SKKN Một số phương pháp dạy học tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy phần ca dao – dân ca ở bậc Trung học cơ sở
Cơ sở lí luận.
Có thể nói vấn đề dạy học tác phẩm văn học theo thể đặc trưng thể loại cho đến nay vẫn chưa hề cũ vì dạy tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một trong những yêu cầu cần thiết và quan trọng. Nó khẳng định được cách đi đúng hướng trong việc cải tiến, đổi mới phương pháp nội dung dạy – học Ngữ Văn ở Trung học cơ sở theo chương trình sách giáo khoa hiện nay.
Như chúng ta đã biết sách giáo khoa Ngữ Văn hiện nay được biên soạn theo chương trình tích hợp, lấy các kiểu văn bản làm nơi gắn bó ba phân môn (Văn – Tiếng Việt – Tập Làm Văn), vì thế các văn bản được lựa chọn phải vừa tiêu biểu cho các thể loại ở các thời kỳ lịch sử văn học, vừa phải đáp ứng tốt cho việc dạy các kiểu văn bản trong Tiếng Việt và Tập Làm Văn. Vì vậy sách giáo khoa Ngữ Văn 7 hiện nay có cấu trúc theo kiểu văn bản, lấy các kiểu văn bản làm trục đồng quy. Ở chương trình Ngữ Văn Trung học cơ sở các em được học 6 kiểu văn bản: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh và điều hành. Sáu kiểu văn bản trên được phân học thành hai vòng (Vòng 1: lớp 6-7; vòng 2: lớp 8-9) theo nguyên tắc đồng tâm có nâng cao. Ở lớp 7 các em học ba kiểu văn bản: Biểu cảm, lập luận và điều hành. Trong đó học kỳ I chỉ tập trung một kiểu văn bản là biểu cảm. Chính vì vậy mà SGK Ngữ Văn 7 đã đưa những tác phẩm trữ tình dân gian (Cụ thể là ca dao – dân ca) nhằm minh họa cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận (đọc, hiểu, cảm thụ, bình giá về ca dao – dân ca một thể loại trữ tình dân gian).
Theo xu hướng tích cực hóa hoạt động dạy học của học sinh cấp Trung học sơ sở thì mục tiêu của môn Ngữ văn là góp phần hình thành những con người có trình độ học vấn phổ thông cơ sở, chuẩn bị nền tảng cho học sinh được tiếp tục lên bậc cao hơn, giúp người học có ý thức tu dưỡng, biết yêu thương, tôn trọng, quan tâm bạn bè, có lòng yêu nước, yêu quê hương, luôn hướng tới tình cảm cao đẹp, lòng nhân ái, trân trọng cái đẹp và lẽ phải. Đối với học sinh lớp 7, phần Ca dao – dân ca có phần quen thuộc với các em. Bởi ca dao – dân ca đã thấm vào máu thịt con người Việt như mạch suối nguồn không bao giờ cạn. Từ ngày ấu thơ, các em đã được tiếp xúc với nó trong lời ru của mẹ, trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Tuy nhiên để tìm hiểu nó một cách bài bản theo đặc trưng thể loại, thi pháp đặc thù thì là một vấn đề khá mới mẻ với các em.
Một số học sinh khác vì lười học, chán học nên không chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học văn. Văn là phải cảm thụ mới thấy được cái hay của văn chương nghệ thuật. Thế nhưng nhiều em ngồi học mà tâm hồn cứ “treo ngược cành cây”. Nhiều em đối với giờ văn tỏ ra chán nản, không muốn học, thậm chí buồn ngủ và nằm ngủ trên bàn! Trong khi đó, văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn ngữ đầy giá trị. Có thể coi một câu ca dao hay một bài dân ca là một viên ngọc mà ông cha đã để lại cho con cháu đời sau. Nó bay bổng, tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm thế nào để cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường, tâm tình của ông cha thủa trước gửi gắm trong ca dao- dân ca? Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi thầy cô giáo đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu quả nhất cho riêng mình.
