SKKN Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản - Giáo dục công dân 12
Một số vấn đề chung về dạy học theo định hướng phát triển năng lực.
2.1. Khái niệm về năng lực:
- Năng lực là khả năng vận dụng các kiến thức, kĩ năng, thái độ, niềm tin,
giá trị vào việc thực hiện các nhiệm vụ trong những hoàn cảnh cụ thể của thực
tiễn.6
- Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi làm nền
tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp.
Năng lực chung được hình thành và phát triển từ nhiều môn học.
- Năng lực chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát triển trên
cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt. Năng lực chuyên
biệt sẽ được hình thành và phát triển trong môn học hoạt động giáo dục.
2.2. Chương trình giáo dục định hướng năng lực.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy
học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng
năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho
con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp.
Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá
trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định
hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là
“sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lí chất lượng dạy học
chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học
tập của học sinh.
Các năng lực mà môn GDCD hướng đến:
* Năng lực chung:
- Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân:
+ Năng lực tự học
+ Năng lực giải quyết vấn đề
+ Năng lực sáng tạo
+ Năng lực tự quản lí
- Nhóm năng lực về quan hệ xã hội:
+ Năng lực giao tiếp
+ Năng lực hợp tác
- Nhóm năng lực công cụ:
+ Năng lực sử dụng công nghệ và truyền thông
+ Năng lực sử dụng ngôn ngữ
+ Năng lực tính toán.
khả xâm phạm chỗ ở của công dân. Giải thích vì sao em cho là vi phạm? Nhóm 2: Chuẩn bị một tình huống khám xét chỗ ở trái quy định của pháp luật. giải thích vì sao em cho là vi phạm? Nhóm 3: Chuẩn bị một tình huống thực hiên đúng quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân.Giải thích vì sao em cho là đúng? 31 Như vậy với yêu cầu trên học sinh sẽ phải dành thời gian chuẩn bị trước ở nhà. Tư liệu tham khảo có thể là sách báo, Iternet, hay có thể lấy những tình huống mà các em đã bắt gặp trong cuộc sống. Học sinh sẽ chủ động làm việc theo nhóm. Kết quả chuẩn bị bài của mỗi nhóm sẽ được giáo viên phân tích, đánh giá và cộng vào điểm miệng nhằm động viên khích lệ tinh thần học tập của các em. Tình huống của nhóm 1: P mượn sách tham khảo của H đã lâu mà chưa trả. Khi cần dùng sách, H đã tự ý vào nhà P để tìm nhưng bị em trai của p mắng chửi và đuổi về. Theo em việc làm của H đúng hay sai? Vì sao? Tình huống của nhóm 2: Ông L mất xe máy và khẩn cấp trình báo với công an xã. Ông L khẳng định anh T là người lấy cắp. Dựa vào lời khai của ông L, công an xã ngay lập tức xông vào nhà khám xét và bắt giữ anh T. Em có nhận xét như thế nào về việc làm của công an xã? Tình huống của nhóm 3 : Biết người yêu mình là anh A nghiện ma túy, chị B cùng gia đình đã chủ động cự tuyệt và kiên quyết ngăn cản không cho anh A đến nhà. Sau nhiều lần tìm gặp đều bị người yêu từ chối muốn níu kéo tình cảm, anh A đã đến nhà và xin vào phòng riêng của chị B để lại lá thư có nội dung đe dọa sẽ tự sát nếu không cưới được chị làm vợ. Em có nhận xét như thế nào về việc làm của anh A? Bước 3: Giáo viên cùng học sinh phân tích tình huống . Khi giảng tới mỗi phần kiến thức đó, học sinh đại diện cho nhóm mình trình bày trước lớp kết quả chuẩn bị bài của nhóm mình. Tình huống của nhóm 1: Hành vi H đã tự ý vào nhà P để tìm sách là sai. Vì H đã