SKKN Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn Lớp 9

Tổ chức hoạt động khởi động rất cần thiết trong dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại nhằm phát triển năng lực cho học sinh như phát triển năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề . Ở hoạt động này giáo viên đã tạo ra những tình huống, những vấn đề ở đó người học cần được huy động tất cả các kiến thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và giải quyết theo cách riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để giải quyết. Chính vì thế nhiều giáo viên Ngữ Văn đã tích cực tìm tòi để kích thích tính tò mò và định hướng hoạt động của học sinh trước khi hình thành kiến thức là mục đích chính của phần khởi động trong dạy học.

Dạy học phần truyện Việt Nam phần truyện hiện đại trong chương trình Ngữ Văn 9 thông qua tổ chức hoạt động khởi động giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết một cách tích cực, tự giác và chủ động chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn . Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến thức có sẵn mà là người tổ chức học sinh tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn .

Như vậy, tổ chức hoạt động khởi động phải là một hoạt động học tập, nhiệm vụ chuyển giao của giáo viên phải rõ ràng, học sinh phải được bày tỏ ý kiến riêng của mình cũng như ý kiến của nhóm về vấn đề đó cũng như việc trình bày báo cáo kết quả. Nhận thức được mục đích của hoạt động khởi động nên bản thân tôi và các đồng nghiệp của mình đã mạnh dạn tìm tòi và thể nghiệm những cách thức để tổ chức hoạt động khởi động.

Có rất nhiều cách thức để tạo tâm thế khi phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Có thể hát một câu hát, câu hò; kể một câu chuyện ngắn; chia sẻ những cảm xúc chân thành của bản thân; liên quan đến chủ đề bài học sắp giảng dạy. Những hoạt động khởi động ấy như một chất xúc tác giúp học sinh đi vào bài học khá dễ dàng.

Tuy nhiên, một số giáo viên còn lạm dụng hoạt động này. Chẳng hạn như tổ chức trò chơi, hát múa mà không ăn nhập với bài học hoặc chỉ là để “vào bài” với cái tên bài học mà ai cũng biết hoặc lựa chọn các tình huống không phù hợp hoặc quá đơn giản dẫn đến các em có thể trả lời được một cách dễ dàng với các câu hỏi đặt vấn đề. Một số giáo viên dành thời gian cho hoạt động này quá ít hoặc quá nhiều. Có giáo viên chưa coi đó là một hoạt động học tập. Không những thế, ở một số tiết dạy giáo viên chưa cho các em suy nghĩ, bày tỏ ý kiến của mình. Về phương pháp một số giáo viên cố gắng giảng giải, chốt kiến thức ở ngay hoạt động này.

 

doc27 trang | Chia sẻ: thuydung3ka2 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 6Download
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn Lớp 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 vượt sông cách đó độ một vài cây số. Còn cô ta, trước khi qua sông cô còn gài lại hai trái lựu đạn. Cô qua sông, thế là thoát. Còn đám biệt kích kia, bọn nó tưởng thật, định hốt cả một đoàn khách, nên chẳng dám rục rịch, mà cứ chờ. Chờ mãi, bọn nó biết, nó chửi rủa nhau, trong lúc lục đục kéo về lớ quớ thế nào lại vấp cả hai quả lựu đạn gài, rụng hết mấy mạng. Qua chuyện đó, người ta thêm thắt rằng cô giao liên ấy có cái mũi rất thính, cô dùng mũi để nghe mùi địch và có thể phân biệt được thằng nào là Mỹ, thằng nào là ngụy nữa.
- Học sinh hoạt động toàn lớp để tranh luận về vấn đề dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên.
* Bước 3. Báo cáo kết quả
- HS trình bày cảm nhận riêng về cô giao liên. 
* Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. 
	Cuộc gặp gỡ với cô giao liên gan dạ, dũng cảm ấy là khơi nguồn kí ức về tình cảm cha con ông Sáu – bé Thu trong hoàn cảnh chiến tranh éo le và khắc nghiệt mà hôm nay cô trò chúng ta cùng tìm hiểu.