gào, du dương làm cho em cảm thấy lời nhắc nhở nhẹ nhàng mà sâu lắng. - Hỏi: Hình thức thể loại của bài ca “Ở đâu năm của nàng ơi” có gì đặc biệt? - Học sinh: Đây là thể loại đối đáp thường gặp trong ca dao trữ tình giao duyên cổ truyền Việt Nam. - Hỏi: Các điệp ngữ, đảo ngữ: Đứng bên ni đồng, ngó bên tê đồng, mênh mông bát ngát, bát ngát mênh mông gợi cho người đọc, người nghe cảm xúc và ấn tượng gì? - Học sinh: Gợi cho chúng ta như đang đứng trước một cánh đồng rộng, nhìn hút tầm mắt, từ bên nào nhìn ra đều thấy sự rộng lớn của cảnh đồng lúa đang thì con gái. + Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng Sự tưởng tưởng càng phong phú và mãnh liệt thì cảm xúc càng phát triển, khi nghiêm cứu về vấn đề này cả Đuđetxki và Lêvinôp đều cho rằng: “các hình ảnh tưởng tượng của các em khác với biểu tượng của trí nhớ có tính chất cá biệt rõ rệt, hoặc có những dấu hiệu riêng biệt phong phú, hoặc ngược lại chỉ phản ánh cái chung không chỉ có chi tiết hóa một cách rõ ràng và xác định. Giai đoạn khó nhất của tưởng tượng là từ tái tạo đến tổng hợp các dấu hiệu khác nhau thành một hình ảnh toàn vẹn: sự tổng hợp này sẽ dễ dàng hơn nếu nó dựa trên tính chất trực quan của tri giác, đặc biệt để nắm được hình tượng nghệ thuật, học sinh cần phải biết kết hợp việc sử dụng một cách hợp lý tài liệu trực quan với việc độc lập dựa vào mô tả để tìm được hình tượng. Tưởng tượng, tái tạo, tham gia vào các hình thức tái tạo của học sinh. Hoạt động sáng tạo ở lứa tuổi này có rất nhiều vẻ. Và nhất là “phản ứng” với cái đẹp là cái mà đem lại cho người đọc khoái cảm thẩm mĩ xen lẫn cảm xúc của liên tưởng nhất là khi tác động đến cái đẹp đa dạng của hình tượng. Hệ thống câu hỏi này thiên về sự hình dung của người đọc. Những câu hỏi giúp học sinh xác nhận sự hình dung của mình dưới tác động của hình tượng văn học. Hệ thống này gồm hai loại tái hiện và tái tạo. (1). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tưởng tái hiện Hệ thống câu hỏi này đòi hỏi thầy và trò tự xác định bức tranh nghệ thuật trong tâm hồn mình khi đọc văn bản hoặc khêu gợi trí tưởng tượng trong và sau khi đọc. Ví dụ: Khi dạy đến bài ca : “Chiều chiều ra đứng ngõ sau” giáo viên có thể đặt câu hỏi. - Hỏi: Em hình dung như thế nào về bóng dáng người phụ nữ trong bài ca này? Hãy tả cho các bạn nghe. - Học sinh có thể trả lời theo sự tưởng tưởng của cá nhân mình: Đó là bóng dáng người phụ nữ cô đơn, đứng nơi ngõ sau trong buổi chiều hưu quạnh, đứng như tạc tượng vào không gian, cặp mắt đăm đăm ngóng trông về quê mẹ. * Chú ý: Những hình tượng có nội dung phong phú, có màu sắc cảm xúc là chổ dựa tốt để nắm vững bài học. Vai trò của giáo viên trong việc giáo dục năng lực tưởng tượng của học sinh là rất quan trọng, khéo léo dùng các biện pháp và phương pháp kích thích học sinh tạo nên các hình ảnh của những cái chưa bao giờ thấy “ tránh chủ quan và bịa đặt” (2). Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng tái tạo Những hình tượng của tưởng tượng tái tạo có ưu thế hơn những hình tượng của ký ức và học sinh hoạt động tích cực hơn, mặc dù có điều khiển các hình tượng này để cho chúng phản ánh hiện thực và đặc biệt là trong văn học nghệ thuật thậm chí phong phú hơn hiện thực cũng không phải là không có những tác dụng nhất định. Loại câu hỏi này đi vào những bức tranh nghệ thuật bộ phận, sắc sảo, tinh tế, có tính chất phát hiện sáng tạo. Trả lời được những câu gợi ý, những câu hỏi đó, minh họa được, tả lại được những cảnh tượng thể hiện sự rung động trong cảm thụ của người đọc và phản ánh cái yếu, cái mạnh của trò, có thể điều chỉnh hoặc để cho các em nhận xét về nhau, cũng có thể bồi dưỡng được. Ví dụ: Em hình dung như thế nào về cảnh tượng đám ma con cò trong bài ca dao “Con cò chết rũ trên cây” ? Hãy kể lại cho các bạn nghe. (3) Hệ thống câu hỏi phát hiện thủ pháp nghệ thuật Như chúng ta đã biết những bài ca dao được đưa vào SGK Ngữ Văn 7 có nhiều thủ pháp nghệ thuật khác nhau, mang nét đặc trưng của ca dao truyền thống. Đó là các thủ pháp nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, phóng đại (đã trình bày ở phần trên “Đặc điểm thi pháp nghệ thuật”, giáo viên cần sử dụng những câu hỏi để học sinh phát hiện được những thủ pháp nghệ thuật quen thuộc trong ca dao. - Ngoài ra, cũng như dạy các văn bản thuộc thể loại trữ tình giáo viên cần sử dụng những câu hỏi bình thường những chú ý phải có câu hỏi đi từ phân tích, giảng giải, nắm được nghĩa lý của kết cấu, hình tượng từ ngữ rồi đến câu hỏi bình. Sau khi tìm được cái hay về nội dung, nghệ thuật của bài ca dao dân ca giáo viên cần cho học sinh tìm những câu ca dao tương tự. Tư liệu về một bài ca dao khi thì cùng một đề tài, khi thì gần nhau ở cách diễn đạt, chúng nằm trong hệ những bài ca. Phải đặt được bài ca dao vào hệ thống, hệ đề tài của nó mới dễ xác định và từ đó mới có thể tạo thành tình huống cho giờ phân tích loại bài ca đặc biệt này. Ví dụ: Khi dạy bài ca dao “Công cha như núi ngất trời” giáo viên nên yêu cầu học sinh tìm những bài, những câu ca dao có nội dung tương tự. Đó là bài: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con. - Những bài ca dao có nội dung tương tự như bài “Chiều chiều ra đứng ngõ sau” như: - Chiều chiều xách giỏ hái rau Ngó lên mả mẹ ruột đau chín chiều - Chiều chiều ra đứng bờ sông Muốn về quê mẹ mà không có đò - Vẳng nghe chim vịt kêu chiều Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau Phần tổng kết. Một tác phẩm văn học là thành công bởi có sự đóng góp của hai yếu tố đó là nội dung và nghệ thuật. Phần tổng kết nội dung và nghệ thuật giáo viên nên sử dụng những câu hỏi để học sinh tự khái quát lại nội dung và tổng hợp các biện pháp nghệ thuật mà tác giả dân gian đã sử dụng trong bài ca (tránh trường hợp giáo viên gọi học sinh đọc ghi nhớ ngay). Hoặc có thể sử dụng sơ đồ tư duy, dạng bài tập trắc nghiệm để kiểm ta mức độ hiểu bài của học sinh. Phần luyện tập. Đa số các bài tập phần luyện tập đều hỏi về nội dung và nghệ thuật của những bài ca dao cùng đề tài nên giáo viên có thể kết hợp trong quá trình phân tích và phần tổng kết (trường hợp bài dài thì giao bài tập phần luyện tập cho học sinh về nhà làm). 1.1.4: Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn Văn bản như: Phương pháp dạy văn bản thông qua hoạt động, phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận Giáo viên cần áp dụng sáng tạo một số phương pháp khác như phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi học tập. 1.1.5: Giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích học sinh học bài, tìm tòi, sáng tạo. Ngoài giờ lên lớp, mỗi em học sinh hãy là một “cộng tác viên” đang tác nghiệp để làm đầy vốn ca dao – dân ca ở bản thân mình. Giaó viên có thể hướng dẫn, chia nhóm để các em thu thập các câu ca dao – dân ca theo từng chủ đề qua sách báo, ông bà, cha mẹ, những người lớn tuổi trong làng xã... Bởi ca dao – dân ca sản sinh từ nhân dân, từ những người lao động chân lâm tay bùn. Chính họ là tác giả, đồng thời là người hiểu rõ nhất tâm tình sâu kín ẩn chứa trong mỗi lời thơ, khúc nhạc đồng quê. 1.1.6. Để đạt được hiệu quả tốt nhất, người giáo viên phải nắm vững đối tượng học sinh cụ thể, mới có thể dạy học theo quan điểm phát triển, luôn đặt học sinh trong hoàn cảnh “khó khăn vừa sức” để vươn lên, mới tổ chức và điều khiển tốt quá trình dạy học, nhằm phát huy tính tích cực, hứng thú trong học tập và nâng cao ý thức vận dụng vốn kiến thức về ca dao – đân ca vào quá trình giao tiếp cũng như học tập các môn học khác. 1.1.7. Để nâng cao chất lượng dạy và học phần ca dao – dân ca thì người giáo viên cần có sự phối hợp với các tiết dạy của hai phân môn còn lại (Tiếng Việt và Tập làm văn) chứ không riêng gì tiết dạy của phân môn Văn bản. Đặc biệt, trong các tiết học phần Tiếng việt thì giáo viên nên chủ động liên hệ, phân tích kết cấu, các biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ, liệt kê... được ông cha ta vân dụng trong ca dao – dân ca. Từ đó để các em hiểu sâu sắc hơn nội dung, lối nói ví von của thể loại văn học dân gian đặc sắc này. Không chỉ tích hợp trong ba phân môn của bộ môn Ngữ văn mà giáo viên cần tích hợp liên môn với các môn học khác như: Âm nhạc (một số bài dân ca), Địa lí (Khi dạy các địa danh ở một số bài ca dao về chủ đề tình cảm với quê hương đất nước, con người), lịch sử... để đem lại cho học sinh cái nhìn tổng quan, sâu sắc nhất. 1.1.8. Một trong những phương pháp tích cực mà tôi đã vận dụng khi dạy ca dao - dân ca chính là phương pháp cho học sinh “Trãi nghiệm sáng tạo”. Từ những hoạt động trãi nghiệm ngắn chừng vài ba phút trên lớp như: đọc diễn cảm một bài ca dao. Hoặc phân vai đối đáp qua lại ở bài ca dao: “Ở đâu năm cửa nàng ơi...”. Cho đến những trãi nghiệm lớn về ca dao – dân ca ở các buổi hoạt động ngoại khóa ngoài giờ hay dịp văn nghệ 20/11 hằng năm. Qua các hoạt động trãi nghiệm sáng tạo, các em được học nhiều bài học bổ ích. Nó khiến cho học sinh thích thú, say mê, yêu hơn tiếng nói nhuần nhị, đằm thắm của ca dao – dân ca. Và cũng chình nhờ phương pháp này mà các em phát triển được rất nhiều năng lực tiềm ẩn trong bản thân mình. Các em hóa thân thành những “diễn viên nhí” tài năng, đáng yêu vừa là thế hệ nối tiếp đang lưu giữ, bảo tồn vốn văn hóa, văn học tốt đẹp của dân tộc Việt. Một số hình ảnh trong quá trình trải nghiệm sáng tạo, tìm hiểu về ca dao dân ca của học sinh Học sinh thực hiện sân khấu hóa bài ca dao : Ở đâu năm cửa nàng ơi Trải nghiệm sân khấu hóa của học sinh về các bài ca dao chủ đề tình yêu quê hương đất nước. 2. Đối với học sinh: 2.1. Để học tốt phần ca dao – dân ca, học sinh cần biết nhận diện chúng, đặc biệt là ca dao. Nhiều em cứ thấy bài thơ nào thuộc thể thơ lục bát là xếp vào ca dao. Cho nên điều đầu tiên học sinh cần có tâm thế tìm hiểu, nắm đặc trưng thể loại của ca dao – dân ca. 2.2. Không riêng gì học về ca dao – dân ca mà cả các tiết học khác, để học tốt, cảm thụ sâu sắc vấn đề thì khâu chuẩn bị bài vô cùng quan trọng. Các em cần chủ động soạn bài ở nhà theo sự hướng dẫn của thầy cô giáo. Có thể hình thành những mô hình học tập nhóm như: Đôi bạn cùng tiến, Nhóm bạn học tốt ... Thi đua giữa các nhóm để đưa thành