tự ý vào nhà bạn để tìm sách khi không được sư đồng ý của bạn. Theo quy định của pháp luật cá nhân tự ý vào nhà người khác là vi phạm phám luật. Không ai được tự ý vào nhà người khác khi chưa được người đó đồng ý. Tình huống của nhóm 2: Hành vi của công an xã ngay lập tức xông vào nhà khám xét và bắt giữ anh T là trái quy định của pháp luật. Theo quy định của pháp luật cá nhân tự tiên xông vào nhà người khác là vi phạm pháp luật. Trong một số trường hợp được khám xét chỗ ở của công dân , nhưng việc khám xét không được tiến hành tùy tiện mà phải theo đúng trình tự thủ tục mà pháp luật quy định Tình huống của nhóm 3: Hành vi sau nhiều lần tìm gặp đều bị người yêu từ chối muốn níu kéo tình cảm, anh A đã đến nhà và xin vào phòng riêng của chị B để lại lá thư có nội dung đe dọa sẽ tự sát nếu không cưới được chị làm vợ là thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Vì Chỗ ở của công dân được nhà nươc và mọi người tôn trọng , không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác. Người nào tự ý vào nhà người khác là vi phạm pháp luật. Bước 4: Giáo viên cùng học sinh rút ra nội dung bài học. 32 Khi các nhóm đã trao đổi giáo viên sẽ phân tích, giảng giải và yêu cầu học sinh rút ra nội dung chính của bài học. Nội dung 1: + Theo quy định của pháp luật, cá nhân, tổ chức tự tiện vào chỗ ở của người khác, tự tiện khám chỗ ở của công dân là vi phạm pháp luật. + Không ai được tự tiện vào chỗ ở của người khác. Nội dung 2: Pháp luật cho phép khám xét chỗ ở của công dân trong các trường hợp sau: + Trường hợp thứ nhất: Khi có căn cứ để khẳng định, chỗ ở, địa điểm của người nào đó có công cụ, phương tiện để thực hiện tội phạm hoặc có đồ vật, tài liệu liên quan đến vụ án. + Trường hợp thứ hai: Việc khám chỗ ở, địa điểm của người nào đó được tiến hành khi cần bắt người đang bị truy nã hoặc người phạm tội đang lẩn tránh ở đó. => Tuy nhiên, việc khám xét không được tiến hành tùy tiện mà phải theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Như vậy, qua việc tự tạo ra các tình huống ta thấy rõ sự hứng thú của học sinh trong việc vận dụng kiến thức vào việc giải quyết vấn đề thực tiễn. Đây là một phương pháp rất hiệu quả trong vấn đề giảng dạy. Qua đó, học sinh không những tìm ra được mối liên hệ giữa lí luận và thực tiễn mà còn tăng thêm tính chủ động, sự tìm tòi, khám phá nhằm lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất. Bên cạnh việc tự tạo ra tình huống và giải quyết tình huống của nhóm mình thì mỗi nhóm có thể tham gia giải quyết tình huống với các nhóm còn lại bằng việc bổ sung những vấn đề còn thiếu. Như vậy tất cả các nhóm có thể tham gia được công việc một cách hiệu quả nhất. Như vậy thông qua hoạt động này tôi nhận thấy học sinh thể hiện mình như một tư vấn viên pháp luật đưa ra những giải pháp giúp cho các quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình được sáng rõ nên các em làm việc tích cực, trao đổi sôi nổi, các em đã vận dụng vào trong chính cuộc sống của mình tốt hơn, lớp học trở nên sôi nổi hơn, thúc đẩy tinh thần đoàn kết và tính hợp tác giữa các học sinh với nhau. Tuy nhiên phương pháp này chỉ lôi kéo được những học sinh khá giỏi và hứng thú với môn học, sẽ có một số em ngoài cuộc không hiểu nội dung kiến thức. 4.2.5 Kinh nghiệm sử dụng phương pháp trò chơi. Phương pháp trò chơi: là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn đề hay thể nghiệm những hành động, thái độ, những việc làm thông qua một trò chơi nào đó. Với phương pháp này có một số ưu điểm sau: Qua trò chơi, học sinh có cơ 33 hội thể nghiệm những thái độ hành vi. Chính nhờ sự thể nghiệm này sẽ hình thành ở các