SKKN Rèn kỹ năng làm bài nghị Luận văn học trong đề thi THPT quốc gia qua hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường

Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai nhà văn có thực tài về thể kí. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 tập 1 đã giới thiệu hai tác phẩm tiêu biểu cho phong cách viết kí của hai nhà văn, đó là tác phẩm Người lái đò Sông Đà – Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng thực tế khi giảng dạy và ôn thi THPT Quốc gia, GV và HS thường chỉ tập trung vào các tác phẩm thuộc thể loại khác dễ nắm bắt, khám phá hơn như thơ, truyện ngắn, kịch mà chưa có sự quan tâm thích đáng đến thể ký. Thể kí là một thể loại đặc biệt nếu thầy cô chỉ quan tâm tới những kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng hay được, dẫn đến giờ học bài kí muôn thuở vẫn khô khan, học sinh khó tiếp nhận được văn bản. Vì thế, có thể khẳng định rằng: giảng dạy một tác phẩm kí là sự khó khăn, vất vả, công phu đối với giáo viên. Hơn nữa hai nhà văn đều là những cây bút tài hoa uyên bác, thể hiện trên trang viết những tri thức đa ngành, những liên tưởng tạt ngang tạt dọc khiến hai tác phẩm đều khó nắm bắt với đối tượng học sinh. Vì vậy các em đa phần đều “ngại” hai tác phẩm này. Để giúp GV và nhất là học sinh có kiến thức và kĩ năng làm dạng bài nghị luận văn học (dạng bài chiếm nhiều điểm nhất trong đề thi THPT Quốc gia) về thể kí, chúng tôi đã chọn đề tài này.

Từ tr¬ước đến nay, với nhiều h¬ướng tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu thường đi sâu tìm hiểu cách dạy học hai tác phẩm trên theo đặc trưng thể loại, theo chủ đề. Thực tế hầu hết các công trình, bài viết, các sách tham khảo hiện nay mới chỉ dừng ở việc hướng dẫn HS dạng đề phân tích cảm thụ; hoặc chỉ một số dạng đề nghị luận một ý kiến bàn về văn học hay dạng đề so sánh. Chưa có đã có nhiều bài bình luận, phân tích, cảm nhận về hai tác phẩm trên nhưng chưa có một công trình, bài viết nào rèn luyện cho học sinh những kĩ năng làm dạng đề nghị luận văn học qua hai tác phẩm này với ba dạng cơ bản nhất (dạng đề phân tích cảm thụ; dạng đề bàn luận về một ý kiến văn học; dạng đề liên hệ - so sánh, đặc biệt là liên hệ với kiến thức chương trình Ngữ văn 11).

 Với phương pháp tìm hiểu vấn đề như trên, có thể nhận thấy những ưu, nhược điểm như sau:

 * Ưu điểm:

 - Cung cấp cho học sinh kiến thức chuẩn của từng bài, đảm bảo nhu cầu nắm “cấp tốc” kiến thức để phục vụ kiểm tra, thi cử.

 * Nhược điểm:

 - Người học không có được cái nhìn hệ thống về hai tác phẩm ký. Không được rèn kỹ năng làm đề. Trong khi đây là mục tiêu quan trọng hàng đầu để các em đạt điểm cao trong bài thi THPT Quốc gia cũng như trong tất cả các kỳ thi.

 - Phương pháp cũ cũng không đáp ứng được yêu cầu tích hợp, liên môn, rèn kỹ năng, phát triển năng lực theo hướng đổi mới giáo dục hiện nay.

Đề tài của chúng tôi đã cung cấp những tri thức và kĩ năng cơ bản nhất để phục vụ cho công việc giảng dạy của giáo viên cũng như ôn thi THPT Quốc gia cho các em học sinh.