tích, kiến thức ngày càng tiến bộ. 2.3. Mặt khác để đạt kết quả cao là tự bản thân các em hãy tích cực đọc sách, tích cực tìm hiểu về ca dao dân ca không chỉ qua thầy cô mà còn qua các thành viên lớn tuổi trong gia đình, lối xóm. Đặc biệt tham gia các hoạt động trong nhà trường, ngoài xã hội. Qua đó, các em có điều kiện rèn luyện thêm vốn sống, vốn hiểu biết làm hành trang cho bản thân mình. Đó là các gốc to, là những chùm rễ sâu cung cấp chất bỗ dưỡng cho kiến thức luôn xanh tươi, nở hoa, kết trái. c, Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp. Các giải pháp biện pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đòi hỏi phải thực hiện phối hợp từ hai phía cả thầy và trò thì mới có thể đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình thực hiện các giải pháp, biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học phần ca dao – dân ca cần có sự liên kết với các môn học khác nhằm đưa chất lượng không chỉ riêng kĩ năng phát hiện, cảm thụ văn học ở học sinh mà còn đào tạo các em trở thành những con người có tri thức toàn diện. d, Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng. * Kết quả khảo nghiệm: Để kiểm nghiệm tính hiệu quả của đề tài trên, trong năm học 2018-2019 tôi đã tiến hành áp dụng biện pháp trên đối với các lớp 7ª6 và 7ª7 để đối chiếu với kết quả của năm học 2015-2016. Sau một thời gian thực hiện đề tài, ứng dụng các phương pháp dạy học tích cực trên thì tôi thấy học sinh lớp 7ª6 và 7ª7 có áp dụng đề tài đã có bước chuyển biến rõ rệt, chất lượng dạy và học phần ca dao – dân ca được nâng cao. Đa số các em đã nắm được khái niệm, đặc điểm của ca dao – dân ca. Các em đã có kĩ năng và chủ động trong việc thưởng thức tác phẩm văn chương thuộc thể loại trữ tình dân gian. Nhiều em đã thực sự yêu thích bộ môn Ngữ văn, có em đã sưu tầm được khá nhiều bài ca dao – dân ca theo chủ đề và chép vào sổ tay văn học làm “vốn liếng” ngôn ngữ cho riêng mình. Chính những bnài ca dao này phần nào đã minh họa cụ thể, sinh động cho kiểu văn bản biểu cảm giúp các em dễ dàng tiếp nhận và thực hiện kiểu văn bản này. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn; tự tin say mê với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói “nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi lại thấy hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn ngữ văn, biết bộc lộ cảm xúc, biết ngân nga ngâm một vài câu ca dao. Cụ thể qua các lần kiểm tra bài cũ và kiểm tra 1 tiết phần văn bản ở tiết 42 (có nội dung kiến thức phần ca dao – dân ca)trong hai năm học 2015-2016 và 2018-2019 đã có sự chuyển biến rõ rệt. Kết quả cụ thể như sau: Năm học 2015-2016 Lớp Sĩ số Điểm dưới TB Điểm TB Điểm khá Điểm giỏi 7A4 30 7 14 7 2 7A5 31 9 13 8 1 Năm học 2018-2019 Lớp Sĩ số Điểm dưới TB Điểm TB Điểm khá Điểm giỏi 7A6 29 1 8 13 7 7A7 28 1 9 10 8 * Giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu, phạm vi và hiệu quả ứng dụng. Quá trình thực hiện khảo nghiệm của tôi qua bảy năm đứng lớp, tôi tin chắc rằng những gì tôi đã trình bày, đã viết sẽ đem đến sự chuyển biến trong việc tiếp cận, cảm thụ văn bản ca dao – dân ca ở các em. Trước hết là đã phá bỏ được mặc cảm của học sinh với môn Văn là môn trừu tượng, là môn ngại viết, ngại nghĩ. Không chỉ về phía học sinh mà đa số các giáo viên tham gia khảo nghiệm trên địa bàn Thị xã Buôn Hồ đều nhận thấy tính hiệu quả của các giải