Giải pháp 2: Tổ chức trò chơi 
 a. Yêu cầu.
- Giáo viên: Đọc và tìm hiểu nội dung bài học để lựa chọn trò chơi cho phù hợp với tiết dạy. Hướng dẫn thể lệ, cách thực hiện trò chơi (tuỳ thuộc vào từng trò chơi để đưa ra luật chơi).
 	- Học sinh: Nắm chắc thể lệ trò chơi do giáo viên đưa ra để tuân thủ thực hiện một cách nghiêm ngặt và đúng quy tắc. Nếu là trò chơi mang tính chất tập thể thì đòi hỏi mỗi thành viên phải có tinh thần trách nhiệm và ý thức cao khi tham gia chơi.
 b. Ví dụ: Văn bản Làng (Ngữ Văn 9, Tập 1)
a. Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã có về ca dao và tục ngữ Việt Nam; những bài thơ tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: nhóm. 
c. Phương tiện: Phiếu học tập. 
d. Tiến trình hoạt động: 
* Bước 1. Giao nhiệm vụ
- Tổ chức trò chơi: Chia lớp thành 3 đội yêu cầu mỗi đội trong vòng 5 phút tìm những câu tục ngữ hoặc ca dao, hoặc những bài thơ có từ “làng”. Đội nào tìm được nhiều câu thì đội đó thắng.
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ
- Học sinh hoạt động nhóm để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. 
* Bước 3. Báo cáo kết quả 
- GV chia bảng làm 3 phần, mời đại diện của các nhóm ở mỗi dãy lên ghi trên bảng như:
- “Làng tôi có lũy tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng” 
 (Ca dao)
- “Làng ta ở tận làng ta
Mấy năm một bận con xa về làng
Gốc cây, hòn đá cũ càng,
Trâu bò đủng đỉnh như ngàn năm nay
Cha ta cầm cuốc trên tay,
Nhà ta xơ xác hơn ngày xa xưa
Lưng trần bạc nắng thâm mưa
Bụng nhăn lép kẹp như chưa có gì”
 (Về làng, Nguyễn Duy)
“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió”
	(Quê hương, Tế Hanh)
Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay
	 (Hạt gạo làng ta, Trần Đăng Khoa)
* Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức 
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. Hình ảnh làng quê với cây đa, bến nước, sân đình  gắn bó sâu nặng với bao người. Tình yêu đối với làng quê càng chân thực và sâu nặng hơn khi đặt người dân vào những tình huống éo le. Đó chính là sức hấp dẫn của truyện ngắn “Làng”
Giải pháp 3: Hoạt động trải nghiệm, liên hệ thực tế
 a. Yêu cầu
Kết hợp thực tế có nghĩa là kết hợp thực tế giữa học sinh - giáo viên - phụ huynh, là kết hợp giữa thực tế học tập - cuộc sống - xã hội. Kết hợp thực tế sẽ giúp cho hoạt động dạy học thân thiết hơn, gần gũi và khoáng đạt hơn. Dùng phương pháp này chỉ là cái “cớ” để dẫn vào bài học, vừa làm phong phú nội dung dạy học, vừa phát huy tính tích cực ở học sinh và tính chỉ dẫn của người dạy.
 b. Ví dụ: Văn bản Làng (Ngữ Văn 9, Tập 1)
a. Mục tiêu: Giúp học sinh từ trải nghiệm thực tiễn của bản thân trong đời sống; vận dụng kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
 b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: liên hệ thực tiễn đời sống. 
c. Phương tiện: Màn hình ti vi
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1. Giao nhiệm vụ
Nếu được “khoe” làng quê của mình đang sống, em sẽ “khoe” với mọi người điều gì?
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ 
- Học sinh hoạt động cá nhân để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. 
* Bước 3. Báo cáo kết quả 
- HS trình bày sự liên hệ của bản thân mình với tình cảm với làng quê. 
* Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt. 