em niềm tin vào những thái độ, hành vi tích cưc, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi ứng xử trong cuộc sống. Qua trò chơi, học sinh sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình cách ứng xử đúng đắn, phù hợp tronh tình huống. Qua trò chơi, học sinh được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi. Bằng trò chơi việc học tập được tiến hành một cách nhẹ nhàng, sinh động, không khô khan nhàm chán. Học sinh được lôi cuốn vào quá trình luyện tập một cách tự nhiên, hứng thú và có tinh thần trách nhiệm, đồng thời giải trừ những mệt mỏi, căng thẳng trong học tập. Trò chơi còn giúp tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh, giữa giáo viên và học sinh. Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp này còn có một số hạn chế sau: Trong quá trình chơi có thể ồn ào, làm ảnh hưởng đến các lớp khác. Học sinh có thể ham vui, kéo dài thời gian chơi, làm ảnh hưởng đến các hoạt động khác của tiết học. Sự ganh đua thái quá giữa các cá nhân và nhóm học sinh trong khi chơi có thể mất đoàn kết trong tập thể học sinh. Ý nghĩa giáo dục trò chơi có thể bị hạn chế nếu lựa chọn trò chơi không phù hợp hoặc tổ chức trò chơi không tốt. Một số trò chơi thường được sử dụng trong quá trình dạy học môn GDCD như trò chới tiếp sức, trò chơi rung chuông vàng, trò chơi đối mặt, trò chơi ai là triệu phú, trò chơi đuổi hình bắt chữ, trò chơi tập làm phóng viên Ví dụ ở phần 1d nội dung quyền được pháp luật đảm bảo an toàn bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân tôi sử dụng phương pháp trò chơi “Đuổi hình bắt chữ” như sau: Để dạy phần này có nhiều phương pháp dạy học khác nhau, thông thường nhiều giáo viên vẫn sử dụng phương pháp đàm thoại, với phương pháp này học sinh dễ nhàm chán, không kích thích được hứng thú học tập của học sinh. Để thay đổi không khí và tạo hứng khởi cho học sinh tôi đã sử dụng phương pháp chơi trò chơi: “ Đuổi hình bắt chữ” - Trước hết giáo viên phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho học sinh: GV sẽ chiếu một số hình ảnh liên quan đến nội dung bài học, có thể 5 hay 6 hình ảnh tùy giáo viên lựa chọn. Sau đó giáo viên sẽ hỏi những hình ảnh trên đề cập đến nội dung gì? Câu hỏi trò chơi “Đuổi hình bắt chữ” Hình 1,2,3: Nói đến nội dung gì? - Lưu ý là GV không yêu cầu học sinh nói đúng từng câu, từng chữ mà chỉ cần học sinh trả lời có ý gần giống, hoặc tương tự với nội dung cần tìm. - Mỗi hình ảnh giáo viên chỉ gọi 1-2 học sinh trả lời, ai nói đúng hơn thì sẽ được điểm, nếu cả hai đều trả lời đúng thì cả hai đều được điểm, nếu cả hai đều trả lời sai thì gọi đến em thứ 3 sau đó giáo viên nhận xét, chốt lại đáp án đúng. 34 - Phần thưởng cho mỗi học sinh trả lời đúng là 10 điểm. - Trò chơi phải phù hợp với nội dung mục 1d phần nội dung quyền được pháp luật bảo đảm an toàn, bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân, với đặc điểm và trình độ học sinh THPT, với quỹ thời gian, với hoàn cảnh, điều kiện lớp học. - Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và phải tôn trọng luật chơi. Phải quy định rõ thời gian chơi (2-3 phút). - Phải phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, Giáo viên phải gọi cả học sinh nhút nhát tham gia. Với phương pháp này, Tôi sử dụng để dạy phần 1d nội dung thứ nhất : Thư tín, điện thoại, điện tín của công dân luôn được đảm bảo an toàn bí mật, không ai được tự ý tiêu hủy thu giữ thư tín, điện tín của người khác thực hiện trong vòng 5 phút như sau: + Trước hết GV nháy chuột vào từng hình ảnh sau đó GV đặt câu hỏi hình ảnh trên nói đến nội dung gì? + Mỗi hình GV gọi 1-2 học sinh trả lời, sau đó GV nhận xét và cho điểm. Để tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: “Đuổi hình bắt chữ” tôi sử dụng bộ tranh ảnh sau: Hình ảnh 1? 