 

doc52 trang | Chia sẻ: lacduong21 | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 1Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Rèn kỹ năng làm bài nghị Luận văn học trong đề thi THPT quốc gia qua hai tác phẩm Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân và Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Hoàng Phủ Ngọc Tường", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uân sóng gió trong vẻ êm đềm, bình lặng, tuyệt đối không muốn cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại nơi đại ngàn Trường Sơn.
b. Hình tượng cái tôi nhà văn
- Ẩn sau cách cảm nhận và miêu tả sông Hương là hình tượng cái tôi nhà văn lịch lãm, tài hoa với một văn phong hướng nội, súc tích và mê đắm lòng người. Vốn từ của tác giả rất phong phú, đặc biệt là những liên tưởng so sánh, nhân hóa đặc sắc, thú vị, cho thấy một cách cảm nhận và suy tư có chiều sâu trí tuệ.
- Đoạn văn cuãng cho thấy tình yêu thiết tha, sâu lắng của nhà văn dành cho sông Hương, xứ Huế và vẻ đẹp của quê hương đất nước.
c. Đánh giá khái quát
	Đây là một trong những đoạn văn đặc sắc nhất bài bút kí, không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương nơi thượng nguồn với một sức sống mãnh liệt, đầy cá tính mà còn thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật rất riêng của HPNT - một nhà văn rất mực lịch lãm, tinh tế, tài hoa.
2.3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề nghị luận.
Đề 3:Về hình tượng sông Hương trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?của Hoàng  Phủ Ngọc Tường (sách Ngữ văn 12), có ý kiến cho rằng: Vẻ đẹp nổi bật của sông Hương   là cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Vẻ đẹp bề sâu của  sông Hương là những trầm tích văn hóa, lịch sử.  
Bằng cảm nhận về hình tượng sông Hương, anh/chị hãy bình luận các ý kiến trên.
1. Phân tích đề
1.1. Yêu cầu nội dung: Làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong cách đánh giá của hai nhận định.
1.2. Yêu cầu hình thức: Kiểu bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận: giải thích, bình luận, phân tích, chứng minh.
1.3. Phạm vi tư liệu: đoạn trích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?trong chương trình Ngữ văn 12, tập 1.
2. Dàn ý chi tiết
2.1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm
- Định hướng vào hình tượng sông Hương theo yêu cầu của đề và trích dẫn các nhận định.
2.2. Thân bài
a. Giải thích ý kiến
– Vẻ đẹp nổi bật là vẻ đẹp hiện trên bề nổi, gây ấn tượng vượt trội, dễ nhận thấy bằng trực cảm. Ý kiến thứ nhất coi cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ là vẻ đẹp nổi bật của sông Hương.
– Vẻ đẹp bề sâu là vẻ đẹp ẩn chìm, đòi hỏi phải có tri thức sâu rộng và chiêm nghiệm công phu mới khám phá được. Ý kiến thứ hai coi những trầm tích văn hóa, lịch sử là vẻ
đẹp bề sâu của sông Hương.
b. Cảm nhận về hình tượng sông Hương
*Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ: những cảnh trí, sắc màu của sông nước, núi đồi, bãi biền, cây cỏ, giàu chất thơ, đầy gợi cảm; những dáng nét của khúc uốn, đường cong, điệu chảy, nhịp trôi, gợi nhiều liên tưởng về mĩ nhân, về tình tự lứa đôi đầy quyến rũ và say đắm. Điều đó được nhà văn khám phá và cảm nhận theo thủy trình của dòng sông.
- Nơi thượng nguồn:
- Là bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu:
Khi mạnh mẽ, dữ dội: "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn..."
Lúc lại trữ tình, lãng mạn, nên thơ: "dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
- Như "một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại" với "một bản lĩnh gan dạ, 1 tâm hồn tự do và trong sáng"
--> Vẻ đẹp của 1 sức sống mãnh liệt, hoang dại và đầy cá tính. Đấy cũng là phần tâm hồn sâu kín của dòng sông mà chính nó không muốn bộc lộ.
- Qua vùng đồng bằng và ngoại ô Huế
+ SH là "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại"
-->vẻ đẹp mang màu sắccổ tích, huyền thoại. 