Mỗi chúng ta ai cũng có một tình yêu đối với làng quê của mình bằng tình cảm nhớ nhung da diết, bằng sự gắn bó thiết tha đối với quê nhà. Đối với người nông dân chất phác thì tình cảm với làng quê, thôn xóm là tình cảm tự trong tim, ngấm sâu vào máu thịt. Đó là nỗi nhớ da diết của một con người cả đời gắn bỏ sâu nặng với mảnh đất nơi mình sinh ra, lớn lên. Cái làng đã trở thành nguồn vui sống của họ. Chính vì thế, bên cạnh hình ảnh những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trên mặt trận chống Pháp còn có những con người hi sinh lặng thầm nơi hậu phương đế góp phần vào thắng lơi của kháng chiến. Đó là những người nông dân có lòng yêu nước thiết tha, bình dị, sâu sắc mà các em sẽ được tìm hiểu qua truyện ngắn “Làng” của Kim Lân. 
Giải pháp 4: Nêu câu hỏi 
 a. Yêu cầu
	Nêu câu hỏi có hai loại: Loại câu hỏi thiết vấn (thiết lập câu hỏi để tự trả lời) và loại câu hỏi đề vấn (nêu câu hỏi để học sinh trả lời). Nội dung câu hỏi có thể nêu ra từ những mặt khác nhau, góc độ khác nhau nhưng chỉ cần phù hợp với nội dung bài học là được. Đây là phương pháp khởi động đơn giản được sử dụng rất phổ biến trong quá trình giảng dạy.
 b. Ví dụ: Văn bản Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ Văn 9, tập 1)
a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi do GV gợi mở; Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân. 
c. Phương tiện: Màn hình ti vi. 
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1. Giao nhiệm vụ
- GV: Em đã từng có dịp nào đến Sa Pa chưa? Em biết gì về Sa Pa? 
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ
- Học sinh hoạt động cá nhân để trả lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên. 
* Bước 3. Báo cáo kết quả 
- HS trình bày hiểu biết qua việc trả lời câu hỏi
 * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức: Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. 
Giáo viên thiết vấn: Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa, những vẻ đẹp huyền ảo. Sa Pa, nơi mà nhắc đến tên, người ta đã nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi, có những con người làm việc và lo lắng cho đất nước. Họ là những con người như thế nào? 
 Học sinh mang theo thắc mắc vào học tập, phân tích, tìm hiểu những thắc mắc để tìm đến lẽ phải có tính mục đích rõ ràng khiến cho kiến thức vững vàng và khắc sâu ở các em hơn. Tuy nhiên, khi giáo viên nêu câu hỏi cần lưu ý đó là những kiến thức quen thuộc với học sinh, đáp án đưa ra là duy nhất. Có như thế khi giải đáp thắc mắc sẽ có tính nhất quán và mục đích dẫn tới bài học sẽ hoàn hảo.
 Giải pháp 5: Sử dụng hình ảnh trực quan
 Sử dụng đồ dùng trực quan trong tổ chức dạy học phần khởi động chủ yếu là tranh ảnh và những đoạn phim tư liệu. 
 (1). Sử dụng tranh ảnh minh họa
 a. Yêu cầu
	 Sử dụng tranh ảnh minh họa là phương pháp khá phổ biến trong giảng dạy các môn khoa học tự nhiên và các môn Địa lí, Sinh học, Lịch sử,Còn dạy học Ngữ Văn thì dựa vào văn bản là chủ yếu, hiếm khi sử dụng vật mẫu hay tranh ảnh minh họa. Vì thế, khi sử sụng tranh ảnh minh họa học sinh sẽ có được những cảm nhận mới mẻ khi tiếp cận văn bản. Đây là một biện pháp hỗ trợ dạy học không thể thiếu trong giảng dạy nói chung. Biện pháp này có thể thay cho khởi động để tạo cảm giác chân thực, tăng thêm tính rõ ràng, tính sinh động khi thuyết giảng.
 b. Ví dụ: Văn bản Lặng lẽ Sa Pa (Ngữ Văn 9, tập 1).
a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi do GV gợi mở; Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
 b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân. 
c. Phương tiện: Màn hình ti vi. 
