các ngôn ngữ châu Âu. Nghĩa là các thuộc tính ngữ pháp cho phép chúng ta tách được chủ ngữ ra trừu tượng hơn. Tương tự như chủ ngữ, "bị động" cũng chỉ được tách ra nhờ những tiêu chí khá "trừu tượng". Nói cách khác, cả “chủ ngữ” và “bị động” đều xuất hiện trong tiếng Việt tuy rằng chúng không được rõ ràng như các phạm trù tương tự trong các ngôn ngữ châu Âu. 
c) Về loại ý kiến thứ ba đề cập đến vai trò ngữ pháp và ý nghĩa của hai từ được và bị, các từ này đóng vai trò quan trọng về mặt ngữ pháp và phần nào còn ý nghĩa từ vựng không hề loại trừ chức năng là phương tiện đánh dấu quan hệ bị động của chúng, nếu nhìn nhận vấn đề dưới góc độ ngữ pháp hoá. Về mặt ngữ pháp, bằng nhiều lập luận khác nhau, Nguyễn Kim Thản (1977), Nguyễn Minh Thuyết (1976), Nguyễn Thị Ảnh (2000) và Cao Xuân Hạo (2001) cho rằng được/ bị không phải là hư từ có chức năng đánh dấu quan hệ bị động mà có vai trò ngữ pháp như một động từ tình thái, thậm chí là một động từ thực làm trung tâm của vị ngữ.
 Ngược lại, Dyvik (1984) đã chứng minh rằng hai từ được và bị đang mất dần vai trò trung tâm để trở thành một trợ động từ có chức năng bị động hoá trên con đường ngữ pháp hoá, thậm chí nếu được/ bị vẫn đóng vai trò là trung tâm ngữ pháp của vị ngữ như đã được một số tác giả chứng minh, thì điều đó cũng không hề ngăn cản các từ này hành chức như một dấu hiệu đánh dấu quan hệ bị động. Về mặt ngữ nghĩa, quả thật các từ bị/được vẫn còn mang ý nghĩa “ hưởng thụ” hay “chịu đựng”. Tuy nhiên ngay cả đặc tính ngữ nghĩa này cũng không ngăn cản khả năng làm chỉ tố đánh dấu quan hệ bị động nếu ta đặt bị/ được trong bối cảnh của quá trình ngữ pháp hoá. Đinh Văn Đức (1986: 118 - 119) đã giải thích rõ thêm về quá trình ngữ pháp hoá của các từ bị/được và mối quan hệ giữa ý nghĩa ngữ pháp bị động và ý nghĩa tình thái của các từ này như sau: “Trong số các động từ tiếng Việt có một nhóm những động từ kiểu như: cần, muốn, có thể, toan, định, dám, bị, được, ... rõ ràng là những động từ trống nghĩa. Ở chúng các ý nghĩa từ vựng là rất ít, chúng đã được ngữ pháp hoá nhưng lại chưa trở thành những hư từ thật sự, những động từ này có nội hàm rất hẹp nên ngoại diên phải rộng - chúng luôn luôn có thành tố phụ đi kèm... Trong khi diễn đạt các ý nghĩa: yêu cầu (cần), khả năng (có thể), ý định (toan, định, dám), nguyện vọng (mong, muốn), quan hệ bị động (bị, được)... các động từ này được sử dụng hoàn toàn theo cách đánh giá của người nói đối với thực tại. Đó là một quan hệ thể hiện nhận thức chủ quan: khi ta nói: "Tôi được khen" hay "Tôi bị phạt" thì các từ được, bị một mặt là phương tiện diễn đạt ý nghĩa ngữ pháp bị động nhưng bị động ở đây có thể được hiểu theo sắc thái “may” “rủi”, mà “may” hay “rủi” là theo nhận thức và đánh giá của người nói. Do đó bị và được cũng lâm thời trở thành những từ tình thái...” Hiện tượng này có thể được giải thích bằng nguyên tắc lưu dấu vết (Persistence), một nguyên tắc của quá trình ngữ pháp hoá, do Hopper (1991) đề xuất, như sau: "Khi một dạng thức trải qua quá trình ngữ pháp hoá từ một dạng thức từ vựng thành một dạng thức ngữ pháp thì trong chừng mực các thuộc tính ngữ pháp mà nó có được đó, có thể thấy dấu vết của ý nghĩa từ vựng ban đầu, những thuộc tính từ vựng còn lưu dấu vết này có thể được phản ánh trong những hạn chế về khả năng kết hợp ngữ pháp của nó”. (Dẫn theo Nguyễn Văn Hiệp 2001) Những phân tích trên đây cho thấy, không có gì đáng ngạc nhiên nếu như hai từ bị và được trong khi đóng vai trò như là các trợ động từ biểu thị quan hệ bị động, vẫn có thái độ cú pháp như một vị từ thực (làm trung tâm của vị ngữ) và vẫn lưu giữ nghĩa từ vựng ban đầu của chúng (bị mang nét nghĩa chịu thiệt và được mang nét nghĩa hưởng lợi). 