pháp, biện pháp trên. Chẳng hạn như cô giáo Vũ Thị Phương (Trường THCS Tô Vĩnh Diện), cô Nguyễn Thúy Hằng (Trường THCS Nguyễn Du), cô Quách Thị Trâm, Trần Thị Ánh Nguyệt (Trường THCS Nguyễn Trường Tộ) đều đã ứng dụng và cho được kết quả khả quan. Chất lượng học sinh được nâng lên rõ rệt. Như đã nói ở trên, câu hỏi: “Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học phần ca dao – dân ca ở bậc THCS?” không phải là mới. Tuy nhiên để trả lời thấu đáo câu hỏi này không phải là điều đơn giản, có thể làm được trong một, hay hai tiết dạy. Nó đòi hỏi kĩ năng nghiệp vụ sư phạm và lòng nhiệt tình ở mỗi giáo viên. Hệ thống các giải pháp, biện pháp trong đề tài này có khả năng vận dụng và đem lại hiệu quả cao. Mặt khác nó phù hợp với điều kiện thực hiện nhiệm vụ giáo dục trong thời đại mới, góp phần đổi mới phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Đề tài: Một số phương pháp dạy học tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy phần ca dao – dân ca ở bậc trung học cơ sở được xây dựng từ những kinh nghiệm thực tiễn của bản thân và các thầy cô giáo đồng nghiệp, tính khả thi rất cao, phù hợp với xu thế hiện nay, dễ học tập và áp dụng vào thực tiễn đem lại kết quả cao trong quá trình giảng dạy ở bậc Trung học cơ sở. III. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. Giảng dạy ca dao – dân ca là một hoạt động hội tụ được nhiều kĩ năng và tri thức, trong đó hạt nhân là kiến thức và kĩ năng xử lí những văn bản ca dao – dân ca (một thể loại trữ tình dân gian) cụ thể kết hợp với một kĩ năng tổ chức dạy học – kĩ năng sư phạm trước đối tượng là học sinh Trung học cơ sở. Tùy theo những bài ca dao – dân ca với đặc trưng thể loại và đề tài của nó mà người giáo viên tổ chức cho học sinh đọc tác phẩm, chỉ ra phương pháp phát hiện, sưu tập, lựa chọn, sử dụng sáng tạo như tư liệu nguồn để có thể khám phá ý nghĩa, giá trị của tác phẩm. Trên cơ sở giá trị đó mà tích hợp giá trị của nhân cách. Sự tích hợp này sẽ vừa mang bản sắc cá nhân, vừa có sắc thái cộng đồng – một điểm có thể trở nên rất mạnh, tùy thuộc vào tài năng, đức độ của người giáo viên và môi trường sư phạm. Để giảng dạy ca dao – dân ca có hiệu quả, hay dạy học theo phương pháp tích cực, chúng ta cần hiểu rõ rằng: Phương pháp tích cực thực chất sẽ xuất hiện ngay trong quá trình dạy học, mang sắc thái linh hoạt và phong cách của mỗi người. Và đó cũng chính là điều mà nền giáo dục của nước ta và nhiều nước khác đang hướng đến: Trao quyền sáng tạo cho mỗi cá nhân (học sinh và cả giáo viên). Trong thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật phát triển rất nhanh, môn Văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm xúc nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Bản thân tôi cũng như những đồng nghiệp luôn phấn đấu, tận tụy trong sự nghiệp “trồng người”. Hiện nay, trong ngành giáo dục đang phát động phong trào nói không với tiêu cực, cuộc vận động “hai không” với bốn nội dung, chúng ta không nên chạy đua theo thành tích, chỉ mãi lo truyền thụ những kiến thức mới mà bỏ lại những thiếu sót mà học sinh thường mắc phải trong quá trình tiếp thu tri thức, không quan tâm, uốn nắn, chỉnh sửa cho các em. Ta phải cố gắng tranh thủ trong một tiết học bất kỳ nào của bộ môn Ngữ văn, đừng bỏ qua những lỗi tưởng như nhỏ, bởi vì chính những lỗi nhỏ đó sẽ tạo ra lỗ hổng lớn về kỹ năng và nhân cách các em sau