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1. Giao nhiệm vụ 
- GV: yêu cầu HS quan sát những bức tranh sau trên màn hình. Quan sát các bức tranh, em nào cho cô biết hình ảnh trên gợi cho em những ấn tượng gì?
Ngũ Chỉ Sơn
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ
- Hình ảnh những ngon núi cao, cuộc sống đầy khó khăn, gian khó. 
* Bước 3. Báo cáo kết quả
- HS trình bày hiểu biết qua việc trả lời câu hỏi
 * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. 
- GV: Đây là hình ảnh những ngọn núi cao ở tỉnh Lào Cai – nơi chứng kiến cuộc gặp gỡ tình cờ của mấy người khách trên chuyến xe lên Sa Pa với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Để rồi từ đó vẻ đẹp phẩm chất, tâm hồn của những con người nơi đây có sức lan tỏa mạnh mẽ đến người đọc. 
 	(2). Sử dụng video
 a. Yêu cầu
	Sử dụng các đoạn video là một loại dạy học trực quan đem lại hiệu quả tích cực trong dạy học. Từ các đoạn phim được xem HS sẽ được bổ trợ kiến thức, khơi gợi sự hứng thú khi tìm hiểu những kiến thức mới. 
 b. Ví dụ: Văn bản Những ngôi sao xa xôi (Ngữ Văn 9, tập 2).
a. Mục tiêu: Giúp học sinh vận dụng kiến thức để trả lời câu hỏi do GV gợi mở; Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: hoạt động cá nhân. 
c. Phương tiện: Màn hình ti vi. 
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1. Giao nhiệm vụ
HS xem một đoạn phim tư liệu về con đường Trường Sơn huyền thoại. 
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ
- HS xem một đoạn phim. 
* Bước 3. Báo cáo kết quả
- HS trình bày hiểu biết qua việc trả lời câu hỏi và trình bày những nhận xét của em về một con đường huyền thoại mang tên Đường Trường Sơn.
 * Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. 
- GV: Đường Trường Sơn hay “đường mòn” Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, đi qua miền Trung, hạ Lào và Campuchia. Hệ thống giao thông này đóng vai trò cung cấp binh lực, lương thực và vũ khí khí tài để chi viện cho quân giải phóng miền Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt 16 năm (1959 - 1975) của thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Đây là con đường còn được những người lính trong cuộc chiến gọi là “Tuyến lửa”, được quân đội Mỹ coi là “một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật quân sự ở thế kỷ XX”.
	 2.2.3. Kết quả sau khi áp dụng đề tài
Kết quả khảo sát
Sau khi áp dụng đề tài, tôi đã thực hiện bài khảo sát HS trên phiếu điều tra đối với 116 HS khối lớp 9 như sau:
Nội dung khảo sát
Số lượng
Tỉ lệ
1. Em có chuẩn bị muốn được tham gia vào các hoạt động khởi động không? 
- Mức độ cao. 
72
62,0
- Mức độ trung bình
34
29,3
- Mức độ thấp
10
8,6
2. Hình thức khởi động nào em thích nhất. 
Tổ chức kể chuyện.
20
17,2
Tổ chức trò chơi
33
28,4
Hoạt động trải nghiệm, liên hệ thực tế.
18
15,5
Nêu câu hỏi.
12
10,3
Sử dụng hình ảnh trực quan.
33
28,4
3. Nếu khởi động tạo cho em sự tò mò, em có muốn tìm hiểu bài học để giải đáp vấn đề không?
Có
116
100
Không
0
0
Đối với học sinh
Về kiến thức: Học sinh nắm được các thông tin chủ chốt về tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Nắm được giá trị nội dung chính của tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam 
Về kĩ năng: Học sinh bước đầu rèn luyện được kĩ năng giải quyết các vấn đề khi đọc - hiểu các tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam theo đúng trình tự các thao tác phát hiện, tìm phương án giải quyết và giải quyết vấn đề. Bên cạnh đó HS còn rèn luyện kĩ năng hợp tác, kĩ năng thảo luận, thuyết trình, bước đầu tiến hành điều hành khá tốt hoạt động vấn đáp sau trình bày.