Theo Keenan (1985: 257 –261), trong các ngôn ngữ có kiểu bị động "phân tích tính" (periphrastic passive), ít nhất có 4 loại động từ sau đây được sử dụng như những trợ động từ đánh dấu vị ngữ bị động (i) các động từ quan hệ (kiểu như be của tiếng Anh, byt' tiếng Nga, être của tiếng Pháp...), (ii) các động từ tiếp nhận (kiểu bị động với get của tiếng Anh), (iii) các động từ vận động (ví dụ động từ gayee của tiếng Hindi), và (iv) các động từ tiếp thụ hay chịu đựng (như được/bị trong tiếng Việt). Rõ ràng, việc tiếng Việt dùng các vị từ tình thái được/bị trong chức năng là các trợ động từ biểu hiện ý nghĩa bị động không phải là một ngoại lệ. Từ những luận điểm trên đây, xét về mặt lý luận cũng như tư liệu thực tế, chúng ta có đủ cơ sở để nói đến sự có mặt của các câu bị động trong tiếng Việt. 
Trên đây là những quan niệm, nhìn nhận về câu bị động trong tiếng Việt mà bản thân tôi đã nghiên cứu tìm hiểu trong quá trình học tập và dạy học. Thiết nghĩ giáo viên cũng cần đọc qua, nghiên cứu nắm vững và có cái nhìn toàn diện hơn trong dạy học.
Ngoài ra, SGK Ngữ văn 7 chấp nhận quan niệm có câu bị động trong tiếng Việt. Theo ý kiến cá nhân và sự hiểu biết hạn chế của bản thân tôi, tôi vẫn đánh giá cao và thống nhất với quan điểm của những người viết SGK trong việc nhìn nhận và đưa vào dạy học kiến thức về việc chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động. Với mục đích giúp học sinh hiểu rõ những cái hay, cái đặc sắc của tiếng mẹ đẻ đồng thời nói tốt, viết tốt tiếng Việt, mỗi giáo viên không chỉ nắm vững kiến thức, phương pháp mà còn phải có tâm trong quá trình truyền thụ, truyền cảm hứng cho học sinh của mình, từ đó làm sao biến những bài giảng tưởng chừng khô khan, nhàm chán trở nên thú vị, hấp dẫn và có ý nghĩa thực sự với cuộc sống. Đó chính là mục tiêu của nền giáo dục chân chính mà bản thân tôi luôn ý thức và nổ lực thực hiện qua từng bài giảng của mình. Làm sao để bài giảng không chỉ hay hơn, sáng tạo hơn, hấp dẫn hơn, liên hệ được nhiều kiến thức liên môn hơn mà quan trọng hơn tất cả là những bài giảng trở nên có ý nghĩa hơn trong giáo dục, đặc biệt là qua môn Ngữ văn.
PHẦN THỨ BA: KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN.
1. Kết quả: 
Trước khi áp dụng cách dạy theo mô hình và công thức chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động từ việc vận dụng kiến thức liên môn tiếng Anh, học sinh có thể chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động trong tiếng Việt nhờ việc thuộc lòng nội dung ghi nhớ, hiểu và chuyển đổi qua hướng dẫn của giáo viên. Một số em không thuộc được ghi nhớ thì còn khá lúng túng trong các bước chuyển. Qua một thời gian, Một số ít em không còn nhớ nội dung ghi nhớ nữa thì quên luôn cách chuyển đổi. 