+ Sông chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, chuyển hướng, vòng qua thềm đất bãi, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế, trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững... 
--> Sự chuyển động của một dòng chảy vừa sống động, vừa dịu dàng, thơ mộng. 
+Những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông:
Mang vẻ đẹp dịu dàng, thi vị, sông “mềm như tấm lụa” khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo.
Có vẻ đẹp biến ảo như phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố: “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
Có vẻ đẹp “trầm mặc” như triết lí, như cổ thi khi chảy dưới chân những rừng thông u tịch và đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
- Về tới thành phố Huế:
+ Khi giáp thành phố: “Sông Hương vui tươi hẳn lên" ," kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc. uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”
-->vẻ đẹp của một thiếu nữ dịu dàng, e ấp trong lần đầu đứng trước người yêu.
- Trong lòng thành phố: Sông Hương trôi rất chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh.	
--> Đó là điệu slow tình cảm sâu lắng, trữ tình mà dòng sông dành riêng cho thành phố thân yêu của mình.
+ Khi giã từ Huế: Sông Hương ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói...
--> Với Huế, sông Hương như một người tình đắm say, đa tình nhưng rất mực chung tình.
* Vẻ đẹp của những trầm tích văn hóa, lịch sử:
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”, và bao đời nay vẫn được tô điểm bởi vô vàn công trình thi ca, âm nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc.
+ Là dòng sông góp phần làm nên kiến trúc đô thị cổ của cố đô.
+ Là dòng sông của âm nhạc, gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của Huế.
+ Là dòng sông khơi nguồn cho một dòng thi ca bất tận.
àSông Hương mang trong mình chất thơ và chất nhạc. Dòng sông ấy đã hoá tâm hồn trong chiều sâu văn hoá của con người xứ Huế và của cả dân tộc.
- Sông Hương gắn với biết bao chiến công oanh liệt qua các thời đại lịch sử.
+ Là dòng sông anh dũng, kiên cường qua các cuộc chống ngoại xâm.
+ Sông Hương còn nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời.
--> Là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. 
=> - Sông Hương được nhà văn soi ngắm dưới nhiều góc độ khác nhau. Đó là một dòng sông vừa tươi đẹp và quyến rũ trong các sắc thái tự nhiên, vừa sâu lắng trong các giá trị văn hoá, lại vừa kiên cường bất khuất khi đối diện với giặc ngoại xâm. Dòng sông ấy đã hoá thành máu thịt trong tâm hồn của Huế và của cả dân tộc.
 – Nghệ thuật khắc họa hình tượng: phối hợp kể và tả; biện pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh; ngôn ngữ giàu chất trữ tình, chất triết luận.
c. Bình luận về ý kiến
– Cả hai ý kiến đều có tính khái quát, sâu sắc, nhấn mạnh những vẻ đẹp khác nhau của hình tượng sông Hương: cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, tình tứ là vẻ đẹp nổi bật; những trầm tích
văn hóa, lịch sử là vẻ đẹp bề sâu.
– Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành sự nhìn nhận toàn diện và thống nhất về vẻ đẹp của sông Hương.
2.3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề nghị luận
Đề 4: Có ý kiến cho rằng: “Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về địa lí, văn hoá và lịch sử cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa” (SGK Ngữ văn 12, tập 1)
 Qua đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” trong bài kí cùng tên của Hoàng Phủ Ngọc Tường, anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
1. Phân tích đề
1.1. Yêu cầu nội dung: Làm nổi bật nét đặc sắc riêng trong phong cách kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?
1.2. Yêu cầu hình thức: Kiểu bài nghị luận về một ý kiến bàn về văn học, sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận: giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận.
1.3. Phạm vi tư liệu: đoạn trích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?trong chương trình Ngữ văn 12, tập 1.
2. Dàn ý chi tiết