Về tinh thần thái độ học tập: Học sinh hào hứng với các hình thức khởi động, từ hoạt động học tập cá nhân đến hoạt động nhóm. Nhiều em tỏ ra khá mạnh dạn, tự tin trong việc phản biện, chất vấn các vấn đề đặt ra. Giả thuyết mà các em nêu ra rất sinh động, vượt qua dự đoán của GV. 
Đối với giáo viên
Về kiến thức: giáo viên định hướng đúng trọng tâm bài dạy, những vấn đề cần thiết phải giải quyết trong một tiết dạy 45 phút và những vấn đề có thể gợi mở cho học sinh tìm hiểu thêm truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn lớp 9. Do vậy khá tự tin và thoải mái trong tiến trình bài dạy.
Về phương pháp: giáo viên vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học theo đúng đặc trưng bộ môn Ngữ Văn. Tổ chức đầy đủ, đảm bảo các hình thức dạy học để phát huy năng lực của học sinh. Chú ý phát huy các năng lực chung và năng lực tổng quát của bộ môn như năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp trong sự kết hợp với các năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học. Bước đầu giúp học sinh thực hiện các thao tác khởi động phù hợp và có hiệu quả khi dạy học truyện hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ Văn lớp 9.
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài 
Ngữ văn là môn học công cụ, mang tính nhân văn. Các đặc trưng này thể hiện qua những mục tiêu cơ bản của nó và cách tiếp cận những mục tiêu đó. Môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học.
Có rất nhiều cách thức để phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh khi tổ chức hoạt động khởi động, song đối với riêng cá nhân tôi để tổ chức hoạt động khởi động đạt hiệu quả khi dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9, tôi đã áp dụng các giải pháp cơ bản sau: 
Giải pháp 1: Tổ chức kể chuyện.
Giải pháp 2: Tổ chức trò chơi 
Giải pháp 3: Hoạt động trải nghiệm, liên hệ thực tế.
Giải pháp 4: Nêu câu hỏi. 
Giải pháp 5: Sử dụng hình ảnh trực quan.
3.1.1. Đối với học sinh
Khi xác định được trọng tâm dạy - học như vậy, kết hợp với việc áp dụng các phương pháp khởi động như trên. Bước đầu, cả người dạy và người học khi bắt đầu một tiết học Ngữ văn đã phá bỏ được sự nhàm chán, uể oải khi tiếp cận văn bản. 
Học văn trước hết là để hiểu văn, biết cảm thụ, phân tích văn. Sau đó là hiểu đời, rút ra được bài học sâu xa về cuộc sống để có cách sống đẹp. Vì vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, các em phải tham gia phân tích tác phẩm một cách chủ động, tích cực, tự giác với niềm hăng say thật sự qua hệ thống câu hỏi giáo viên đưa ra hoặc có thể tự mình nêu vấn đề và trình bày ý kiến cảm nhận vào một chi tiết truyện, một nhân vật truyện. Các ý kiến đó có thể đánh giá cái hay cái đẹp và cả những hạn chế nữa.
Hầu hết các em nắm được tham gia vào hoạt động khởi động của một tiết học. Đặc biệt là tạo được tâm thế học tập học sinh, giúp học sinh ý thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới. Trên cơ sở các hoạt động do giáo viên tổ chức các em sẽ huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân có liên quan đến vấn đề xuất hiện; làm bộc lộ "cái" học sinh đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân học sinh còn thiếu, giúp học sinh nhận ra "cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này. Từ đó, giúp học sinh suy nghĩ và bộc lộ những quan niệm của mình về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập.
Bước đầu các em đã kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kỹ năng với thái độ, tình cảm, nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động học trong bối cảnh nhất định. Một số em đã sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố về kiến thức và kĩ năng được thể hiện thông qua hoạt động của cá nhân nhằm liên hệ thực tiễn vấn đề trong cuộc sống.