Khi vận dụng kiến thứ liên môn như đã bàn luận ở trên để tạo ra mô hình hoặc công thức chuyển đổi câu chủ động sang câu bị động thì học sinh rất dễ thực hiện. Trong bài học không chỉ có chữ viết mà còn có thể biểu diễn các đường nét, hình vẽ, có thể sử dụng màu sắc ghi chú. Các thao tác lại rất đơn giản chứ không hề phức tạp. Tất cả các học sinh dù yếu đến mấy cũng có thể chuyển đổi được những câu chủ động trong tiếng Việt sang câu bị động. Từ đó, tiết học trở nên hứng thú, các em tích cực vận dụng vào thực tế giao tiếp và đạt được hiệu quả thiết thực trong lời nói, bài viết khi vận dụng hiệu quả kiến thức và tác dụng của câu chủ động, câu bị động. 
Kết quả khảo sát qua các năm tại trường TH&THCS Tân Minh:
Năm học 2016-2017, tiến hành khảo sát lấy phiếu điều tra trên số lượng 150 em/5 lớp 7 (7a,7a2,7a3,7a4,7a5). Trong số đó có 1 lớp (32 em) được giảng dạy theo cách áp dụng mô hình, công thức theo đề tài này và 118 chưa áp dụng mô hình. Khi được hỏi, tiết dạy chuyển đổi từ câu chủ động sang câu bị động trong tiếng Việt có dễ hiểu, có hứng thú không.
Có	b) Không	c) Bình thường. 
Kết quả thu được: 40 học sinh trả lời có (toàn bộ 32 học sinh được dạy theo mô hình nằm trong số này) chiếm 26.67 % và 50 học sinh trả lời không chiếm tỷ lệ 33.33%. còn lại 60 học sinh cảm thấy bình thường chiếm tỷ lệ 40%. 
Năm học 2017-2018, tiến hành khảo sát lấy phiếu điều tra trên số lượng 120 em/4 lớp 7 (7a,7a2,7a3,7a4). Trong số đó có (2 lớp) 65 em được giảng dạy theo cách áp dụng mô hình, công thức theo đề tài này. Khi được hỏi, tiết dạy chuyển đổi từ câu chủ động sang câu bị động trong tiếng Việt có dễ hiểu, có hứng thú không.
Có	b) Không	c) Bình thường. 
Kết quả thu được: 72 học sinh trả lời có (toàn bộ 65 học sinh được dạy theo mô hình nằm trong số này) chiếm 60%; 20 học sinh trả lời không chiếm tỷ lệ 16.67% và 28 học sinh trả lời bình thường chiếm tỷ lệ 23.33%. 
Năm học 2018-2019, tiến hành khảo sát lấy phiếu điều tra trên số lượng 137 em/4 lớp 7 (7a,7a2,7a3,7a4). Trong số đó có (4 lớp) 137 em đều được giảng dạy theo cách áp dụng mô hình, công thức theo đề tài này. Khi được hỏi, tiết dạy chuyển đổi từ câu chủ động sang câu bị động trong tiếng Việt có dễ hiểu, có hứng thú không.
Có	b) Không	c) Bình thường. 
Kết quả thu được: 125 học sinh trả lời có chiếm 91,24%; 0 học sinh trả lời không chiếm tỷ lệ 0% và 12 học sinh trả lời bình thường chiếm tỷ lệ 8.76%. 
Như vậy, qua khảo sát ta nhận thấy những học sinh khi được học theo cách vận dụng kiến thức liên môn để sáng tạo mô hình chuyển đổi câu chủ động thành câu bị động trong tiếng Việt thì các em đều thấy hứng thú và thấy dễ hiểu với tỷ lệ rất cao. Điều này là sự khích lệ cho giáo viên trong việc đổi mới các phương pháp dạy học của mình. 
2. Hiệu quả phổ biến.
Sáng kiến kinh nghiệm là giải pháp để giáo viên có thể áp dụng vào trong giảng dạy một cách thực tế chứ không phải trên lý thuyết suông. Để có một tiết dạy đạt được mục tiêu bài học, phù hợp chuẩn kiến thức, kỹ năng, có phương pháp giảng dạy và học tập tương thích với nội dung bài học, thỏa mãn được niềm đam mê của người thầy trên bục giảng và niềm hứng thú của học trò trong giờ học tức là đã đem lại được hiệu quả kinh tế cụ thể. 