2.1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm
- Định hướng theo yêu cầu của đề và trích dẫn nhận định.
2.2. Thân bài
a. Giải thích ý kiến
	Nhận định đã chỉ ra nét đặc sắc riêng trong phong cách kí của HPNT.Điều đó được thể hiện rõ nét qua tác phẩm kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?Bài kí là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về địa lí, văn hoá và lịch sử cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
b. Chứng minh
* Bài kí thể hiện vốn hiểu biết phong phú về địa lí, văn hoá, lịch sử của nhà văn. Với vốn kiến thức uyên bác, tác giả đã tái hiện hình tượng sông Hương mang vẻ đẹp trên nhiều phương diện.Qua đó, thể hiện cái nhìn đa chiều và bút pháp tài hoa của nhà văn.
- Từ vốn hiểu biết phong phú về địa lí nhà văn đã khám phá vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương trên hành trình về với Huế: 
+ Ở thượng nguồn: sông Hương mang vẻ đẹp hùng vĩ với nhiều tiết tấu: dữ dội “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” lúc “dịu dàng say đắmhoa đỗ quyên rừng”. Giữa lòng Trường Sơn là “hình ảnh của cô gái Di-gan phóng khoáng, man dại” . Ra khỏi rừng già: “mang đẹp dịu dàng, trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của vùng văn hoá xứ sở”. 
+ Khi qua đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế: 
Vẻ đẹp của cô gái ngủ mơ màng rồi chuyển dòng liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm 
Chảy dưới những rừng thông u tịch với những lăng mộ, nó mềm như tấm lụa, sắc nước biến ảo theo thời gian và mang vẻ đẹp trầm mặc như triết lý, cổ thi.
+ Khi vào thành phố Huế: 
 Sông Hương đẹp trong vóc dáng mền mại “ uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hếntiếng “vâng” không nói ra của tình yêu” 
Vẻ đẹp độc đáo, huyền áo lúc về đêm “ lập loè ánh lửa thuyền chài mà không một thành phố hiện đại nào có được”. 
 Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, in bóng cầu Tràng Tiền xa trông như “những vành trăng non”
Khi chia tay Huế: mang vẻ đẹp của sự chung tình, chung thuỷ, vấn vương: “ôm lấy đảo Cồn Hến lưu luyến ra đi”Qua Vĩ Dạ , con sông đẹp mơ màng trong sương khói, ở góc thị trấn Bao Vinh, sông Hương đẹp trong “nỗi vương vấn, có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu” 
- Bằng vốn hiểu biết phong phú về văn hoá xứ sở, nhà văn đã khám phá vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa: sông Hương còn hàm chứa trong bản thân nó nền văn hóa phi vật chất. 
+ Sông Hương - dòng sông âm nhạc: là nơi sản sinh ra những điệu hò dân gian và toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế, là cảm hứng để Nguyễn Du viết nên khúc đàn của Kiều. 
+ Sông Hương – dòng sông của thi ca: Sông Hương với vẻ đẹp thơ mộng trong thơTản Đà, vẻ đẹp hùng tráng trong thơ Cao Bá Quát, nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ Huyện Thanh Quan, sức mạnh phục sinh trong thơ Tố Hữu.
- Vốn hiểu biết phong phú về lịch sử, nhà văn đã khám phá vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn lịch sử: 
Sông Hương – dòng sông anh hùng với nhiều chiến công gắn liền với quá trình giữ nước qua các thời kì lịch sử: cổ đại, trung đại, hiện đại (thời kì chống Pháp và chống Mỹ) 
*Bài kí thể hiện một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa 
- Quan sát tinh tường, tỉ mỉ, tưởng tượng phong phú ( miêu tả sông Hương từ góc nhìn địa lí, hành trình sông Hương tìm về với Huế như về với tình nhân của mình ) 
- Sử dụng nhiều hình ảnh đẹp, mang tính hình tượng cao, ngôn từ gợi cảm, câu văn giàu nhạc điệu: “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”, “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ” 
- Cách so sánh liên tưởng gợi cảm: “Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non” 
- Bút pháp kể, tả kết hợp nhuần nhuyễn tài tình ( Sông Hương nhìn trong mối quan hệ với Huế), sông Hương được cảm nhận bằng con mắt của hội hoạ của cái nhìn đắm say của trái tim đa tình.
