SKKN Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học Lịch sử dân tộc cho học sinh Lớp 12 Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Lý luận chung
Môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì vậy phương pháp dạy học môn Lịch sử rất phong phú, đa dạng, bao gồm các phương pháp hiện đại (thảo luận nhóm, đóng vai.) và các phương pháp truyền thống (trực quan, kể chuyện.). Để việc dạy học có hiệu quả, người giáo viên phải biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với bài học, với đối tượng học sinh nhằm tạo cho học sinh hứng thú học tập.
Theo luật giáo dục Việt Nam, "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tư duy, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tư tưởng tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh"
1.1.2. Khái quát về chương trình lịch sử dân tộc (lịch sử Việt Nam) lớp 12- Ban cơ bản
Chương trình lịch sử Việt Nam lớp 12 THPT hiện hành kéo dài từ năm 1919 – 2000 diễn ra theo một quá trình liên tục những sự kiện lớn: Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), cách mạng tháng Tám thành công với sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945), 9 năm kháng chiến chống Pháp với thắng lợi trận Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” năm 1954, kháng chiến chống Mỹ với Đại thắng mùa Xuân năm 1975 và công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay. Mỗi sự kiện là mốc đánh dấu một thời kỳ phát triển của lịch sử dân tộc.
Tiến trình lịch sử cách mạng đầy vẻ vang đó cũng luôn gắn liền với một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của nền văn học cách mạng. Những chiến công Lịch sử hào hùng của dân tộc chính là mảnh đất màu mỡ ươm mầm những tác phẩm bất hủ. Văn học gắn liền với Lịch sử, mỗi nhà văn, nhà thơ là một chiến sĩ hăng hái trên mặt trận văn hoá. Nền văn học cách mạng đã tái hiện rõ nét hình ảnh lịch sử oanh liệt của dân tộc trong thế kỷ XX.
n? Học sinh trả lời, giáo viên bổ sung như sau: - Tuyên ngôn khẳng định quyền bình đẳng tự do và sống sung sướng của mọi dân tộc. - Lên án thực dân Pháp chà đạp lên quyền sống của nhân dân ta và hai lần bán nước ta cho Nhật. - Nêu bật tinh thần dũng cảm chiến đấu của nhân dân ta chống Nhật - Pháp và vì vậy khi Pháp bỏ chạy, nhân dân ta dân ta đã giành được độc lập từ tay Nhật. - Khẳng định quyết tâm bảo vệ độc lập với chủ quyền dân tộc vừa giành lại được. Như vậy các em vừa được nhìn thấy hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh trên lễ đài trong giờ phút thiêng liêng, vừa được nghe được giọng của Người đọc Tuyên ngôn Độc lập. Hình ảnh ấy, giọng nói ấy tác động mạnh mẽ đến tình cảm của các em và lưu giữ lại trong trí nhớ của các em lâu hơn. 2.2.1.4. Ứng dụng công nghệ thông tin để tìm hiểu hình ảnh lịch sử Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu Ví dụ: Mục V, bài 21 - Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh chống đế quốc Mĩ và chính quyền Sài Gòn ở miền Nam (1954 - 1965). Khi trình bày về cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị của quân và dân ta trong chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt”. Phong trào đã thu hút đông đảo các tầng lớp tham gia. tôi chiếu hình ảnh sau đây và hỏi: Các em cho biết, đây là ai và đang làm gì ? (Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu để phản đối chính quyền Diệm) ? Bức ảnh nói lên điều gì (lòng dũng cảm, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống chính quyền Diệm của nhân dân ta...) Như vậy, bức ảnh đã khiến các em rất tò mò, xúc động và mong muốn khám phá nội dung của nó. 2.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm Thảo luận nhóm là hoạt động diễn ra thường xuyên trong các giờ học, nhưng giờ nào giáo viên cũng có hình thức tổ chức thảo luận như nhau sẽ dẫn đến sự nhàm chán, không kích thích được hứng thú làm việc của học sinh. Vì vậy, tôi đã thay đổi hình thức thảo luận như sau: Đối với những câu hỏi dễ, bắt buộc các nhóm phải trả lời theo chỉ định của giáo viên, hoặc giáo viên gọi trả lời trên tinh thần xung phong, nhưng không ghi điểm. Đối với những câu hỏi khó, tôi tổ chức thi giữa các nhóm và tiến hành như sau: Trước hết, tôi nêu câu hỏi, sau đó đưa ra thể lệ cuộc thi: "Để xin trả lời, một đại diện nhóm phải giơ tay, nhóm nào có tín hiệu sớm nhất sẽ giành được quyền trả lời. Nếu người đại diện trả lời đúng câu hỏi, cả nhóm sẽ được ghi điểm vào kiểm tra miệng, nhưng số điểm không đều nhau mà giảm hoặc tăng dần theo mức độ đóng góp của từng thành viên, trong đó người làm nhiệm vụ trả lời sẽ được điểm cao nhất. Nếu nhóm trước trả lời không đúng, cơ hội sẽ giành cho nhóm tiếp theo. Tuy vậy, dù nhóm này có trả lời đúng vẫn bị trừ đều mỗi thành viên một điểm, vì chưa có câu trả lời nhanh nhất" Ở lớp 12A, tôi đã áp dụng một số câu hỏi để thảo luận thi giữa các nhóm, ví dụ như: ? Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc có gì mới và khác lớp người đi trước (các nhà yêu nước như: Phan Bội Châu tìm sang các nước phương Đông như Nhật Bản, Trung Quốc gặp gỡ các chính khách của nước đó, xin họ giúp Việt Nam đánh Pháp và chọn phương pháp đấu tranh bạo động. Phan Châu Trinh chủ trương ôn hòa. Nguyễn Ái Quốc chủ trương sang phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, có khoa học kĩ thuật phát triển. Trong quá trình đó, Người bắt gặp chân lí cứu nước của chủ nghĩa Mác – Lê-nin và xác định con đường cứu nước theo Cách mạng tháng Mười Nga, con đường duy nhất đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại), (Bài 12- Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 - 1925) Thành quả của Cách mạng tháng Tám 1945 là gì? (giành được chính quyền), (Bài 16 – Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời) Thành quả của chiến dịch Hồ Chí Minh là gì? (giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước), (Bài 23 – Khôi phục và phát triển kinh tế xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975)) ... Lưu ý: Đối với những câu hỏi khó cần được khuyến khích, giáo viên không nên cho điểm dưới 5. Nếu những em điểm 5; 6; 7 muốn chờ cơ hội khác lấy điểm cao hơn, thì giáo viên cũng không ghi điểm vào sổ. Trong một bài, giáo viên chỉ nên tổ chức thi một câu để tránh mất nhiều thời gian. 2.2.3. Sử dụng yếu tố văn thơ trong dạy học lịch sử Tài liệu văn học là nguồn tư liệu quan trọng đối với dạy học lịch sử, nó có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, giáo dưỡng và phát triển học sinh. Bằng những hình ảnh cụ thể, các tài liệu, hình tượng văn học có tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm của người đọc. Văn học trình bày những nét đặc trưng, điển hình về kinh tế, chính trị, xã hộido đó giữa văn học và sử học có mối quan hệ khăng khít với nhau. Trong thực tế, khi tôi sử dụng thơ để hỗ trợ cho bài giảng, tôi thấy các em chăm chú lắng nghe, có khi tôi đọc đã xong các em còn yêu cầu đọc tiếp. Điều đó chứng tỏ sử dụng thơ vào giờ học lịch sử đã tạo được hứng thú cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy, để khai thác hiệu quả tài liệu văn học trong giảng dạy Lịch sử dân tộc tôi đã sử dụng các biện pháp sau: 2.2.3.1. Đưa vào bài giảng một đoạn thơ, đoạn văn ngắn nhằm minh họa những sự kiện đang học Một điểm quan trọng trong dạy học Lịch sử là tạo biểu tượng, tái hiện lại lịch sử để làm cho những sự kiện khô khan trở thành những hình ảnh sinh động, tác động thu hút trí tưởng tượng tư duy của học sinh, qua đó giúp học sinh ghi nhớ. Trong khi đó những đoạn văn, thơ ngắn phù hợp nội dung kiến thức thực sự là những bức tranh về ngôn ngữ hết sức sinh động mà không có ngôn từ hay đồ dùng dạy học nào thay thế được, sự mềm mại uyển chuyển của Văn học sẽ dễ dàng lôi cuốn và đi vào cảm xúc của học sinh hơn những sự kiện Lịch sử khô khan. Trong quá trình giảng dạy Lịch sử, giáo viên thực hiện biện pháp này không quá khó mà lại có hiệu quả và ý nghĩa to lớn trong việc làm cho nội dung bài học phong phú, giờ học sinh động, khắc sâu kiến thức cơ bản và trọng tâm. Ví dụ: Dạy bài 12: Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919- 1925 Phần II- Mục 3: Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc. Giáo viên cần làm cho học sinh nắm được các mốc lịch sử quan trọng trong hoạt động của Người và ý nghĩa của sự kiện đó. Trong số những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925 cần khắc sâu sự kiện giữa năm 1920 đọc Bản sơ thảo Luận cương của Lê Nin về "Vấn đề dân tộc và thuộc địa". Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, cái mà người đã tìm kiếm bao năm qua, mở ra con đường giải phóng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc về đường lối của phong trào cách mạng Việt Nam. Phút giây đọc được Luận cương của Lê Nin đánh dấu sự thay đổi về chất trong tư tưởng cứu nước của Nguyễn ái Quốc. Sau này (năm 1960), Người kể lại cảm xúc của mình khi đọc Luận cương : "Luận cương của Lê Nin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đoạ đày, đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta! Từ đó tôi hoàn toàn tin theo Lê Nin, tin theo Quốc tế thứ III". Khẳng định cho dân tộc một con đường đi đúng đắn - Cách mạng vô sản, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng bế tắc về đường lối. Đây là công lao to lớn nhất đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc đối với dân tộc Việt Nam. Sẽ không có ngôn ngữ nào có thể sinh động hơn, cảm động hơn để diễn tả nỗi vui mừng của Người, khắc sâu sự kiện và làm rõ được ý nghĩa của nó bằng những câu thơ của Chế Lan Viên trong tác phẩm "Người đi tìm hình của nước". "Luận cương đến với Bác Hồ và Người đã khóc Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lê Nin Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách Tưởng bên ngoài đất nước đợi mong tin." Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy lập trường của Liên Xô và Quốc tế Cộng sản hoàn toàn ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa phương Đông. Người đã tìm thấy ở bản Luận cương này vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa. Người vui mừng đến phát khóc lên vì tìm thấy con đường cứu nước giải phóng dân tộc. Ví dụ: Dạy bài 18: Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược 1946-1950. Mục I: Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ Giáo viên cần phải giúp học sinh nắm được: Vì sao cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ ngày 19 tháng 12 năm 1946? Một mặt hướng dẫn học sinh nắm các sự kiện bội ước và quyết tâm cướp nước ta một lần nữa của Pháp, đồng thời phân tích "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" của Chủ tịch Hồ Chí Minh để thấy được khả năng đấu tranh ngoại giao hoà bình giữa ta và Pháp là không còn nữa. Thực dân Pháp đã buộc ta phải cầm súng đứng lên để bảo vệ nền độc lập dân tộc. “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh) 2.2.3.2. Dùng một đoạn trích để cụ thể hoá sự kiện, nêu ra một kết luận khái quát giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn một thời kỳ, một sự kiện lịch sử Ví dụ: Dạy bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và Tổng khởi nghĩa tháng Tám (1939-1945). Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời Để phác hoạ, miêu tả tình cảnh nhân dân ta dưới hai từng áp bức Pháp, Nhật nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh để các em nhận thức được lúc này nhiệm vụ giải phóng dân tộc là hàng đầu và bức thiết. Giáo viên miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp cuối 1944 đầu 1945 làm hai triệu người chết đói, giáo viên dùng đoạn trích trong tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân: “Cái đói tràn đến xóm từ lúc nào. Những gia đình từ vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt dìu nhau lên xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết như ngả ra. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ,đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm quằn queo bên đường. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưỡi và mùi gây của xác người”. Chính trong hoàn cảnh đó Tràng nhặt được vợ. Sáng hôm sau bà mẹ nấu bữa cơm đón con dâu mới với niềm vui phấn khởi. “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành” “Niêu cháo lõng bõng, mõi người được có hai lưng bát đã hết nhẵn”. “Bà lão lật đật chạy xuống bếp, lề mề bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút” bà múc cho con dâu, cho Tràng và nói “Cám đấy mày ạ!.Hì. Ngon đáo để. Cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả còn cám mà ăn đấy!”