35 Hình ảnh 2? Hình ảnh 3? 36 Hình ảnh 4? Qua các hình ảnh trên các em tự đoán và ghi lên bảng hình ảnh đó là gì và sau đó giáo viên nêu câu hỏi: Qua những hình ảnh trên em rút ra nhận xét gì? GV nhận xét và rút ra nội dung bài học: - Thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân được đảm bảo an toàn và bí mật. - Không ai được tự tiện bóc mở, thu giữ, tiêu hủy thư, điện tín của người khác, những người làm nhiệm vụ chuyển thư, điện tín phải chuyển đến tay người nhận, không được giao nhầm cho người khác, không được để mất thư, điện tín của nhân dân. - Thư tín, điện thoai, điện tín được cơ quan nhà nước và mọi người tôn trọng, được pháp luật bảo vệ. Chỉ những người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và chỉ trong những trường hợp cần thiết mới được tiến hành kiểm soát thư tín, điện thoại, điện tín của người khác. Sử dụng phương pháp trò chơi mục đích để phát triển năng lực là: + Năng lực sáng tạo: Trong quá trình chơi sẽ phát huy được tính sáng tạo của các em. + Năng lực giải quyết vấn đề: Học sinh biết cách giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình học tập và trong cuộc sống. + Năng lực giao tiếp: Hình thành năng lực giao tiếp giữa GV với HS, giữa HS với HS. 37 + Năng lực sử dụng ngôn ngữ: HS đứng lên quan sát hình ảnh và trả lời đáp án. + Năng lực tự học: Học sinh tự suy nghĩ và đưa ra đáp án. Ví dụ Sử dụng phương pháp trò chơi để dạy phần củng cố bài học: Củng cố bài học là một phần cuối cùng của tiết học, bài học nên ở phần này có nhiều giáo viên chưa đầu tư đổi mới cách dạy, có một số giáo viên thì dùng phương pháp thuyết trình, có giáo viên dùng phương pháp đàm thoại, có giáo viên sử dụng phương pháp trực quan với những phương pháp này học sinh dễ nhàm chán, tiết học không sôi nổi. Với tôi để củng cố tiết học này tôi sử dụng phương pháp “Trò chơi tiếp sức”. GV tổ chức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức: - GV chia lớp thành hai đội - GV phổ biến luật chơi: Yêu cầu: mỗi đội dán các nội dung tương ứng theo yêu cầu ở bảng biểu (), thời gian 1 phút, mỗi đội lên thứ tự lần lượt từng bạn. Đội 1: Hành vi đúng pháp luật Hành vi trái pháp luật Đội 2: Hành vi đúng pháp luật Hành vi trái pháp luật - HS dán xong, tự nhận xét, học sinh nhận xét chéo. - GV nhận xét, kết luận. GV trao thưởng cho đội giành chiến thắng. Sử dụng phương pháp trò chơi “Tiếp sức” ở phần củng cố bài học mục đích nhằm phát triển năng lực học sinh là: + Năng lực tự quản lí: Học sinh biết quản lí thời gian khi chơi tiếp sức (Trong vòng 1 phút). +Năng lực hợp tác: Học sinh hợp tác với nhau trong đội chơi để làm việc tốt hơn. + Năng lực tự nhận thức, tự điều chỉnh hành vi phù hợp pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội: Học sinh tự biết nhận thức những hành vi đúng pháp luật thực hiện đúng pháp luật, lên án những hành vi trái pháp luật. + Năng lực tự chịu trách nhiệm cà thực hiện trách nhiệm công dân với cộng đồng, đất nước: Học sinh có ý thức nêu cao trách nhiệm đấu tranh trước các hành vi xâm 38 phạm quyền tự do cơ bản của công dân. + Năng lực tự học: Học sinh tự suy nghĩ, tự học và tự bộc lộ khả năng của mình. Hiệu quả: Với phương pháp này tôi nhận thấy lớp học sôi nổi hơn, học sinh hứng thú hơn, thay đổi được không khí trong lớp học, học sinh hăng say học tập. Học sinh sẽ rèn luyện được tính mạnh dạn, tự tin, khả năng hợp tác. Học sinh được trải nghiệm, được làm, được thể hiện bản thân. Tuy nhiên, bên cạnh đó tôi nhận thấy hoạt động trên còn một số hạn chế: trong quá trình chơi lớp học sẽ ồn ào, các thông tin chưa nhiều để học sinh lựa chọn trong một thời gian ngắn. Hình ảnh hai đội chơi tham gia trò chơi 39 Sản phẩm của hai đội chơi Giáo viên trao thưởng cho đội chiến thắng 40 5. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. 5.1. Tiến hành thực nghiệm sư phạm thực hiện trong năm học 2020- 2021 - Tôi tiến hành dạy ở 2 lớp thực nghiệm và 2 lớp đối chứng ở khối 12 có trình độ tương đương: + Lớp: 12 D- E (ĐC) và 12A -B (TN) - Cách Tiến hành dạy một tiết bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (Tiết 3) - Giáo dục công dân 12 + Lớp 12D - E dạy không sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. + Lớp 12A - B dạy sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. 5.2. Kết quả thực nghiệm sư phạm Với trường tôi chất lượng đầu vào thấp dẫn tới khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức của các em hạn chế, các em chưa sưu tập được nhiều tình huống mà giáo viên yêu cầu. Vì vậy giáo viên phải động viên, hướng dẫn, khuyến khích các em, với cách làm đó các em đã tích cực học tập và thu được kết quả như sau: Qua những lá phiếu thăm dò hai lớp 12A và 12B với 45 học sinh và câu hỏi kiểm tra (Giống nội dung câu hỏi ở lớp 12D và 12E đã trình bày ở phần thực trạng), tôi thu được kết quả như sau: Bảng 1: Nội dung 12A – 12B Số học sinh yêu thích môn GDCD 87% Số học sinh nắm vững kiến thức 95% Số học sinh biết cách vận dụng thực tiễn 76% Số học sinh biết cách xử lí các tình huống thực tế 75% Bảng 2: Loại Số em Tỷ lệ % Giỏi 15 31% Khá 18 38% TB 12 31% Yếu 0 0% 41 * So sánh kết quả: Bảng 1: Nội dung Cách dạy trước (12D, 12E) Cách dạy sau (12A, 12B) Tăng % Số học sinh yêu thích môn GDCD 47% 87% 40% Số học sinh nắm vững kiến thức 54,5% 95% 40,5% Số học sinh biết cách vận dụng thực tiễn 41,5% 76% 34,5% Số học sinh biết cách xử lí các tình huống thực tế 28% 75% 47% Bảng 2: Loại Cách dạy trước (12D- 12E ) Cách dạy sau (12A – 12B) Tăng % Giảm % Số em Tỷ lệ % Số em Tỷ lệ % Giỏi 0 0% 15 31% 31% Khá 12 35% 18 38% 3% TB 25 50% 12 31% 19% Yếu 7 15% 0 0% 15% Như vậy cách dạy mới đã đạt được kết quả khả quan, chất lượng học tập của các em được nâng cao rõ rệt. Sau khi dạy xong bài này ở lớp 12A, 12B tôi nhận thấy lớp học sôi nổi, học sinh hứng thú hơn, vui vẻ hơn, bài học đã thực sự thay đổi nhận thức, hành vi của các em học sinh. 5.3. Nhận xét kết quả TNSP Sau khi tiến hành dạy thực nghiệm - Ở lớp 12 A- B các em học sinh đều tỏ ra hứng thú khi học môn GDCD, các em hăng hái thảo luận những tình huống giáo viên đưa ra và nghiêm túc chuẩn bị những yêu cầu giáo viên giao một cách có hiệu quả. Phần lớn các em nắm vững nội dung cơ bản của bài học. Ngoài các lớp được TN trên, tôi cũng đã tiến hành dạy ở các lớp khác nhau. Đặc biệt ở các lớp ôn thi THPT tôi đã sử dụng tình huống theo các cấp độ tăng dần. Thì hầu hết HS đều nắm vững và vận dụng khá tốt kiến thức vào giải quyết 42 tình huống. Hơn thế, học sinh cảm thấy hết sức thích thú khi ôn tập kiến thức dưới dạng các câu hỏi tình huống , Các em có thể không nắm chắc kiến thức lí thuyết nhưng cũng có thể tìm ra được kết quả chính xác cho câu hỏi.. Trước đây, với cách ôn tập lại kiến thức lí thuyết tôi phải trình bày theo từng bài học và mất khá nhiều thời gian nhưng HS vẫn không hiểu nội dung hoặc không nhớ được chính xác kiến thức đã học. Sau khi dạy xong tôi đã xin ý kiến nhận xét của một số học sinh, và các em đã nhận xét: 43 44 Đồng thời , tôi đã mời giáo viên trong tổ xã hội tới dự giờ. Sau giờ dạy tôi đã xin nhận xét của các giáo viên dự giờ, và họ đã nhận xét như sau: 45 PHẦN III. KẾT LUẬN 1. Kết luận Sau