Một số học sinh yếu kém bước đầu đã có hứng thú hơn khi giáo viên giao bài tập trên lớp cũng như ở nhà để chuẩn bị cho phần khởi động tiết học. Các em đã chủ động và tích cực hơn trong giờ học từ đầu đến cuối, tận dụng mọi thời gian để tìm tòi và phát hiện kiến thức, do đó trong khâu kiểm tra đã đạt được nhiều kết quả khả quan hơn. 
3.1.2. Đối với giáo viên
Giáo viên đã truyền được niềm đam mê và hứng thú học tập cho các em. Bên cạnh đó chính người dạy đã nhận được những phản hồi tích cực từ phía học sinh, kêt thúc mỗi tiết dạy bao giờ cũng là những câu hỏi ngoài lề, liên hệ thực tế. Vậy nên, quá trình dạy học trên lớp chỉ gói gọn trong vòng 45 phút, khiến cả người dạy - người học cảm thấy rất ngắn, tiết học trôi qua rất nhanh, trọng tâm kiến thức được truyền đạt, đồng thời hình thành kĩ năng sống, giao tiếp và học tập cho học sinh. Đây chính là động lực cũng là mục tiêu để người dạy tiếp tục áp dụng và tìm tòi, đổi mới các phương pháp trong dạy học. 
Tổ chức hoạt động khởi động gắn liền với hoạt động tiếp nối là hình thành kiến thức mà đã có trong tài liệu, sách giáo khoa của bài học; coi hoạt động này là một hoạt động học tập, có mục đích, thời gian hoạt động và sản phẩm hoạt động; bố trí thời gian thích hợp cho các em học tập, bày tỏ quan điểm cũng như sản phẩm của hoạt động.
Việc thay đổi hình thức khởi động từ việc giáo viên chỉ dùng một vài câu để dẫn dắt vào bài thay bằng việc tổ chức khởi động thành một hoạt động để học sinh được tham gia trực tiếp gải quyết vấn đề khởi động đang là hướng đi tích cực mà GV cần đầu tư đúng mức. Hoạt động khởi động phải xác định rõ mục tiêu cần đạt, phương pháp và kỹ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao cho học sinh trong hoạt động khởi động cần kiểm kê lại kiến thức của học sinh xem học sinh đã có được kiến thức gì liên quan đến bài học, tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt HS vào phần hình thành kiến thức mới.
Quá trình dạy học là quá trình tương tác giữa hoạt động của người học và người dạy. Thầy cô giáo cũng như nghệ sĩ. Đặc biệt thầy cô giáo dạy Văn càng phải như những nghệ sĩ bởi ngoài việc giảng dạy tri thức, thì chúng ta còn mang thiên chức bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động thẩm mĩ ở học sinh. Tài năng của các em không thể thăng hoa nếu cứ phải chịu sự bó buộc. 
3.2. Kiến nghị và đề xuất
Từ kinh nghiệm của bản thân tôi nhận thấy tổ chức hoạt động khỏi động trong dạy học phần truyện Việt Nam hiện đại nói riêng và các văn bản văn học trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 nói chung rất cần thiết. Thiết nghĩ giáo viên nên tăng cường tổ chức các hoạt động khởi động vào tất cả các giờ học trong các giờ học Ngữ Văn. Có rất nhiều phương pháp tổ chức hoạt động khởi động có hiệu quả. Chính vì thế GV cần vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động khởi động, tránh tổ chức một cách hình thức hoặc gây đơn điệu, nhàm chán, tăng cường tính tích cực, chủ động của học sinh theo hướng trải nghiệm sáng tạo, góp phần bồi dưỡng hứng thú học tập và phát triển năng lực cho học sinh.

File đính kèm:

  • docskkn_phat_huy_tinh_tich_cuc_tu_giac_chu_dong_sang_tao_cua_ho.doc
Sáng Kiến Liên Quan