. “Ngoài đình trống thúc thuế đánh dồn”. “Trong đầu Tràng thấp thoáng lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người đi cướp kho thóc của Nhật” Giáo viên dừng lại và nhận xét: “Nông dân sống cầm hơi bằng hớp cháo cám nhạt và mình trần chịu rét lúc đêm đông”, các tầng lớp giai cấp khác cũng không kém phần khốn đốn Mâu thuẩn dân tộc gay gắt “Cả Việt Nam giống như một đồng cỏ khô. Chỉ cần một tàn lữa nhỏ sẽ bùng lên thiêu cháy bè lũ cướp nước và bán nước”. Hoặc nói đến tình cảnh người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám 1945 đói khổ ta không thể không nhắc đến nhân vật chị Dậu trong “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố (phải bán cả con và đàn chó để lấy tiền nộp sưu); hay nhân vật lão Hạc của nhà văn Nam Cao (Lão có một hoàn cảnh gia đình bất hạnh: vợ lão mất sớm, còn một người con trai thì anh ta vì phẫn chí mà bỏ đi làm cao su. Lão Hạc còn lại một mình với một mảnh vườn và một con chó vàng. Con chó ấy là của anh con trai để lại, lão cưng chiều nó như con, luôn miệng gọi “cậu Vàng”. Nhưng cuộc sống khốn khó, lão bán chó để dành mảnh vườn cho con dù vô cùng đau khổ, dằn vặt. Lão mang tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ ông trông coi mảnh vườn. Không muốn phiền đến mọi người, lão từ chối hết thảy sự giúp đỡ của ông giáo. Nhưng rồi lão Hạc bỗng nhiên chết – cái chết thật dữ dội, đau đớn); đặc biệt phải kể đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao từ một người nông dân hiền lành đã bị xã hội thuộc địa nửa phong kiến đó biến thành “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại, bị bần cùng hóa và cuối cùng cũng phải tìm đến cái chết. 2.2.3.3. Sử dụng tài liệu văn học trong việc kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh Trong giai đoạn hiện nay thực hiện đổi mới giáo dục toàn diện trong đó có kiểm tra đánh giá. Đến thời điểm hiện tại Văn – Sử - Địa, đề thi vẫn theo phương pháp tự luận. Để đánh giá khách quan và chính xác học sinh thì hướng đổi mới trong cách ra đề đang được nhiều người quan tâm. Đó là ra theo lối “Đề mở” để đánh giá năng lực vận dung của học sinh trong quá trình làm bài. Đối với môn Lịch sử, trong phương pháp ra đề mở giáo viên có thể dùng kiến thức văn học để làm đề kiểm tra cho học sinh, vừa hấp dẫn vừa kiểm tra đánh giá được thực chất kết quả dạy học. Đồng thời góp phần tác động vào tư tưởng tích cực học tập, tìm tòi của học sinh, phát triển tư duy nhận thức cho các em. Ví dụ: “Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm mưa dầm, cơn vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn” (Tố Hữu) Là những câu thơ diễn tả về diễn biến chiến dịch nào? Anh (chị) hãy trình bày hoàn cảnh, diễn biến, kết quả ý nghĩa của chiến dịch đó. 2.2.4. Sử dụng yếu tố âm nhạc trong dạy học lịch sử Từ xa xưa, nhân dân ta đã biết sử dụng thơ ca để truyền đạt thông tin, vì thông tin qua hình thức đó làm cho người nghe, người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ đi vào lòng người. Trong thực tế, âm nhạc đã từng làm nên những điều kì diệu, âm nhạc có thể làm thay đổi cảm xúc của con người. Con người thường dùng âm nhạc để ca ngợi cái đẹp và hướng tới cái đẹp, vì vậy đã có rất nhiều ca khúc, ca ngợi các anh hùng dân tộc, ca ngợi những chiến công, ca ngợi tinh thần vượt qua khó khăn gian khổ, sự hi sinh anh dũng của quân và dân ta trong lịch sử chống ngoại xâm. Một bài hát với lời ca rộn ràng, hùng tráng phù hợp với nội dung bài học, được dạo lên trước một giờ học mới sẽ làm vơi đi sự mệt mỏi, tạo sự sảng khoái để bước vào một giờ học hiệu quả hơn, đồng thời còn có tác dụng giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc. Vì vậy, tôi đã sử dụng yếu tố âm nhạc vào dạy học lịch sử. Ví dụ, khi dạy bài khi dạy bài 20 - Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc, sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng Điện Biên" (Đỗ Nhuận) rồi giới thiệu bài mới. Bài hát mang âm hưởng làn điệu dân ca Tây Bắc dặt dìu và làn điệu chèo mượt mà của đồng bằng Bắc Bộ, với tiếng kèn thắng trận hùng tráng. Nhịp điệu âm nhạc trong bài hát là nhịp chân điệu múa xòe hoa của các cô gái Thái, xen lẫn nhịp bước hành quân của các chiến sĩ Điện Biên. Bài hát sẽ tạo một tâm trạng sôi nổi háo hức, để các em đi vào bài học một cách hứng thú hơn. Khi dạy bài 23 – Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973 - 1975) sau khi kiểm tra bài cũ, tôi cho các em nghe một đoạn ngắn bài hát "Giải phóng miền Nam" (Lưu Hữu Phước) rồi giới thiệu bài mới. Nội dung bài hát là lời thôi thúc, cổ vũ, hiệu triệu toàn quân, toàn dân ta tiến lên tiêu diệt kẻ thù. Như vậy, ngay từ đầu đã tạo được không khí phấn khởi cho các em. 2.3. Kết quả Sau một