khi tiến hành dạy thử ở nhiều đối tượng HS khác nhau và tiến hành kiểm chứng ở 2 lớp với 45 HS khác nhau chúng tôi đã rút ta kết luận như sau: - Các Phương pháp này có phạm vi áp dụng rộng. Đây là phương pháp chung áp dụng cho tất cả các tiết dạy. Không làm hình thức, không quá lạm dụng. - Cần có sự hỗ trợ tích cực về cơ sở vật chất từ phía nhà trường để hỗ trợ cho việc dạy học. - Các Phương pháp này không đòi hỏi HS nhớ máy móc, chỉ cần HS hiểu là có thể áp dụng được. Giáo viên có thể sử dụng các phương pháp dạy học tùy nội dung của bài cho phù hợp. - Các Phương pháp này phát hiện nhanh kiến thức, tránh trường hợp học tủ học mơ hồ. Học sinh có thể không nắm chắc lí thuyết vẫn có thể trả lời và giải quyết được tình huống thực tiễn. - Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy giúp tôi nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn cũng như nghiệp vụ. Không những thế khi sử dụng cách dạy này giáo viên đỡ vất vả hơn vì không mất nhiều công sức trong quá trình giảng dạy. Tạo hứng thú, say mê học tập cho học sinh: Như hăng say phát biểu, rèn luyện cho học sinh kĩ năng trình bày một vấn đề trước đám đông, kĩ năng giao tếp, kĩ năng hợp tácRèn luyện cho học sinh thói quen chủ động sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức. Đồng thời học sinh biết lên án đấu tranh với những hành vi, việc làm trái với quy tắc chuẩn mực đạo đức và quy định của pháp luật. - Đặc biệt, khi thi trắc nghiệm chỉ yêu cầu xác định đúng tình huống thì HS không mất thời gian để liên hệ kiến thức nhiều bài. Điều này không chỉ giảm bớt thời gian mà còn nâng cao độ chính xác của đáp án . Hơn thế, trong thi trắc nghiệm khách quan, chỉ cần xác định sai tình huống là có thể sai hoàn toàn kết quả. Tuy nhiên, do phạm vi của một sáng kiến khoa học nên tôi chỉ trình bày một số ví dụ thường gặp. Chưa lấy trình bày được nhiều ví dụ cho từng trường hợp; chưa mở rộng cho các tình huống phức tạp Nếu được mở rộng phạm vi nghiên cứu tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về đề tài này. 2. Kiến nghị Tôi kiến nghị với các GV THPT áp dụng và phát triển thêm các phương pháp dạy học tích cực để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Và qua đây tôi cũng rất mong được nhận sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các đồng nghiệp. Mặt khác tôi cũng mong nhận được sự chia sẻ kinh nghiệm dạy học của các thầy cô và đồng nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn giáo dục công dân. 46 Trên đây chỉ là kinh nghiệm cá nhân sau một quá trình dạy và học hỏi đồng nghiệp chắc còn một số khiếm khuyết rất mong được sự quan tâm, đóng góp ý kiến từ đồng nghiệp và giới chuyên môn để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn ! 47 TT TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Sách giáo khoa GDCD 12 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 2 Sách giáo viên GDCD 12 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 3 Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức môn GDCD trường THPT (Bộ GD & ĐT) 4 Luyện tập và tự kiểm tra, đánh giá theo chuẩn kiến thức kĩ năng GDCD 12 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 5 Sách bài tập tình huống GDCD 12 – Nhà xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh 6 Hướng dẫn thực hiện chương trình SGK môn GDCD 12 – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 7 Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hương phát triển năng lực học sinh – Bộ GD & ĐT 8 Một số thông tin, tài liệu từ mạng Internet.
File đính kèm:
- skkn_su_dung_cac_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_vao_giang_day.pdf