- Một cái tôi uyên bác, tài hoa; người viết đã vận dụng những tri thức phong phú, những hiểu biết sâu sắc về nhiều mặt (lịch sử, địa lý, thơ ca, âm nhạc, phong tục) để làm giàu cho giá trị nhận thức của tác phẩm; tác giả đã có một hồn thơ thật sự trong văn xuôi để làm đẹp cho ngôn từ, để viết nên những câu văn rất hay (“chiếc cầu trắngnhỏ nhắn như những vành trăng non”, “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”) 
c. Đánh giá khái quát
- Đây là một nhận định đúng đắn, đã nắm bắt chính xác nét đặc sắc riêng trong phong cách kí cuả HPNT.
- Ai đã đặt tên cho dòng sông? là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Tác phẩm đã thể hiện một cái tôi tài hoa, uyên bác, say mê tìm kiếm cái đẹp, gắn bó với thiên nhiên với một tình yêu tha thiết dành cho quê hương, xứ sở. 
2.3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề nghị luận
Đề 5: Cảm nhận của anh/chị về đoạn văn sau, từ đó liên hệ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để làm làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương trong sự phối cảnh hài hòa với thiên nhiên xứ Huế.
	Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đauù vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quang đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cong thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả.Giữa đám quần sơn lô xô ấy.là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ tỏa lan khắp cả một vùng thượng lưu “Bốn bề núi phủ mây phong – Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn Niên”. Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”
(Trích Ai đã đặt tên cho dòng sông?– Hoàng Phủ Ngọc Tường, 
SGK Ngữ văn 12, tập 1, tr.198 – 199).
1. Phân tích đề
1.1. Yêu cầu nội dung: Làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng sông Hương trong sự phối cảnh hài hòa với thiên nhiên xứ Huế.
1.2. Yêu cầu hình thức: Kiểu bài nghị luận tổng hợp bao gồm cảm thụ văn học và so sánh .
1.3. Phạm vi tư liệu: đoạn trích bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?trong chương trình Ngữ văn 12, tập 1.
2. Dàn ý chi tiết
2.1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề nghị luận: đoạn văn trong bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? – Hoàng Phủ Ngọc Tường trong sự liên hệ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
2.2. Thân bài
a. Cảm nhận về đoạn văn
*Về nội dung: Đoạn văn làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương khi qua vùng đồng bằng và ngoại ô Huế.
- SH là "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại"
-->Sự liên tưởng nhân hóa độc đáo à nổi bật vẻ đẹp mang màu sắccổ tích, huyền thoại. 
- Như được đánh thức, SH bừng lên sức trẻ và niềm khao khát của cô gái độ tuổi thanh xuân. Sông chuyển dòng liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, chuyển hướng, vòng qua thềm đất bãi, vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế, trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững... 
--> Sử dụng hàng loạt các cụm động từ mang sắc thái nhân hóa làm nổi bật sự chuyển động của một dòng chảy vừa sống động, vừa dịu dàng, thơ mộng. 
- Những vẻ đẹp khác nhau của dòng sông khi được phản chiếu bởi sự phong phú của cảnh sắc đôi bờ:
+ Góp nhặt cho mình sắc núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm.
+ Mang vẻ đẹp dịu dàng, thi vị, sông “mềm như tấm lụa” khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo.
+ Có vẻ đẹp biến ảo như phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố: “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”
+ Có vẻ đẹp “trầm mặc” như triết lí, như cổ thi khi chảy dưới chân những rừng thông u tịch và đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông chùa Thiên Mụ.
*Về nghệ thuật: Đoạn văn thể hiện một ngòi bút lịch lãm, tài hoa với lối văn phong hướng nội, súc tích và mê đắm lòng người. Vốn ngôn từ của nhà văn rất phong phú, đặc biệt là những liên tưởng so sánh, nhân hóa đặc sắc, thú vị, cho thấy một cách cảm nhận và suy tư có chiều sâu trí tuệ.
*Đánh giá khái quát:
b. Liên hệ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
* Nêu hoàn cảnh sáng tác và hướng tiếp cận bài thơ.
* Cảm nhận về vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên xứ Huế trong bài thơ.
- Bức tranh vườn Vĩ Dạ trong buổi sớm mai:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
àBức tranh mang vẻ đẹp vừa tinh khôi, trong trẻo lại vừa tràn đầy sức sống, như viên ngọc lung linh trong buổi sớm mai.Đặc biệt, cảnh và người có sự hài hòa với nhau tạo nên vẻ đẹp riêng của xứ Huế.
- Cảnh sông nước trong đêm trăng thơ mộng:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
àMột khung cảnh lung linh, huyền ảo, thấm đẫm chất thơ, chất mộng và cũng mang đầy nỗi niềm tâm trạng của thi nhân.
c. Nhận xét
* Điểm tương đồng:
- Đều tập trung khắc họa làm nổi bât vẻ đẹp rất riêng của sông Hương và xứ Huế - vẻ hiền hoà, thơ mộng, trữ tình, gợi cảm xúc đặc biệt trong lòng người đọc.Qua đó, bộc lộ tình cảm gắn bó thiết tha của người nghệ sĩ dành cho mảnh đất yêu dấu này.
- Dù là tác phẩm thơ hay văn xuôi cũng đều thể hiện tài năng ngôn ngữ tinh tế, tài hoa, đậm chất trữ tình của người nghệ sĩ ngôn từ.
* Điểm khác biệt:
- Đối tượng miêu tả và trữ tình:
+ Vẻ đẹp của thôn Vĩ và xứ Huế trong thơ HMT gắn liền với nỗi niềm tâm sự riêng của một người yêu đời bằng tình yêu tha thiết đến khắc khoải, tuyệt vọng. Nó trở thành biểu tượng của cuộc sống tươi đẹp đầy ánh sáng về thế giới “ngoài kia” mà Hàn luôn khát khao hướng đến nhưng cũng đau đớn, đầy mặc cảm.
+ Với HPNT, đối tượng chính để nhà văn khám phá và miêu tả là vẻ đẹp của sông Hương trong sự phối cảnh hài hòa, kì thú với thiên nhiên xứ Huế. Nét độc đáo trong cách cảm nhận của nhà văn ở chỗ: SH không thuần túy là cảnh sắc thiên nhiên mà mang cả hồn người. Nhà văn lần theo thủy trình của dòng sông không phải tư cách một nhà địa lí, khảo cứu mà như một chàng trai đa tình khám phá tính cách của một cô gái. Hương Giang chính là người con gái dịu dàng của riêng thành phố Huế thân yêu.
- Hình thức thể loại:
+ Một bên là thơ trữ tình được làm theo thể thơ thất ngôn, do đó ngôn ngữ đòi hỏi sự cô đọng, hàm súc, đặc biệt là lớp ngôn từ cực tả, hình ảnh cũng mang nhiều tầng nghĩa biểu tượng.
+ Còn một bên là kí – một loại hình văn xuôi dùng để ghi chép, miêu tả sự vật, sự việc, do đó tính thông tin sẽ cao hơn. Dẫu vậy, bài kí của HPNT vẫn rất giàu chất trữ tình, có sức cuốn hút, hấp dẫn làm mê đắm lòng người.
* Cơ sở tạo nên sự tương đồng và khác biệt:
- Cơ sở tạo nên sự tương đồng: tình cảm yêu mến, gắn bó thiết tha của người nghệ sĩ với xứ Huế thân yêu.
- Cơ sở tạo nên sự khác biệt: hoàn cảnh ra đời của mỗi tác phẩm, yêu cầu sáng tạo của văn học nói chung và cá tính sáng tạo của mỗi người nghệ sĩ nói riêng.
d. Đánh giá khái quát
2.3. Kết bài.
Khái quát lại vấn đề nghị luận
THƯ MỤC THAM KHẢO
Đặc trưng của dạy học tích cực (www.giaoduc .edu.vn)
Đỗ Kim Hồi chủ biên, Bồi dưỡng Ngữ văn 12, NXB ĐH Sư phạm – 2010
Hoàng Dục chủ biên, Chuyên đề dạy – học Ngữ văn 12: Người lái đò Sông Đà - Nguyễn Tuân, NXB Giáo dục 2008
Lê A chủ biên, Thực hành làm văn lớp 12, NXB Giáo dục Việt Nam. 
Lê Thị Hường chủ biên, Chuyên đề dạy – học Ngữ văn 12. Ai đã đặt tên cho dòng sông? -Hoàng Phủ Ngọc Tường, NXB GD 2008
Nguyễn Đăng Mạnh. Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại. Nxb ĐHSP. 2005.
Nguyễn Văn Đường chủ biên , Thiết kế bài giàng Ngữ văn 12 Tập 1, NXB Hà Nội 2009.
Phạm Trọng Luân, Dạy học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 12, NXB ĐH Sư phạm 2010.
Phan Danh Hiếu, Những điều cần biết kì thi THPT QG Ngữ văn, NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội
SGK Ngữ văn 12 Tập 1(NXB Giáo dục 2009)
SGV Ngữ văn 12 Tập 1(NXB Giáo dục 2009)
SKKN: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản bút kí trong trường THPT – Tài liệu text -123.org.

File đính kèm:

  • doc7. LVT RÈN KỸ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC TRONG ĐỀ THI THPT QG QUA HAI TÁC PHẨM NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG.doc
Sáng Kiến Liên Quan