thời gian dạy – học (từ tháng 11/2016 đến tháng 2/2017), tôi áp dụng các biện pháp trên (sử dụng công nghệ thông tin, làm việc nhóm, sử dụng tài liệu văn thơ, âm nhạc) trong dạy học lịch sử dân tộc từ 1919-1975, qua các bài kiểm tra miệng, 15 phút, 1 tiết, học kỳ tôi thấy điểm bài làm của các em đã khá lên, đặc biệt là lớp 12A thì kết quả tăng lên đáng kể: Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 12A 26 1 3,8 16 61,5 9 34,7 0 0 0 0 12B 26 0 0 6 23,1 20 76,9 0 0 0 0 KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận “Dân ta phải biết sử ta” không chỉ là mối quan tâm của Bác, đó cũng là nỗi trăn trở của những giáo viên dạy môn lịch sử, chúng tôi luôn mong muốn học sinh của mình hiểu được nội dung bài, hiểu được lịch sử của dân tộc từ đó các em sẽ cảm thấy yêu thương gắn bó với quê hương đất nước mình hơn. Các phương pháp trên đã và sẽ được áp dụng tại Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo và cũng đạt được kết quả phát huy được tính tích cực của học sinh, rèn được kĩ năng tổng hợp, phân tích, so sánh, các em biết sử dụng sách giáo khoa, vận dụng kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới. Giúp học sinh hiểu bài nhanh, thu hút sự cảm hứng đối với môn học này và học sinh có thể hiểu và nhớ bài ngay tại lớp, đồng thời giúp học sinh nhận thức được một cách sâu sắc về vị trí tầm quan trọng của lịch sử trong xã hội mà bấy lâu nay hầu như các em chưa mấy quan tâm. Qua những đoạn văn, đoạn thơ, những hình ảnh, những giai điệu âm nhạc mà giáo viên sử dụng trong bài học sẽ bồi đắp thêm lòng yêu nước của các em từ những tấm gương anh hùng của lịch sử dân tộc trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm và trong xây dựng đất nước đi theo chủ nghĩa xã hội. 2. Kiến nghị Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Biện pháp sử dụng tài liệu văn học trong dạy học lịch sử đã phần nào tạo hứng thú cho học sinh để các em rèn phương pháp tự học. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thị Côi, Đoàn Văn Hưng, (2008), Thiết kế và sử dụng bản đồ giáo khoa điện tử trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, Tạp chí thiết bị Giáo dục, số 35. [2] Nguyễn Thị Côi (Chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng và các tác giả, (2009), Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [3] Vũ Văn Dụ, (2007), Các trường ĐHSP với việc thực hiện chương trình THPT phân ban, Tạp chí Giáo dục, số 156. [4] N.G.Đairi, (1973), Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào, NXB Giáo dục, Hà Nội. [5] Đảng Cộng Sản Việt Nam, (1997), Văn kiện Hội nghị lần 2, Ban chấp hành Trưng Ương khóa VIII (02/QG/HNTW,24/12/1996), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6] Nguyễn Mạnh Hưởng, (2010), Đặc trưng của việc dạy – học lịch sử và con đường hình thành kiến thức cho học sinh với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, Tạp chí Giáo dục, số 235. [7] Nguyễn Mạnh Hưởng, (2011), Nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử ở trường THPT với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội. [8] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, (2009), Phương pháp dạy học lịch sử tập 1, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [9] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, (2009), Phương pháp dạy học lịch sử tập 2, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội, Hà Nội. [10] Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), (2011), Ngữ văn 12 tập hai, Nxb Giáo dục [11] Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên), (2012), Ngữ văn 12 tập một, Nxb Giáo dục [11] Tạ Minh, (1982), Xây dựng hệ thống đồ dùng trực quan để giảng dạy phần lịch sử Việt Nam từ 1919 - 1929, Luận văn sau đại học. [12] Trịnh Đình Tùng, (2007), Để nâng cao chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở trường phổ thông, Tạp chí Giáo dục, số 155. [13] Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Mạnh Hưởng, (2009), Hướng dẫn sinh viên ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng hồ sơ tư liệu trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông, Tạp chí Giáo dục, số 228. Website: google.com.vn Vietnamnet.vn (Báo điện tử Việt Nam net) vtv.vn
File đính kèm:
- skkn_mot_so_kinh_nghiem_su_dung_phuong_phap_gay_hung_thu_tro.doc