này. Sau khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẽ, tích cực hơn về phương pháp dạy và học phần ca dao – dân ca. Từ đó, rất hy vọng kết quả học Văn của các em sẽ tốt hơn; các em sẽ yêu thích, ham mê môn Văn hơn nữa. 2. Kiến nghị. Với đề tài này, mặc dù nó chưa thể nâng cao kết quả học tập của học sinh lên một bước nhảy vọt song nó cũng đã tạo ra được một sự chuyển biến rõ rệt. Vì vậy tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: * Đối với phụ huynh - Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình, đầu tư nhiều về thời gian cho con cái học tập, không để cho các em phụ giúp nhiều công gia đình. Hướng dẫn vào tạo cho con thói quen đọc sách; chia sẽ tư vấn, định hướng bồi dưỡng cho con để các em có nhiều thuận lợi trong việc học. Phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên bộ môn văn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập của con em mình. * Đối với tổ chuyên môn và BGH nhà trường Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn văn trong từng năm, từng tháng định kỳ để giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực nâng cao chất lượng dạy học môn văn. Đầu tư trang thiết bị, dụng cụ trực quan để hỗ trợ cho giáo viên giảng dạy. * Đối với địa phương Quản lý chặt chẽ các điểm kinh doanh Internet và các điểm dịch vụ không lành mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Quan tâm sát sao, hiệu quả đến chất lượng giáo dục ở địa phương, đầu tư cơ sở vật chất kịp thời cho việc dạy và học. Trên đây là một kinh nghiệm thực tế mà tôi đã áp dụng có hiệu quả phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh đồng thời rèn được kỹ năng cho các em. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp của mọi người và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi sẽ ngày càng được hoàn thiện hơn, vận dụng sẽ có hiệu quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự tham gia giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, các bạn bè đồng nghiệp, đặc biệt là những giáo viên dạy Ngữ văn trong trường Nguyễn Trường Tộ đã hỗ trợ tôi trong quá trình thực hiện và hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này! Thống Nhất, ngày 20 tháng 10 năm 2018 Người thực hiện Dương Thị Toan IV.TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Chỉ thị số 58 – CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ chính trị. 2. Chỉ thị số 55/2008/BGD & ĐT ngày 30/9/2008 của Bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo. 3. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6,7,8,9 – Nhà xuất bản Giáo dục năm 2006. 4. Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn THCS – Nhà xuất bản Giáo dục. 5. Tục ngữ ca dao, dân ca Việt Nam – Vũ Ngọc Phan – Nhà xuất bản Kim Đồng năm 2008. 6. Một số loại hình ca dao, dân ca – Phạm Văn Học – Nhà xuất bản Lao Động năm 2010. 7. Vào đời cùng lời ca dao – Phạm Đình Ân – Nhà xuất bản Kim Đồng năm 2012. 8. Văn học Việt Nam sử yếu – Dương Quảng Hàm – Nhà xuất bản Trẻ, năm 2005. 9. Văn học dân gian – cái hay, vẻ đẹp - Lê Xuân Mậu – Nhà xuất bản Lao Động, năm 2012. 10. Phân tích bình giảng thơ văn 7 – Tạ Đức Hiền – Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2009. 11. Giáo trình văn học dân gian Việt Nam – Nguyễn Bích Hà – Nhà xuất bản Đại học sư phạm, năm 2000.
File đính kèm:
- skkn_mot_so_phuong_phap_day_hoc_tich_cuc_nang_cao_chat_luong.doc