Học sinh hứng thú trong giờ học. Tích cực hoạt động. Học sinh có khả năng tư duy tốt, vận dụng kiến thúc đã học thực hiện các yêu cầu và kết quả học tập phù hợp với nội dung bài học.
 Có thể thấy, học sinh năng động hơn trong tiết học. Cả lớp tập trung, hào hứng, tích cực, chủ động, sáng tạo, hợp tác trong việc thực hiện các nhiệm vụ.
Mô hình và công thức của bài học này có thể áp dụng cho mọi đối tượng học sinh ở tất cả các trình độ nhận thức. Việc vận dụng kiến thức liên môn này là phần việc của giáo viên, những giáo viên có kiến thức tốt về tiếng Anh sẽ hiểu sâu sắc vấn đề và có thể nâng cao giảng giải cho học sinh khá giỏi (nếu cần). Tuy nhiên, những giáo viên không học ngoại ngữ hai là tiếng Anh vẫn hoàn toàn có thể nghiên cứu và áp dụng tốt mô hình và các kiến thức trình bày như trong bài viết này. Hơn nữa, đề tài cũng đưa ra nhiều kiến thức và ví dụ giúp giáo viên có thể hiểu sâu sắc hơn về vấn đề và nội dung bài dạy. Cũng cần nói thêm vấn đề về câu bị động còn nhiều điều để bàn luận hơn nữa, nhưng trong khuôn khổ bài viết, chỉ tập trung và giới hạn vào những vấn đề trọng tâm nhất mà giáo viên cần nắm để phục vụ cho giảng dạy bậc THCS. 
Về phía học sinh, dù đối tượng học sinh không giỏi tiếng Anh, chưa biết gì về câu bị động vẫn tiếp thu đầy đủ, thực hành nhuần nhuyễn và hoàn hảo theo mô hình công thức này một cách dễ dàng và hiệu quả nhất. Theo cá nhân tôi áp dụng và khảo sát thì không có bất kỳ khó khăn, trở ngại và khó hiểu gì trong quá trình chuyển đổi của học sinh.
Đề tài chỉ là một gợi ý nhỏ, có thể sẽ còn có những đóng góp tốt hơn của người thầy trong thực tế. Vì vậy thiết nghĩ nếu áp dụng đề tài một cách hiệu quả và linh hoạt theo cách của giáo viên sẽ khiến học sinh đam mê trong giờ học, người dạy hứng thú, tích cực để nghĩ ra thêm những cái hay cái mới liên tục truyền đạt cho HS của mình trong những giờ lên lớp kế tiếp. 
Một lần nữa hy vọng đề tài nghiên cứu của tôi được các đồng chí đồng nghiệp quan tâm, đón nhận và góp ý, xây dựng thêm để tôi có thêm nhiều phương pháp hay, mới, tích cực góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy. Trân trọng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. https://giasutoeic.com/ngu-phap-tieng-anh/cau-bi-dong/ truy cập lúc 20h30 ngày 14/4/2019
2.  truy cập lúc 23h32 ngày 15/4/2019
3.https://kenhtuyensinh.vn/phan-biet-cau-chu-dong-va-cau-bi-dong-khi-hoc-tieng-anh truy cập lúc 23h35 ngày 15/4/2019.
4. UB KHXH Việt Nam, Ngữ pháp tiếng Việt, NXB khoa học xã hội Hà Nội, 1983
5. Nguyễn Minh Thuyết (chủ biên) – Nguyễn Văn Hiệp, Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
6. Từ loại tiếng Việt, PGS.TS Dư Ngọc Ngân, trường DHSP TPHCM.
7. Bùi Minh Toán – Lê Anh- Đỗ Việt Hùng, Tiếng Việt thực hành, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.
8. Ngữ pháp Tiếng Việt, Diệp Quang Ban (chủ biên), NXB Giáo dục, Hà Nội, 2000.
9. Sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 2, NXB Giáo dục.
10. Sách giáo viên Ngữ văn 7, tập 2, NXB Giáo dục, 2003.
MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN THỨ BA: KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN
1. Kết quả 	33
2. Hiệu quả phổ biến 	35 
Tài liệu tham khảo:	37

File đính kèm:

  • docxVAN DUNG KIEN THUC LIEN MON SANG TAO MO HINH CHUYEN DOI CAU CHU DONG THANH CAU BI DONG_12648392.docx
Sáng Kiến Liên Quan